Thứ ba, hồ sơ bồi thường bảo hiểm cần
được quy định theo hướng đơn giản hóa,
tăng trách nhiệm và tính chủ động của
DNBH nhưng vẫn đảm bảo phòng, chống
gian lận bảo hiểm. Đồng thời, pháp luật cần
quy định rõ trách nhiệm thu thập hồ sơ của
từng bên tại mỗi đầu mục tài liệu; cho phép
sử dụng bản sao chứng thực Giấy chứng
nhận đăng ký kèm bản gốc Giấy biên nhận
của tổ chức tín dụng còn hiệu lực thay cho
bản chính trong thời gian tổ chức tín dụng
giữ bản chính để giảm nhẹ gánh nặng cho
chủ xe máy.
Thứ tư, cần tăng mức trách nhiệm bảo
hiểm; về cơ bản, cần đảm bảo chi phí thực
tế về giá dịch vụ khám, điều trị, chăm sóc y
tế và chi phí khắc phục thiệt hại đối với tài
sản. Người dân không mặn mà với bảo hiểm
xe máy là do thủ tục bồi thường bảo hiểm
khó khăn, bồi thường lại thấp. Vì vậy, nếu
việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm thuận lợi
và chất lượng cùng nội dung rõ ràng thì
người dân sẽ không ngần ngại khi mua sản
phẩm này.
Thứ năm, pháp luật không nên quy định
thời hạn cứng của hợp đồng bảo hiểm mà
nên quy định linh hoạt theo hướng chỉ quy
định thời hạn tối thiểu và tối đa. Điều này
tạo sự chủ động cho người mua bảo hiểm,
phù hợp chiến lược mục tiêu kinh doanh và
khả năng quản lý của DNBH
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe máy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Khái quát thực trạng bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe máy
Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự
(TNDS) của chủ xe cơ giới nói chung và xe
máy nói riêng đã đạt được nhiều kết quả tích
cực như: kết quả thực hiện bảo hiểm bắt
buộc TNDS của chủ xe cơ giới giai đoạn 10
năm (2008-2017) đã đạt được kết quả với số
lượt xe cơ giới tham gia bảo hiểm bắt buộc
TNDS của chủ xe cơ giới lên đến trên 110,3
triệu (số lượt xe máy vào khoảng 93,5 triệu);
giải quyết bồi thường bảo hiểm cho 593.658
vụ tai nạn giao thông, trung bình 9 triệu
đồng/vụ (101.214 vụ tai nạn xe máy, trung
bình 5 triệu đồng/vụ). Thống kê mới nhất
của Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ
Tài chính), tính riêng trong năm 2019, tổng
doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc TNDS ước
tính đạt 3.590 tỷ đồng, trong đó riêng ô tô
đạt 2.825 tỷ đồng, xe máy đạt 765 tỷ đồng.
Trong khi đó, số tiền bồi thường bảo hiểm
(chưa tính dự phòng bồi thường cho các tổn
thất chưa phát sinh theo quy định) ước tính
đạt 972 tỷ đồng, trong đó ô tô đạt 927 tỷ
đồng, xe máy đạt 45 tỷ đồng1. Kết quả trên
thể hiện rõ ý nghĩa nhân đạo của chính sách,
kịp thời hỗ trợ nạn nhân tai nạn giao thông
nhanh chóng khắc phục tổn thất về người và
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM BẮT BUỘC TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE MÁY
Tạ Thị Thùy Trang*
* ThS. Đại học Thương Mại.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bảo hiểm bắt buộc, trách
nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/06/2020
Biên tập : 28/06/2020
Duyệt bài : 04/07/2020
Article Infomation:
Key words: Compulsory insurance,
civil liability insurance, vehicle
owners.
Article History:
Received : 18 Jun. 2020
Edited : 28 Jun. 2020
Approved : 04 Jul. 2020
Tóm tắt:
Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trong đó có
xe máy được xem là chính sách an sinh xã hội của Nhà nước nhằm
bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông, cũng
như giúp bảo vệ tài chính cho chủ xe cơ giới trước rủi ro bất ngờ. Tuy
nhiên, trên thực tế có rất ít chủ xe máy mua bảo hiểm. Vậy lý do vì
sao người dân không mặn mà với việc mua bảo hiểm? Trong phạm vi
bài viết này, tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe máy, chỉ ra một số điểm bất
cập và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Abstract:
Compulsory insurance for civil liability of motor vehicle owners,
including motorbikes, is considered a social security policy of the
State to protect the rights of victims in traffic accidents, as well as
help protect financial protection for motor vehicle owners against
unexpected risks but in reality very few motorbike owners buy and if
bought mainly to cope. Accordingly, the article focuses on the
compulsory insurance of civil liability of motorbike owners under the
current law and points out some inadequacies of the law in order to
improve the effectiveness of the application of laws on the issue.
