Thứ tư, về chi phí đo vẽ là một trong
những chi phí tố tụng. Tuy nhiên, Mục 2
chương IX Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về các chi phí tố tụng khác (ngoài án phí, lệ
phí Tòa án) chỉquy địnhvề chi phí giám định,
định giá tài sản, chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ, chi phí cho người làm chứng, người
phiên dịch, luật sư mà không có điều nào quy
định về chi phí cho việc đo vẽ và cũng không
có điều luật nào quy định rằng chi phí cho
việc đo vẽ không phải một trong những chi
phí tố tụng khác và không cho phép Tòa án
thu tiền của đương sự để chi cho việc đo vẽ.
Vì vậy, việc các Tòa án hiện nay vẫn xác định
chi phí cho việc đo vẽ là chi phí tố tụng khác
và thực hiện việc thu, chi liên quan đến hoạt
động tố tụng này là không sai. Tuy nhiên, Bộ
luật dân sự lại không đề cập đến chi phí đo
vẽ khi đương sự có yêu cầu, gây khó khăn
cho Tòa án khi lấy căn cứ yêu cầu đương sự
đóng tiền đo vẽ.
Ví dụ như sau: Ông A khởi kiện ông B
vì cho rằng ông B lấn sang đất của ông A
khoảng 100m2. Sau khi Tòa án thụ lý giải
quyết vụ án, ông A đã có đơn yêu cầu đo
vẽ, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản. Tòa án tiến hành các thủ tục đo vẽ,
xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài
sản theo yêu cầu của ông A, nhưng sau khi
có kết quả đo vẽ của Chi nhánh Văn phòng
huyện C thì ông B không đồng ý với kết quả
đo vẽ. Sau đó ông B làm đơn yêu cầu Tòa án
đo vẽ lại mà không yêu cầu xét thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản, Tòa án ra Thông
báo đóng tiền tạm ứng chi phí đo vẽ thì ông
B đóng tạm ứng 3.000.000 đồng nhưng khi
có kết quả đo vẽ thì ông B tiếp tục không
đồng ý và không chịu đóng thêm tiền đo
vẽ phát sinh thêm. Vậy, trong trường hợp
này Tòa án căn cứ quy định của pháp luật
ra Thông báo cho ông B thì sẽ không có căn
cứ vì BLTTDS không hề đề cập đến chi phí
đo vẽ hay chi phí tố tụng khác.
Do không có quy định cụ thể về trình
tự thủ tục thu, chi, xác định trách nhiệm
của các bên đương sự liên quan đến loại
chi phí này nên mỗi Tòa án thực hiện một
cách khác nhau, trong cùng một Tòa án, mỗi
Thẩm phán cũng có cách thực hiện khác
nhau, thậm chí cùng một Thẩm phán nhưng
cũng có những vụ án thực hiện không giống
nhau; nhưng nhìn chung, các Tòa án đã áp
dụng các nguyên tắc chung của Bộ luật tố
tụng dân sự quy địnhvề các chi phí tố tụng
khác tại Mục 2 chương IX Bộ luật này trong
việc đo vẽ và thực tế chi phí được vận dụng
một cách linh hoạt tùy thuộc vào từng vụ án
cụ thể trên tinh thần tiết kiệm chi.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 180 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số khó khăn, vướng mắc về thủ tục đo vẽ trong các vụ án dân sự liên quan đến tranh chấp đất đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC ĐO VẼ
TRONG CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
BÙI AI GIÔN *
Thủ tục đo vẽ trong các vụ án dân sự tranh chấp liên quan đến đất đai là
một trong những thủ tục quan trọng và bắt buộc để làm sáng tỏ vụ án. Tuy
nhiên, thực tiễn xét xử vẫn chưa được quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và
thành phần tiến hành đo vẽ để Tòa án làm căn cứ thi hành trên thực tế. Vì vậy,
thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua không ít các vụ án tranh chấp liên quan
đến đất đai được Tòa án tạm đình chỉ giải quyết do nguyên nhân chờ kết quả
đo vẽ.
Từ khóa: Thủ tục đo vẽ đất, tranh chấp dân sự, vụ án dân sự, tranh chấp
đất đai, chi phí đo vẽ, chi phí tố tụng.
Topography in the civil cases related to land dispute is one of the most
crucial and compulsory procedures for cracking the case. However, in the
practice of adjudication, there has yet to have any specific regulations on the
order, procedure and components of the topography for the Court to serve
as basis for application. As a result, the adjudication in practice during the
last few years has had a large number of disputes related to land which was
suspended because of waiting for the results of topography.
