Chúng tôi cho rằng, việc đào tạo chung
nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong
một chương trình có nhiều lợi thế. Trước hết,
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư là ba chức
danh có quan hệ mật thiết với nhau trong các
hoạt động tố tụng; nếu họ hiểu được kỹ năng
nghề nghiệp của nhau sẽ nhanh chóng thống nhất
ý kiến khi đánh giá về cùng một vấn đề, giúp giải
quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, đúng pháp
luật và phù hợp với các tình tiết khách quan. Việc
đào tạo Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên trong
một chương trình thống nhất tạo điều kiện thuận
lợi cho việc luân chuyển công tác giữa các chức
danh này, tạo điều kiện thực hiện được chủ
trương quan trọng của Nghị quyết số 49-NQ/TW
là “mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức
danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ
quan tư pháp, mà còn là các luật gia, Luật sư”.
Bên cạnh đó, việc thống nhất đào tạo các chức
danh tư pháp tạo điều kiện cho việc tập trung
năng lực đào tạo (giáo viên, giáo trình, tài liệu, cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động đào
tạo) và tạo nhiều thuận lợi cho việc tổ chức thực
hiện các khoá đào tạo (tổ chức các buổi diễn án,
thảo luận, toạ đàm khoa học).
Có thể nói rằng, công tác đào tạo Thẩm phán
trong những năm qua đã thu được nhiều thành
quả đáng trân trọng, là một bước tiến vượt bậc
trong công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao năng lực cán bộ, công chức các cơ quan
tư pháp nói chung; tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng cao làm nguồn bổ nhiệm Thẩm phán nói
riêng. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp
và hội nhập quốc tế thì, kết quả đó chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền. Một trong những
giải pháp nâng chất lượng đào tạo Thẩm phán là
phải nâng cao chất lượng chương trình đào tạo,
luôn bổ sung, cập nhật chương trình đào tạo phù
hợp theo từng thời kỳ và đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kiến nghị phát triển chương trình đào tạo thẩm phán tại Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
65
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
THẨM PHÁN TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Nguyễn Kim Chi1
Nguyễn Thị Hạnh2
Tóm tắt: Sau gần 20 năm đào tạo, chương trình đào tạo Thẩm phán tại Học viện Tư pháp đã
ngày càng hoàn thiện, thể hiện khá toàn diện các nội dung cần thiết để trang bị cho người làm nghề
Thẩm phán, đã cập nhật kịp thời cho học viên những vấn đề pháp luật mới, pháp luật chuyên sâu;
trang bị các kỹ năng tiến hành tố tụng, kỹ năng áp dụng pháp luật mà một Thẩm phán cần có. Nội
dung đào tạo vừa cụ thể, vừa khái quát và toàn diện, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn trước mắt song
vẫn trang bị cho học viên những kiến thức, nguyên tắc, phương pháp cần thiết đáp ứng các yêu cầu,
mục tiêu cải cách tư pháp của Đảng. Chương trình đào tạo Thẩm phán đang áp dụng về cơ bản là
phù hợp với đối tượng và mục tiêu đào tạo. Tuy vậy, tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta trong thời gian tới đặt ra nhu cầu phải tiếp tục rà soát để chỉnh lý, bổ sung nội
dung chương trình đào tạo Thẩm phán nhằm đáp ứng các yêu cầu thực tiễn hành nghề hiện nay.
Từ khóa: Chương trình đào tạo Thẩm phán; Thẩm phán; Tòa án.
Ngày nhận bài: 10/01/2018; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng:
30/1/2018.
Abstract: After nearly 20 years of training, the judicial training program in Vietnam has been
increasingly improved, reflecting all the necessary contents equipped for the judges; Updating
students with new legal issues, specialized law, with procedural skills and legal skills that a Judge
should have. The content of training is both specific and general and comprehensive, while meeting
the immediate practical requyrements, but still equipping students with the knowledge, principles and
methods necessary to meet the requirements and objectives of the Judicial reform of the Party. The
judicial training program in use is basically appropriate for the subject and purpose of the training.
However, with the process of judicial reform and international economic integration in our country
in the coming time, and from the above analysis, there is a need to continue reviewing for internal
adjustment and improvement to meet the practical requirements of today’s practice.
Key words: Judge Training Program; Judge; Court.
Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision: 18/01/2018 ; Date of approval: 30/1/2018.
1. Thực trạng chương trình đào tạo
Thẩm phán
Tại Việt Nam, những năm 80 và đầu những
năm 90 của thế kỷ hai mươi, vấn đề đào tạo nghề,
chuẩn bị nguồn cán bộ để bổ nhiệm các chức
danh tư pháp nói chung, Thẩm phán nói riêng
chưa được đặt ra. Thời kỳ này, cán bộ tư pháp
chỉ cần đáp ứng được một số tiêu chí nhất định
do Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
quy định như: là công dân Việt Nam, có sức
khỏe, có đạo đức, đã tốt nghiệp đại học luật hoặc
tương đương là có thể được bổ nhiệm Thẩm
phán. Sau khi được bổ nhiệm Thẩm phán, họ
phải tự mày mò, học hỏi kinh nghiệm từ các
Thẩm phán đi trước để thực hiện nhiệm vụ xét
xử, giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án.