1
dan-su-cua-chu-xe-co-gioi-323425.html.
Số 13 (413) - T7/202046
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tài sản, giúp cho không chỉ nạn nhân mà còn
chủ xe, người điều khiển xe nhanh chóng ổn
định cuộc sống, sinh hoạt và hoạt động sản
xuất kinh doanh, góp phần thực hiện mục
tiêu an sinh - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện thời gian
qua cũng cho thấy, bảo hiểm bắt buộc TNDS
của chủ xe máy vẫn còn những tồn tại,
vướng mắc cả về chính sách và công tác tổ
chức, triển khai thực hiện. Tỷ lệ tham gia
bảo hiểm xe máy vẫn còn thấp, đạt khoảng
30% đối với xe máy (trong tổng số gần 60
triệu xe máy), và tỷ lệ tham gia bảo hiểm lên
đến 90% đối với xe ô tô (trong tổng số trên
3 triệu xe ô tô)2. Thời gian qua, sau khi lực
lượng cảnh sát giao thông đồng loạt ra quân
kiểm tra xử lý phương tiện giao thông, thị
trường bảo hiểm xe máy vẫn chưa bớt
“nóng” bởi “ma trận” thông tin vây quanh
người dân. Thông tin quan trọng là quyền lợi
của người mua bảo hiểm thế nào, trình tự thủ
tục nhận bảo hiểm ra sao thì rất ít người nắm
được. Mặc dù vấn đề bảo hiểm TNDS của
chủ xe cơ giới trong đó có xe máy đã được
đề cập trong Luật Giao thông đường bộ năm
2008, Thông tư số 22/2016/TT-BTC của Bộ
Tài chính ban hành ngày 16/2/2016 quy định
quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm đối với bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, nhưng mỗi
lần vấn đề được xới lên thì dư luận xã hội lại
“xôn xao” như thể đây là chính sách mới.
Bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe máy
đã được pháp luật quy định. Cụ thể, khoản 1
Điều 8 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010
quy định: “Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng
đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích
bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội”,
trong đó có bảo hiểm TNDS của chủ xe máy.
Khoản 3 Điều 8 Luật này cũng quy định:
“Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội từng thời kỳ, Chính phủ trình Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định loại bảo hiểm
bắt buộc khác”. Bộ luật Dân sự năm 2015
(sửa đổi năm 2017) cũng đã làm rõ nguyên
nhân tại sao xe cơ giới nói chung và xe máy
nói riêng là đối tượng phải mua bảo hiểm bắt
buộc. Lý do bởi vì Điều 601 Bộ luật Dân sự
2015 xếp “phương tiện giao thông vận tải cơ
giới” trong nhóm “nguồn nguy hiểm cao độ”
và quy định khi nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra thiệt hại cho đối tượng khác thì phải bồi
thường. Thêm vào đó, điều kiện của người lái
xe tham gia giao thông đã ghi rõ phải mang
theo một số giấy tờ bao gồm Giấy chứng nhận
bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới3. Ngoài
ra, Thông tư số 22/2016/TT-BTC cũng đã quy
định rất rõ ràng, chi tiết quyền lợi lẫn trách
nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm xe cơ
giới, niêm yết mức giá bán bảo hiểm bắt
buộc, bảng quyền lợi chi trả bồi thường cho
các loại tổn thương do tai nạn, thậm chí còn
cung cấp cả các biểu mẫu hồ sơ giúp chủ
phương tiện điền thông tin để nhận bồi
thường. Tuy nhiên, người dân khi mua bảo
hiểm xe máy vẫn không nắm được là mình
đang mua sản phẩm bảo hiểm nào, trách
nhiệm, quyền lợi ra sao. Điều này trước hết
là do lỗi của chính người dân không nắm
được pháp luật hiện hành, không chủ động
tiếp cận chính sách liên quan đến mình.
Bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận
nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là
do pháp luật về bảo hiểm TNDS của chủ xe
máy còn nhiều bất cập, gây khó khăn trong
quá trình áp dụng. Cụ thể:
Thứ nhất, nguyên tắc tham gia bảo hiểm
và nguyên tắc bồi thường theo quy định của
pháp luật hiện hành thiếu thống nhất. Theo
nguyên tắc tham gia bảo hiểm “Chủ xe cơ
giới không được đồng thời tham gia hai hợp
đồng bảo hiểm bắt buộc TNDS trở lên cho
cùng một xe cơ giới”4. Tuy nhiên, khoản 5
Điều 13 Thông tư số 22/2016 lại quy định
“Trường hợp chủ xe cơ giới đồng thời tham
2
quy-dinh-moi-mang-tinh-can-co-va-lau-dai-87076.aspx.
3 Điều 58 Luật Giao thông đường bộ năm 2008.
4 Điều 4 Luật Giao thông đường bộ năm 2008.
47Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
gia nhiều hợp đồng bảo hiểm bắt buộc TNDS
cho cùng một xe cơ giới thì số tiền bồi
thường chỉ được tính theo hợp đồng bảo
hiểm có hiệu lực bảo hiểm trước”. Khác với
hợp đồng bảo hiểm tài sản có đối tượng là tài
sản cụ thể, hợp đồng bảo hiểm con người là
bảo hiểm đối với một người cụ thể; đối tượng
của hợp đồng bảo hiểm TNDS là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại (BTTH) của người tham
gia bảo hiểm đối với bên thứ ba. Đó là thiệt
hại có thể xảy ra trong tương lai, trong phạm
vi, giới hạn bảo hiểm và thuộc trách nhiệm
bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách
nhiệm BTTH mang tính trừu tượng; chúng ta
không nhìn thấy, không cảm nhận được bằng
các giác quan và thực tế chúng không tồn tại
hiện hữu tại thời điểm giao kết hợp đồng. Chỉ
khi nào người tham gia bảo hiểm gây thiệt
hại cho người khác và phải bồi thường thì
mới xác định được trách nhiệm BTTH là bao
nhiêu. Vì vậy, người tham gia bảo hiểm có
tâm lý mong muốn bỏ ra số tiền nhỏ nhất mà
được bồi thường nhiều nhất bằng cách tham
gia nhiều hợp đồng bảo hiểm TNDS. Điều
này có được hay không thì pháp luật còn
chưa quy định thống nhất. Bên cạnh đó, pháp
luật cũng chưa có các quy định cụ thể về
trường hợp phát hiện ra hợp đồng bảo hiểm
trùng như trên thì hợp đồng thứ 2 sẽ bị chấm
dứt hiệu lực kể từ thời điểm nào? Việc hoàn
phí được xử lý như thế nào? Điều này không
chỉ gây hoang mang cho chủ xe máy mà còn
ảnh hưởng đến doanh thu hoạt động của các
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH).
Thứ hai, hồ sơ bồi thường theo quy định
hiện hành chưa thực sự khoa học và hợp lý.
Theo quy định, DNBH có trách nhiệm phối
hợp với chủ xe cơ giới, người bị thiệt hại, cơ
quan công an và các tổ chức, cá nhân có liên
quan khác để thu thập các tài liệu liên quan
đến thiệt hại về tài sản (như hóa đơn sửa
chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại); các tài
liệu liên quan của cơ quan có thẩm quyền về
vụ tai nạn (như biên bản khám nghiệm
phương tiện liên quan đến tai nạn, thông báo
sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ tai nạn giao
thông...); biên bản giám định xác định
nguyên nhân và mức độ thiệt hại do DNBH
hoặc người được DNBH ủy quyền lập; các
tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn5. Thực tế
cho thấy, việc quy định quá nhiều giấy tờ,
nhiều cơ quan liên quan gây khó khăn trong
việc thực hiện hồ sơ bồi thường, thậm chí
nhiều trường hợp không thể thực hiện được.