Keywords: Land topography procedures, civil disputes, civil cases, land
disputes, topography costs, proceeding costs.
Hiện nay, thủ tục đo vẽ đất tranh chấp trong các vụ án dân sự liên quan đến tranh chấp đất đai là
một trong những thủ tục quan trọng và
cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án
như vụ án tranh chấp lối đi chung, ai là
người có quyền sử dụng đất, tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng đất, nhưng
thực tiễn xét xử và trên góc độ nghiên
cứu khoa học vẫn chưa được quan tâm và
phân tích. Trên thực tế xét xử, có không
ít các vụ án dân sự tranh chấp liên quan
đến đất đai được tiến hành thủ tục đo vẽ
nhưng khi xét xử ở cấp phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm lại bị hủy, sửa do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, việc quy
định hướng dẫn cụ thể thủ tục đo vẽ và bổ
sung chế định này trong pháp luật tố tụng
dân sự là một trong những biện pháp
nâng cao chất lượng xét xử, khắc phục
tình trạng án quá hạn trong thời gian vừa
qua. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề
cập đến những nội dung khó khăn, vướng
mắc về thủ tục đo vẽ và đề xuất kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
Thứ nhất, cần phân biệt về trình tự, thủ
tục và thành phần đo vẽ khác so với xem
xét thẩm định tại chỗ. Đối với thủ tục xem
* Thạc sĩ, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
BÙI AI GIÔN
37Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
xét thẩm định tại chỗ được thực hiện theo
yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy
cần thiết, Thẩm phán tiến hành việc xem
xét, thẩm định tại chỗ với sự có mặt của đại
diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công
an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm
định và phải báo trước việc xem xét, thẩm
định tại chỗ để đương sự biết và chứng
kiến việc xem xét, thẩm định đó(1). Trong
khi đó, trình tự, thủ tục và thành phần đo
vẽ đất tranh chấp trong các vụ án dân sự
liên quan đến tranh chấp đất đai không
được đề cập đến trong Bộ luật Tố tụng dân
sự (BLTTDS) năm 2015 cũng như các văn
bản hướng dẫn có liên quan. Đây có thể là
một trong những thủ tục thiếu sót và thực
tế nguyên nhân dẫn đến tình trạng án quá
hạn do tạm đình chỉ trong thời gian vừa
qua. Trên cơ sở thực tiễn xét xử thì thủ tục
đo vẽ và thủ tục tố tụng xem xét thẩm định
tại chỗ có một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thủ tục
đo vẽ và thủ tục tố tụng xem xét thẩm
định tại chỗ là giống nhau và được quy
định tại Điều 101 BLTTDS năm 2015. Bởi
lẽ, thủ tục xem xét thẩm định tại chỗ là
xem xét và thẩm định lại hiện trạng tài sản
tranh chấp trước sự chứng kiến của đại
diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công
an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm
định. Vì vậy, nội hàm thủ tục xem xét thẩm
định tại chỗ cũng đã bao hàm thủ tục đo
vẽ nên thực tiễn Thẩm phán thường áp
dụng quy định tại Điều 101 BLTTDS năm
2015 để thực hiện đo vẽ và xem xét thẩm
1 Xem Điều 101 BLTTDS năm 2015.
định tại chỗ. Trên thực tế, khi đương sự có
đơn yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản đối với vụ án tranh chấp
đất đai thường được Tòa án hướng dẫn
đương sự viết đơn kèm theo thủ tục đo
vẽ đất tranh chấp, từ cơ sở đó Tòa án tiến
hành thông báo cho đương sự đóng tạm
ứng chi phí để tiến hành các thủ tục đo vẽ
theo yêu cầu của đương sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Thủ tục đo
vẽ và thủ tục tố tụng xem xét thẩm định
tại chỗ quy định tại Điều 101 BLTTDS
năm 2015 là hai thủ tục tố tụng hoàn toàn
khác nhau về trình tự, thủ tục và thành
phần thực hiện.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ
2, bởi lẽ thực tiễn áp dụng thủ tục đo vẽ và
thủ tục tố tụng xem xét thẩm định tại chỗ
là khác nhau và cách thức thực hiện cũng
có nhiều điểm khác biệt:
Một là, thủ tục xem xét thẩm định tại
chỗ quy định tại Điều 101 BLTTDS năm
2015 được Tòa án tiến hành việc xem xét
thẩm định tại chỗ với sự có mặt của đại
diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công
an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm
định việc xem xét thẩm định tại chỗ là
thủ tục xem xét, thẩm định, mô tả rõ
hiện trường. Tức là Tòa án tiến hành xem
xét hiện trạng đất thực tế đang sử dụng
có các công trình xây dựng, cây cối hay
công trình phụ gì trên đất hay không? Ví
dụ: Tòa án tiến hành xem xét thẩm định
tại chỗ đối với diện tích tranh chấp 200m2
với nội dung ghi nhận trên đất tranh chấp
có các công trình như một căn nhà cấp 4
MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC ĐO VẼ...