Thiệt hại lớn không nói, còn với thiệt hại vài
trăm nghìn không phải lúc nào cũng đi báo
công an xác minh, giám định, hay xác nhận
của chính quyền địa phương, các chủ
phương tiện thường tự thương lượng bồi
thường vì việc để hoàn thiện hồ sơ thanh
toán bảo hiểm quá phức tạp. Ví dụ như đối
với tài liệu liên quan đến xe, lái xe (Bản sao
có xác nhận của DNBH sau khi đã đối chiếu
với bản chính) yêu cầu bồi thường phải có
trong hồ sơ bồi thường gồm: a) Giấy đăng
ký xe; b) Giấy phép lái xe; c) Giấy chứng
minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc các giấy
tờ tùy thân khác của lái xe; d) Giấy chứng
nhận bảo hiểm. Vấn đề đặt ra là, nếu người
điều khiển phương tiện tham gia giao thông
chỉ có bản chứng thực Giấy đăng ký xe do
bản gốc đang sử dụng thế chấp tại tổ chức
tín dụng thì sẽ không đáp ứng được điều kiện
về hồ sơ bồi thường; chưa kể không phải lúc
nào DNBH cũng có trách nhiệm xác nhận
vào bản sao các loại giấy tờ, trong khi chủ
xe máy hoàn toàn có thể chứng thực các loại
giấy tờ này tại các văn phòng công chứng.
Thứ ba, pháp luật thiếu quy định về
trách nhiệm cụ thể đối với DNBH và các bên
liên quan trong quá trình thu thập hồ sơ bồi
thường. Liên quan đến tài liệu chứng minh
thiệt hại về người cần có một hoặc một số
các tài liệu sau: a) Giấy chứng thương; b)
Giấy ra viện; c) Giấy chứng nhận phẫu thuật;
d) Hồ sơ bệnh án; đ) Giấy chứng tử (trong
trường hợp nạn nhân tử vong). Tuy nhiên,
trên thực tế, có nhiều trường hợp bên mua
bảo hiểm rất khó có thể cung cấp được Giấy
chứng tử và phải được gia đình nạn nhân
cung cấp thì bên mua bảo hiểm mới có thể
có được. Do vậy, để nhanh chóng giải quyết
5 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ năm 2008.
Số 13 (413) - T7/202048
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
quyền lợi bảo hiểm cho bên thứ ba, cần quy
định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền phải cấp các giấy tờ cần thiết theo quy
định trong trường hợp nạn nhân tử vong;
trách nhiệm của các cơ sở y tế nơi cấp cứu
và điều trị cho nạn nhân tai nạn giao thông
cũng như Công an chủ trì điều tra để việc bồi
thường được giải quyết thỏa đáng, kịp thời.
Thực tế thời gian qua, rất nhiều người mua
bảo hiểm phải tự đi thu thập đầy đủ các
chứng từ trên mới được giải quyết quyền lợi
bảo hiểm. Như vậy, trách nhiệm phối hợp
của DNBH ở đâu? Và có cách nào để người
tham gia bảo hiểm yêu cầu DNBH phối hợp
để thu thập các loại giấy tờ trên hay không
cũng là vấn đề pháp luật cần quy định.
Thứ tư, thời hạn bảo hiểm theo quy định
quá ngắn, không đáp ứng được nhu cầu bảo
hiểm của người mua. Thời hạn bảo hiểm là
khoảng thời gian được xác định theo hợp
đồng bảo hiểm mà trong khoảng thời gian
đó, DNBH có trách nhiệm chi trả tiền bảo
hiểm hoặc BTTH cho người được bảo hiểm
nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm. Thông thường,
thời hạn bảo hiểm trùng với thời hạn của hợp
đồng bảo hiểm nên việc xác định thời điểm
bắt đầu cũng như thời điểm kết thúc của thời
hạn bảo hiểm cũng theo nguyên tắc xác định
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo
hiểm. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp tuy
cũng trong thời hạn có hiệu lực của hợp
đồng nhưng chỉ những thiệt hại nào được coi
là sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn bảo
hiểm thì DNBH mới phải chi trả tiền bảo
hiểm hoặc BTTH cho người được bảo hiểm.