38 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
rộng khoảng 100m2, tường xi măng, nền
lát gạch men, mái lợp tôn được bị đơn
xây dựng từ năm 2010 đến nay; ngoài
ra có công trình phụ là nhà vệ sinh tách
biệt nằm phía sau có diện tích 15m2 và
03 cây xanh được trồng từ năm 2010 đến
nay. Tòa án tiến hành lập biên bản xem
xét thẩm định tại chỗ ghi nhận hiện trạng
đất và công trình xây dựng cùng cây cối
trên đất có sự chứng kiến và ký xác nhận
của chính quyền địa phương cấp xã.
Còn đối với thủ tục đo vẽ đất tranh
chấp được Tòa án tiến hành do Cơ quan
chuyên môn về đất đai thực hiện, cụ
thể hiện nay thường là Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai cấp huyện nơi
có đất tranh chấp. Như vậy, thành phần
tiến hành thủ tục đo vẽ và xem xét thẩm
định tại chỗ hay định giá tài sản là hoàn
toàn khác nhau nhưng hiện nay BLTTDS
không hề quy định trình tự, thủ tục đo vẽ
gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình
giải quyết vụ án.
Ví dụ 1: Ông A khởi kiện ông B ra
Tòa án nhân dân huyện X vì ông A cho
rằng ông B tự ý rào lối đi chung trước cửa
nhà ông A nên gia đình ông A không có
lối đi để ra đường chung. Trong quá trình
giải quyết, ông A yêu cầu Tòa án nhân
dân huyện X tiến hành thủ tục đo vẽ đất
tranh chấp để xác định ông B đã tự ý lấn
sang đường đi chung và Tòa án nhân dân
huyện X đã cùng Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện X tiến hành thủ tục
đo vẽ đất tranh chấp. Kết quả đo vẽ được
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện X cung cấp xác định ông B đã tự ý
lấn sang đường đi chung.
Ví dụ 2: Tại cấp sơ thẩm Tòa án đã
tiến hành thủ tục xem xét thẩm định tại
chỗ, đo vẽ và định giá tài sản. Vì không
đồng ý với bản án sơ thẩm nên ông B
đã kháng cáo bản án sơ thẩm và tại cấp
phúc thẩm ông B đã làm đơn yêu cầu Tòa
án xem xét thẩm định tại chỗ và đo vẽ
lại. Sau khi có kết quả đo vẽ lại của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện
Z, ông B không đồng ý mà tiếp tục làm
đơn yêu cầu đo vẽ mà không yêu cầu xem
xét, thẩm định tại chỗ và yêu cầu Cơ quan
chức năng khác tiếp tục đo vẽ mà không
phải Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện Z.
Vấn đề đặt ra trên 2 ví dụ trên có thể
thấy thực tiễn xét xử mặc dù luật không
quy định cụ thể thủ tục đo vẽ đất tranh
chấp, tuy nhiên khi vận dụng trong thực
tế Tòa án thường kết hợp thủ tục xem xét
thẩm định tại chỗ với đo vẽ để khi đương
sự có yêu cầu để tiến hành các thủ tục tố
tụng. Tuy nhiên, đối với những vụ án mà
sau khi xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ
lần đầu mà đương sự không đồng ý với
kết quả đo vẽ thì có nhất thiết phải tiến
hành xem xét thẩm định tại chỗ nữa hay
không? Hay chỉ cần tiến hành duy nhất
thủ tục đo vẽ và thực tiễn các đương sự
cũng không yêu cầu Tòa án xem xét thẩm
định tại chỗ mà chỉ yêu cầu đo vẽ lại đất
tranh chấp vì kết quả xem xét thẩm định
tại chỗ đã có và các đương sự đều đồng
ý và không có tranh chấp hay thắc mắc
gì. Hoặc đối với trường hợp đất tranh
chấp không có công trình, cây cối gì và
các đương sự đồng ý thống nhất hòa giải
thành yêu cầu Tòa án tiến hành thủ tục đo
BÙI AI GIÔN
39Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
vẽ lại đất tranh chấp thì có bắt buộc thủ
tục xem xét thẩm định tại chỗ hay không?
Hai là, khi đương sự có đơn yêu cầu đo
vẽ đất tranh chấp đến Tòa án để yêu cầu
Tòa án liên hệ Cơ quan chuyên môn về đất
đai tại địa phương để tiến hành thủ tục đo
vẽ. Tòa án sẽ dự tính một khoản chi phí
đo vẽ để yêu cầu đương sự đóng tạm ứng
chi phí. Tòa án sẽ tiến hành mời cơ quan
chuyên môn tại địa phương là Chi nhánh
Văn phòng đất đai cấp huyện nơi có đất
tranh chấp và khác so với thủ tục xem xét
thẩm định tại chỗ khi Tòa án mời đại diện
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
có đối tượng cần xem xét, thẩm định.
Ba là, trình tự thủ tục đo vẽ khác so
với thủ tục xem xét thẩm định tại chỗ. Bởi
việc đo vẽ được thực hiện do Cơ quan
chuyên môn về đất đai tại địa phương
nơi có đất tranh chấp trên cơ sở tiến hành
do sự chỉ ranh giới đất của các đương
sự gồm tứ cận đông, tây, nam, bắc; phần
đất thực tế đang sử dụng; phần đất tranh
chấp và trên cơ sở lồng ghép sơ đồ được
cấp giấy chứng nhận quyền sử đất đã
được cơ quan Nhà nước ghi nhận(1). Kết
quả đo vẽ do Cơ quan chuyên môn về
đất đai tại địa phương nơi có đất tranh
chấp cung cấp cho Tòa án sau khi có kết
quả. Còn đối với thủ tục xem xét thẩm
định tại chỗ thực hiện trên cơ sở xem xét
hiện trạng thực tế đất tranh chấp mà các
đương sự đang sử dụng và kết quả của
việc xem xét, thẩm định tại chỗ được Tòa
án ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi
1 Xem Thông tư 25/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng
5 năm 2014.
rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ
hiện trường, có chữ ký của người xem
xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ
của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi có đối tượng được xem xét, thẩm định
và những người khác được mời tham gia
việc xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong
biên bản, người xem xét, thẩm định phải
yêu cầu đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng được
xem xét, thẩm định ký tên và đóng dấu
xác nhận.
Từ những phân tích nêu trên, theo
quan điểm tác giả, thủ tục đo vẽ cần được
hướng dẫn cụ thể trong pháp luật tố tụng
dân sự như là một trong những thủ tục
thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án và
Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ
thể quy định trình tự, thủ tục đo vẽ để làm
cơ sở cho Tòa án tiến hành các thủ tục đo
vẽ theo luật định.
Thứ hai, hiện nay thực tiễn xét xử
không ít các vụ án dân sự tranh chấp liên
quan đến đất đai lấy lý do tạm đình chỉ
chờ kết quả đo vẽ quy định tại Điều 214
của Bộ luật Tố tụng dân sự “Cần đợi kết quả
thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập
chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp
tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới
giải quyết được vụ án”. Vấn đề đặt ra trong
trường hợp này là kết quả đo vẽ có thuộc
trường hợp quy định nêu trên hay không
và và trường hợp Cơ quan chuyên môn
về đất đai chậm giao kết quả cho Tòa án
thì sẽ xử lý như thế nào? Vấn đề này đặt
MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC ĐO VẼ...
40 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
ra một số khó khăn cho Thẩm phán trong
quá trình giải quyết vụ án, bởi:
Một là, thời hạn chuẩn bị xét xử đối
với vụ án dân sự theo quy định tại Điều
203 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“a) Đối với các vụ án quy định tại
Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời
hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều
30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn
là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp
hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan thì Chánh án Tòa án có thể
quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét
xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ
án thuộc trường hợp quy định tại điểm a
khoản này và không quá 01 tháng đối với
vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm
b khoản này”.