Do đó, quy định hiện hành về thời hạn bảo
hiểm 1 năm cho tất cả các phương tiện xe cơ
giới chưa tạo điều kiện chủ động cho việc
tham gia bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ
xe máy. Trên thực tế, nhiều chủ xe máy khi
mua bảo hiểm không thể nhớ được thời hạn
kết thúc để mua tiếp; họ có nhu cầu mua với
thời hạn dài để đỡ phải đi mua nhiều lần
nhưng lại không được phép, nên không mấy
người còn mặn mà và quan tâm đến vấn đề
này. Thiết nghĩ, mặc dù mục đích của bảo
hiểm TNDS bắt buộc là an sinh xã hội, phi
lợi nhuận nên nguyên tắc của nó là cân bằng
thu chi. Sau mỗi một năm bảo hiểm, cơ quan
quản lý sẽ cân đối quỹ, nếu thu lớn hơn chi
thì sẽ giảm phí và ngược lại. Tuy nhiên, bảo
hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe máy chỉ là
1 sản phẩm nhỏ trong các sản phẩm kinh
doanh của DNBH, sẽ không ảnh hưởng quá
nhiều đến cân bằng thu chi.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến tâm lý đối
phó của chủ xe máy khi mua bảo hiểm TNDS
là tiền do cơ quan bảo hiểm bồi thường không
theo kịp biến động về giá cả thị trường. Theo
quy định hiện hành, mức trách nhiệm bảo
hiểm của đơn vị bảo hiểm đối với thiệt hại về
người do xe cơ giới gây ra là 100 triệu đồng/1
người/1 vụ tai nạn. Mức trách nhiệm bảo
hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô,
xe máy gây ra là 50 triệu đồng/1 vụ tai nạn.
Bên cạnh việc bồi thường cho chủ xe, một
phần số tiền bảo hiểm sẽ được sử dụng để hỗ
trợ nạn nhân khi gặp tai nạn giao thông. Trong
trường hợp không xác định được xe gây tai
nạn hoặc tai nạn không thuộc phạm vi bảo
hiểm cũng sẽ được hỗ trợ bồi thường nhân
đạo cho nạn nhân số tiền lên đến 20 triệu
đồng/người. Tuy nhiên, các quy định này hiện
không còn phù hợp, đồng bộ với hệ thống văn
bản pháp luật có liên quan. Ví dụ như quy
định mức trách nhiệm bảo hiểm chưa theo kịp
với biến động ngày càng tăng về giá dịch vụ
khám, điều trị, chăm sóc y tế cũng như chi phí
sửa chữa, thay thế tài sản bị thiệt hại trong các
vụ tai nạn do xe cơ giới gây ra, dẫn đến tỷ lệ
tham gia bảo hiểm của chủ xe máy rất thấp.
Ngoài ra, việc giải quyết bồi thường không
phân biệt theo mức độ lỗi, nên trên thực tế, có
nhiều trường hợp lỗi dẫn đến tai nạn giao
thông hoàn toàn là do nạn nhân gây ra nhưng
chủ xe vẫn phải bồi thường mức cao nhất theo
bảng tỷ lệ bồi thường, và DNBH phải chi trả
theo quy định. Ðiều này không chỉ đặt gánh
nặng về kinh phí lên vai DNBH và vi phạm
nguyên tắc lấy số đông bù số ít mà còn chưa
hợp lý vì vô hình chung sẽ khuyến khích vi
phạm pháp luật, không công bằng đối với
người chấp hành tốt pháp luật về giao thông.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự
của chủ xe máy
Qua khái quát thực trạng pháp luật Việt
49Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Nam về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ
xe máy như đã nêu trên, tác giả kiến nghị
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
như sau:
Thứ nhất, yêu cầu các DNBH chủ động
kiểm tra, rà soát việc triển khai bảo hiểm bắt
buộc TNDS của chủ xe cơ giới trong toàn hệ
thống, đảm bảo thực hiện đúng theo quy
định pháp luật. Trường hợp phát hiện các
hành vi vi phạm thì tiến hành chấn chỉnh, xử
lý kịp thời. Đồng thời, các cơ quan liên quan
và các doanh nghiệp bảo hiểm cần tiếp tục
đẩy mạnh tuyên truyền để người dân nắm rõ
được chính sách, ý nghĩa của chính sách bảo
hiểm bắt buộc TNDS xe máy, từ đó chủ động
và tích cực tham gia. Bên cạnh đó, việc mở
rộng mạng lưới phân phối, đa dạng hình thức
cung cấp dịch vụ, đẩy mạnh áp dụng công
nghệ thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ
bảo hiểm; cũng như việc nâng cao trình độ,
kỹ năng tư vấn của đội ngũ cán bộ khai thác
bảo hiểm, chăm sóc khác hàng, đội ngũ đại
lý bảo hiểm... là các vấn đề mà cơ quan quản
lý, cũng như các DNBH phải thực sự chú
trọng; đảm bảo phát huy tính nhân văn của
chế độ này là bảo vệ tài chính cho các nạn
nhân của các vụ tai nạn giao thông đường bộ
thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản,
ngay cả khi không xác định được xe gây tai
nạn, xe không tham gia bảo hiểm hoặc tai
nạn không thuộc phạm vi bảo hiểm.