Đối với các vụ án dân sự liên quan
đến tranh chấp đất đai thì kể từ khi thụ
lý vụ án cho đến khi Tòa án thu thập tài
liệu, chứng cứ thường mất rất nhiều thời
gian. Sau khi, Tòa án đã thu thập đầy
đủ tài liệu, chứng cứ như lời khai của
các đương sự, hồ sơ và trình tự cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất Tòa
án sẽ tiến hành các thủ tục xem xét thẩm
định tại chỗ, đo vẽ, định giá tài sản. Đối
với các thủ tục như thẩm định tại chỗ,
định giá tài sản thì kết quả được lập trong
biên bản tại buổi thẩm định tại chỗ, định
giá tài sản nhưng đối với kết quả đo vẽ
thì để có kết quả thì thường khá lâu bởi
phụ thuộc vào quá trình cung cấp nhanh
hay chậm của Cơ quan tiến hành đo vẽ
nếu nhanh có thể 15 ngày hoặc chậm thì
một tháng, hai tháng mà hiện nay pháp
luật Tố tụng dân sự vẫn chưa có quy định
cụ thể. Kết quả đo vẽ được Cơ quan tiến
hành đo vẽ cung cấp cho Tòa án nhưng
thường thì không phải lúc nào kết quả đo
vẽ cung chính xác vì khi tiến hành đo vẽ
theo sự chỉ ranh thực tế đất sử dụng của
các đương sự có sự phức tạp và kết quả đo
vẽ sau đó sẽ được Tòa án công bố cho các
đương sự được biết để trình bày ý kiến:
Trường hợp 1: Nếu tất cả các đương
sự đồng ý với kết quả đo vẽ thì Tòa án sẽ
lập biên bản ghi nhận các đương sự đồng
ý với kết quả đo vẽ do Cơ quan tiến hành
đo vẽ cung cấp.
Trường hợp 2: Nếu một trong các
đương sự không đồng ý với kết quả đo
vẽ và có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành đo
vẽ lại, như vậy sẽ mất rất nhiều thời gian
vì để thực hiện thủ tục đo vẽ và ra kết quả
sơ đồ đo vẽ thì mất nhiều thời gian. Thực
tiễn xét xử hiện nay có rất nhiều vụ án dân
sự quá hạn xét xử do nguyên nhân này.
Hai là, vấn đề chậm giao kết quả của các
Cơ quan chuyên môn về đất đai. Hiện nay,
các Cơ quan tiến hành đo vẽ xong cho Tòa án
thường chậm giao kết quả do nhiều nguyên
nhân khác nhau, thường thì Tòa án sẽ nhắc
nhở cán bộ đo vẽ cung cấp kết quả, trường
hợp khác thì Tòa án gửi văn bản nhắc nhở để
Cơ quan đo vẽ cung cấp kết quả. Nhưng vấn
đề đặt ra là, căn cứ pháp lý cho Tòa án yêu
cầu cơ quan đo vẽ cung cấp cho Tòa án kết
quả đo vẽ khi Cơ quan đo vẽ chậm giao kết
quả. Vấn đề này Bộ luật Tố tụng và các văn
bản hướng dẫn vẫn chưa có quy định cụ thể
BÙI AI GIÔN
41Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
để Tòa án căn cứ yêu cầu cung cấp kết quả.
Vì vậy, theo quan điểm của tác giả, đề xuất
Tòa án nhân dân Tối cao và Bộ Tài nguyên và
Môi trường cần phối hợp ban hành quy định
về trình tự thủ tục đo vẽ liên quan đến tranh
chấp đất đai, trong đó nêu rõ thời hạn kể từ
bao nhiêu ngày thì Cơ quan đo vẽ cung cấp
cho Tòa án kết quả đo vẽ và trách nhiệm của
cá nhân, Cơ quan đo vẽ nếu cung cấp không
đúng thời hạn cho Tòa án.
Thứ ba, hiện nay để khắc phục tình
trạng số lượng các vụ án dân sự liên quan
đến tranh chấp đất đai tăng nhanh và sự
quá tải của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai cấp huyện do nhiều nguyên nhân
như các Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai cấp huyện nhân sự tinh giản biên chế
theo chủ trương chung của Đảng và Nhà
nước, khối lượng công việc cán bộ đo vẽ
phải kiêm nhiệm nhiều... Một số Tòa án
địa phương đã chủ động nguyên cứu và
liên hệ với các cơ quan có chức năng đo vẽ
tư nhân được Cục Đo đạc và Bản đồ Việt
Nam thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường
cấp phép hoạt động để tiến hành đo vẽ để
giảm thiểu thời gian chờ kết quả từ Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai cấp
huyện như hiện nay. Các tổ chức được cấp
giấy phép đo vẽ được quy định tại Điều 9,
Điều 11 Nghị định số 45/2015/NĐ-CP ngày
06/5/2015 về đo đạc và bản đồ quy định:
“Điều 9. Giấy phép hoạt động đo đạc
và bản đồ
1. Các tổ chức khi hoạt động dịch vụ
đo đạc và bản đồ quy định tại Điều 10
Nghị định này phải có giấy phép do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
2. Giấy phép hoạt động đo đạc và bản
đồ có các nội dung chính sau:
a) Các thông tin cơ bản của tổ chức
được cấp phép bao gồm tên gọi, địa chỉ
trụ sở chính, số điện thoại, quyết định
thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh;
b) Các nội dung hoạt động đo đạc và
bản đồ được cấp phép;
c) Thời hạn của giấy phép.
3. Giấy phép hoạt động đo đạc và bản
đồ có giá trị trong phạm vi cả nước.
4. Thời hạn giấy phép hoạt động đo
đạc và bản đồ là 60 tháng. Khi giấy phép
hoạt động đo đạc và bản đồ hết thời hạn,
nếu tổ chức hoạt động đo đạc và bản đồ
có nhu cầu gia hạn thì đề nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền gia hạn theo quy
định tại Điều 14 Nghị định này; mỗi giấy
phép được gia hạn một (01) lần, thời gian
gia hạn không quá 36 tháng.
5. Khi giấy phép hoạt động đo đạc và
bản đồ hết thời hạn theo quy định tại khoản
4 Điều này, tổ chức có nhu cầu tiếp tục hoạt
động đo đạc và bản đồ làm hồ sơ đề nghị cấp
giấy phép mới và nộp hồ sơ theo quy định tại
Điều 12 Nghị định này trước khi giấy phép
hết hạn ít nhất là ba mươi (30) ngày.
6. Trong quá trình hoạt động đo đạc
và bản đồ, nếu tổ chức có nhu cầu và có
đủ điều kiện mở rộng lĩnh vực hoạt động
thì được cấp bổ sung nội dung giấy phép
hoạt động đo đạc và bản đồ.
7. Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam
thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường (sau
đây gọi chung là Cục Đo đạc và Bản đồ
MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC ĐO VẼ...
42 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
Việt Nam) là cơ quan có thẩm quyền cấp,
bổ sung, gia hạn, cấp lại, thu hồi giấy phép
hoạt động đo đạc và bản đồ”.
“Điều 11. Điều kiện cấp giấy phép
hoạt động đo đạc và bản đồ
Tổ chức trong nước được cấp giấy
phép hoạt động đo đạc và bản đồ khi có
đủ các điều kiện sau:
1. Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh ngành nghề đo đạc và bản đồ đối
với tổ chức hoạt động kinh doanh; có
quyết định thành lập của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, trong đó có quy
định chức năng, nhiệm vụ hoạt động đo
đạc và bản đồ đối với đơn vị sự nghiệp.
2. Có lực lượng kỹ thuật đo đạc và
bản đồ tối thiểu như sau:
a) Một (01) kỹ thuật trưởng có trình
độ đại học trở lên, chuyên ngành đào tạo
về đo đạc và bản đồ, có thực tế hoạt động
đo đạc và bản đồ ít nhất ba (03) năm, có
hợp đồng lao động được đóng bảo hiểm
từ một (01) năm trở lên, không được đồng
thời là kỹ thuật trưởng của tổ chức hoạt
động đo đạc và bản đồ khác;
b) Bốn (04) nhân viên kỹ thuật có
trình độ trung cấp trở lên, chuyên ngành
đào tạo về đo đạc và bản đồ.
3. Có thiết bị công nghệ đo đạc và
bản đồ phù hợp với định mức thiết bị quy
định trong định mức kinh tế - kỹ thuật đo
đạc và bản đồ để thực hiện một (01) sản
phẩm đo đạc và bản đồ thuộc nội dung đề
nghị cấp phép”.
Qua đó, nhiều Tòa án đã rút ngắn được
thời gian chờ đợi kết quả đo vẽ. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra là: đối với các vụ án tranh
chấp đất đai có tính chất không phức tạp,
không cần sự lồng ghép bản đồ như tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng sử dụng
đất thì Tòa án liên hệ với các tổ chức tư
nhân có chức năng đo đạc sẽ dễ dàng đo
đạc. Nhưng đối với các vụ án có tính chất
phức tạp như tranh chấp lấn chiếm đất,
tranh chấp lối đi, tranh chấp ai được quyền
sử dụng đất thì các tổ chức tư nhân này
không có chức năng lồng ghép bản đồ đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và hiện trạng đất thực tế đang sử dụng
(vì những tài liệu, chứng cứ lưu trữ về hồ
sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
họ không hề lưu trữ) và họ chỉ đo vẽ được
hiện trạng đất thực tế đang sử dụng khi các
đương sự tiến hành chỉ ranh.