Thứ hai, cần triển khai loại hình bảo
hiểm TNDS của người điều khiển phương
tiện giao thông, thay vì bảo hiểm TNDS chủ
xe cơ giới như hiện nay. Bởi vì, trên thực tế
mặc dù người điều khiển xe máy gây tai nạn
không phải là chủ xe, nhưng chủ xe vẫn phải
có trách nhiệm bồi thường, do đã giao cho
người khác chiếm hữu, sử dụng xe máy
(nguồn nguy hiểm cao độ), trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác6. Điều này sẽ
sinh ra tính ỷ lại, trốn tránh trách nhiệm của
người thực sự gây tai nạn. Theo đó, bảo
hiểm TNDS của người điều khiển phương
tiện giao thông được xác định dựa trên thông
tin cá nhân thay vì thông tin của phương tiện
xe cơ giới như hiện nay. Từ đó, dựa vào lịch
sử liên quan đến các sự kiện tai nạn giao
thông của một người, công ty bảo hiểm sẽ
đánh giá rủi ro và đưa ra mức phí phù hợp
cho người điều khiển phương tiện giao thông
đó. Ví dụ: Tăng giảm phí bảo hiểm cho cá
nhân đó trong thời gian tiếp theo. Điều này
sẽ khắc phục được cả vấn đề khó quy trách
nhiệm đối với xe không chính chủ cũng như
sẽ quản lý được vấn đề tính phí bảo hiểm
theo rủi ro trách nhiệm cá nhân. Bảo hiểm
TNDS của người điều khiển phương tiện
giao thông sẽ trở thành quyền cũng là nghĩa
vụ và trách nhiệm của tất cả những người
tham gia giao thông.
Thứ ba, hồ sơ bồi thường bảo hiểm cần
được quy định theo hướng đơn giản hóa,
tăng trách nhiệm và tính chủ động của
DNBH nhưng vẫn đảm bảo phòng, chống
gian lận bảo hiểm. Đồng thời, pháp luật cần
quy định rõ trách nhiệm thu thập hồ sơ của
từng bên tại mỗi đầu mục tài liệu; cho phép
sử dụng bản sao chứng thực Giấy chứng
nhận đăng ký kèm bản gốc Giấy biên nhận
của tổ chức tín dụng còn hiệu lực thay cho
bản chính trong thời gian tổ chức tín dụng
giữ bản chính để giảm nhẹ gánh nặng cho
chủ xe máy.
Thứ tư, cần tăng mức trách nhiệm bảo
hiểm; về cơ bản, cần đảm bảo chi phí thực
tế về giá dịch vụ khám, điều trị, chăm sóc y
tế và chi phí khắc phục thiệt hại đối với tài
sản. Người dân không mặn mà với bảo hiểm
xe máy là do thủ tục bồi thường bảo hiểm
khó khăn, bồi thường lại thấp. Vì vậy, nếu
việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm thuận lợi
và chất lượng cùng nội dung rõ ràng thì
người dân sẽ không ngần ngại khi mua sản
phẩm này.
Thứ năm, pháp luật không nên quy định
thời hạn cứng của hợp đồng bảo hiểm mà
nên quy định linh hoạt theo hướng chỉ quy
định thời hạn tối thiểu và tối đa. Điều này
tạo sự chủ động cho người mua bảo hiểm,
phù hợp chiến lược mục tiêu kinh doanh và
khả năng quản lý của DNBH n
6 Điều 601, Bộ Luật Dân sự năm 2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_kien_nghi_hoan_thien_phap_luat_ve_bao_hiem_bat_buoc_t.pdf