Ví dụ: Ông M khởi kiện ông N ra
Tòa án nhân dân huyện X vì ông M cho
rằng ông N lấn chiếm trái phép đất của
ông M. Khi Tòa án tiến hành giải quyết
vụ án ông M có đơn yêu cầu Tòa án tiến
hành đo vẽ đất tranh chấp và Tòa án
tiến hành liên hệ Công ty TNHH đo đạc
K để đo đạc thì sau khi có kết quả đo
đạc ông M và ông N không đồng ý với
kết quả trên vì ông M và ông N cho rằng
Công ty TNHH đo đạc K không thể hiện
lồng ghép sơ đồ diện tích đất được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
diện tích thực tế đang sử dụng bị chồng
lấn. Sau đó, công ty TNHH đo đạc K
thông báo cho Tòa án được biết công ty
không thể lồng ghép diện tích được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì
hồ sơ do cơ quan địa chính đất đai đang
quản lý.
BÙI AI GIÔN
43Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Qua ví dụ trên cho thấy, hiện nay
chức năng đo đạc của các tổ chức thực
hiện chức năng đo đạc được Cục Đo đạc
và Bản đồ Việt Nam thuộc Bộ Tài nguyên
và Môi trường cấp phép hoạt động để tiến
hành đo vẽ không có chức năng lồng ghép
bản đồ, do đó gây không ít khó khăn cho
thủ tục đo vẽ của Tòa án. Vì vậy, tùy từng
tính chất tranh chấp của vụ án mà Tòa án
tiến hành lựa chọn cơ quan thực hiện việc
đo vẽ để tránh trường hợp vụ án kéo dài
ảnh hưởng đến thời hạn xét xử.
Thứ tư, về chi phí đo vẽ là một trong
những chi phí tố tụng. Tuy nhiên, Mục 2
chương IX Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về các chi phí tố tụng khác (ngoài án phí, lệ
phí Tòa án) chỉ quy định về chi phí giám định,
định giá tài sản, chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ, chi phí cho người làm chứng, người
phiên dịch, luật sư mà không có điều nào quy
định về chi phí cho việc đo vẽ và cũng không
có điều luật nào quy định rằng chi phí cho
việc đo vẽ không phải một trong những chi
phí tố tụng khác và không cho phép Tòa án
thu tiền của đương sự để chi cho việc đo vẽ.
Vì vậy, việc các Tòa án hiện nay vẫn xác định
chi phí cho việc đo vẽ là chi phí tố tụng khác
và thực hiện việc thu, chi liên quan đến hoạt
động tố tụng này là không sai. Tuy nhiên, Bộ
luật dân sự lại không đề cập đến chi phí đo
vẽ khi đương sự có yêu cầu, gây khó khăn
cho Tòa án khi lấy căn cứ yêu cầu đương sự
đóng tiền đo vẽ.
Ví dụ như sau: Ông A khởi kiện ông B
vì cho rằng ông B lấn sang đất của ông A
khoảng 100m2. Sau khi Tòa án thụ lý giải
quyết vụ án, ông A đã có đơn yêu cầu đo
vẽ, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản. Tòa án tiến hành các thủ tục đo vẽ,
xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài
sản theo yêu cầu của ông A, nhưng sau khi
có kết quả đo vẽ của Chi nhánh Văn phòng
huyện C thì ông B không đồng ý với kết quả
đo vẽ. Sau đó ông B làm đơn yêu cầu Tòa án
đo vẽ lại mà không yêu cầu xét thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản, Tòa án ra Thông
báo đóng tiền tạm ứng chi phí đo vẽ thì ông
B đóng tạm ứng 3.000.000 đồng nhưng khi
có kết quả đo vẽ thì ông B tiếp tục không
đồng ý và không chịu đóng thêm tiền đo
vẽ phát sinh thêm. Vậy, trong trường hợp
này Tòa án căn cứ quy định của pháp luật
ra Thông báo cho ông B thì sẽ không có căn
cứ vì BLTTDS không hề đề cập đến chi phí
đo vẽ hay chi phí tố tụng khác.
Do không có quy định cụ thể về trình
tự thủ tục thu, chi, xác định trách nhiệm
của các bên đương sự liên quan đến loại
chi phí này nên mỗi Tòa án thực hiện một
cách khác nhau, trong cùng một Tòa án, mỗi
Thẩm phán cũng có cách thực hiện khác
nhau, thậm chí cùng một Thẩm phán nhưng
cũng có những vụ án thực hiện không giống
nhau; nhưng nhìn chung, các Tòa án đã áp
dụng các nguyên tắc chung của Bộ luật tố
tụng dân sự quy địnhvề các chi phí tố tụng
khác tại Mục 2 chương IX Bộ luật này trong
việc đo vẽ và thực tế chi phí được vận dụng
một cách linh hoạt tùy thuộc vào từng vụ án
cụ thể trên tinh thần tiết kiệm chi.
Để thống nhất về trình tự, thủ tục thu,
chi đối với chi phí cho việc đo vẽ tạo điều
kiện cho Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ
và xác định rõ trách nhiệm của các bên
đương sự liên quan đến loại chi phí này,
tác giả kiến nghị:
MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC ĐO VẼ...
44 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
- Cần phải đưa quy định về chi phí
đo vẽ vào BLTTDS, coi đây là một trong
những chi phí tố tụng khác để có căn cứ
pháp lý cho việc thực hiện(1);
- Trước mắt, Tòa án nhân dân tối cao
cần ban hành văn bản hướng dẫn quy
định cụ thể về loại chi phí này trong đó
cần xác định nghĩa vụ nộp tạm ứng chi
phí, nghĩa vụ nộp chi phí, mức chi phí,
trình tự thủ tục thu chi... Cụ thể:
1 Xem Th.S. Lê Văn Sua, Bàn về nghĩa vụ chịu chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ; định giá, thẩm
định giá trong BLTTDS năm 2015,
moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.
aspx?ItemID=2218.
+ Người yêu cầu đo vẽ phải chịu toàn
bộ chi phí đo vẽ;
+ Các đương sự phải chịu toàn bộ
chi phí đo vẽ; việc đo vẽ cần thiết cho
việc giải quyết cho những yêu cầu hay
quyền lợi của đương sự nào thì những
đương sự đó phải chịu chi phí; mức chi
phí cụ thể tùy thuộc vào kết quả giải
quyết vụ án trên cơ sở quyết định của
Tòa án;
+ Chi phí cho những người tham gia
đo vẽ ngoài đại diện Uỷ ban nhân dân cấp
xã phải bao gồm cả thư ký, Thẩm phán,
cán bộ đo vẽ./.
QUYỀN CỦA NGƯỜI
HƯỞNG DỤNG...
(Tiếp theo trang 35)
Quyền hưởng dụng bản thân nó
cũng là một loại tài sản tồn tại dưới
dạng quyền thuộc quyền sở hữu của
người hưởng dụng(1). Do đó, người có
quyền hưởng dụng có thể định đoạt
quyền hưởng dụng thuộc sở hữu của
mình trong thời gian quyền hưởng
dụng có hiệu lực. Tuy nhiên quy định
tại khoản 3 Điều 261 Bộ luật dân sự năm
2015 lại quy định người hưởng dụng
chỉ có quyền cho thuê quyền hưởng
dụng mà không có các quyền khác như:
chuyển nhượng quyền hưởng dụng,
1 Xem: PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS. Trần Thị
Huệ, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015,
Nxb Công an nhân dân, năm 2017 (trang 429).
hoặc dùng quyền hưởng dụng để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự trong
thời hạn quyền hưởng dụng có hiệu lực.
Việc chưa ghi nhận người hưởng dụng,
có các quyền này đã làm giảm đi giá trị
kinh tế của quyền hưởng dụng và người
hưởng dụng không thể khai thác được
triệt để những lợi ích mà đối tượng của
quyền hưởng dụng mang lại.
Theo quan điểm của tác giả, quy
định tại khoản 3 Điều 261 Bộ luật dân
sự năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung theo
hướng mở rộng quyền năng của người
hưởng dụng đối với quyền hưởng dụng.
Người hưởng dụng có toàn quyền đối
với quyền hưởng dụng với tư cách là
một chủ sở hữu tài sản trong thời hạn
quyền hưởng dụng có hiệu lực./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_kho_khan_vuong_mac_ve_thu_tuc_do_ve_trong_cac_vu_an_d.pdf