Khắc phục tình trạng này, năm 1998, Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định số 34/1998/QĐ-
TTg về việc thành lập Trường đào tạo các chức
danh tư pháp (Quyết định 34). Từ đây, quan
điểm, định hướng về hoạt động “dạy nghề” cho
Thẩm phán mới bắt đầu có những thay đổi cơ
bản và quan trọng. Thực hiện Quyết định 34,
ngày 12/2/1998, lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử
(sau đây gọi tắt là đào tạo Thẩm phán) đầu tiên
1 Tiến sỹ, Khoa đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát, Luật sư
2 Thạc sỹ, Khoa đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát, Luật sư
ÑAØO TAÏO - BOÀI DÖÔÕNG
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
66
được khai giảng tại Hà Nội, đặt nền móng cho
hoạt động đào tạo nghề Thẩm phán một cách
chính quy và chuyên nghiệp ở Việt Nam.
Cấu trúc chương trình đào tạo tại Học viện
tư pháp đã được quy định rất rõ tại quyết định
phê duyệt đề án thành lập Học viện Tư pháp của
Thủ tướng Chính phủ số 1269/QĐ-TTg ngày
18/11/2003. Chương trình đào tạo Thẩm phán tại
Học viện Tư pháp có mục tiêu là đào tạo nguồn
cán bộ bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
huyện; do đó chủ yếu trang bị cho người học các
phẩm chất, kỹ năng và năng lực cụ thể như sau:
- Trang bị kỹ năng nghề nghiệp cơ bản cho
Thẩm phán để họ có thể tiến hành công việc
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi được
bổ nhiệm, tạo cơ sở ban đầu cho quá trình tự đào
tạo và đào tạo lại sau này để nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ.
- Nâng cao nhận thức về nghề nghiệp, rèn
luyện bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp cho chức
danh Thẩm phán.
Chương trình đào tạo Thẩm phán của Học
viện Tư pháp được chia thành 5 phần với số đơn
vị học trình ở từng giai đoạn đáp ứng yêu cầu đào
tạo với thời gian đào tạo và 12 tháng bao gồm:
- Phần chuyên đề chung: chiếm 4,4 % tổng
số đơn vị học trình. Phần này trang bị cho học
viên nhận thức chung về nghề Thẩm phán; bổ
sung và cập nhật kiến thức pháp luật cần thiết
phục vụ cho hoạt động nghề Thẩm phán; giới
thiệu một số vấn đề mang tính chất bổ trợ cho
hoạt động nghề nghiệp Thẩm phán
- Phần kỹ năng chung chiếm 55% thời lượng
của toàn bộ chương trình. Nội dung đào tạo này
đã trang bị cho học viên một cách toàn diện và
hệ thống các kỹ năng nghề nghiệp cơ bản của
Thẩm phán để họ có thể hành nghề độc lập ngay
sau khi được bổ nhiệm. Trong đó, kỹ năng giải
quyết các vụ án theo thủ tục xét xử sơ thẩm
được xác định là trọng tâm. Trên cơ sở đó, phần
kỹ năng chung được xây dựng trên từng môn
học, bao gồm 3 môn học sau: Kỹ năng giải
quyết vụ án dân sự; hôn nhân và gia đình kinh
doanh thương mại và lao động; Kỹ năng giải
quyết vụ án Hình sự; Kỹ năng giải quyết vụ án
Hành chính. Module của một bài kỹ năng là một
bài lý thuyết, các bài thực hành hồ sơ tình
huống và bài đối thoại.
- Sau phần đào tạo các chuyên đề chung và
kỹ năng cơ bản là các bài học diễn án. Việc thực
hành làm Thẩm phán theo mô hình “đóng kịch”,
phân “vai” và được giảng viên cài đặt các tình
huống phức tạp cần xử lý đã tạo ra những điểm
nhấn thú vị, khiến cho phiên tòa kịch tính và
sinh động, tạo dấu ấn về xử lý tình huống cho
học viên.
- Phần thực tập (chiếm 20,3% tổng thời
lượng chương trình), học viên được về các
TAND các cấp để tiếp cận với thực tiễn, sau khi
đã được trang bị nhận thức về nghề, kiến thức về
lý thuyết kỹ năng và thực hành các kỹ năng thông
qua các hồ sơ tình huống, diễn án. Trong đó,
trọng tâm là thực tập ở Tòa án cấp huyện.
- Phần kỹ năng xét xử một số loại án cụ thể
(hay còn gọi là kỹ năng chuyên sâu, chiếm
khoảng 11% tổng lượng chương trình). Các
chuyên đề kỹ năng chuyên sâu được bố trí sau
khi học viên đã được học xong các kỹ năng cơ
bản, giúp học viên có kỹ năng giải quyết các loại
án cụ thể, mang tính phổ biến trong thực tiễn xét
xử. Đây có thể coi là phần nâng cao trong
chương trình đào tạo Thẩm phán. Phần kỹ năng
này cũng được xây dựng theo từng môn học
nhưng mỗi bài học chỉ là một bài lý thuyết kỹ
năng chuyên sâu trang bị cho học viên kiến thức
trong việc giải quyết một loại án cụ thể.
Ngoài ra, trước khi thi tốt nghiệp, Học viện Tư
pháp tổ chức 3 buổi giải đáp thắc mắc (bao gồm
giải đáp thắc mắc về kỹ năng nghề nghiệp và giải
đáp thắc mắc trong việc thi tốt nghiệp) cho 3 môn
học. Kết thúc khóa học là thi tốt nghiệp nếu học
viên tích lũy đủ các điều kiện học phần.
Với kết cấu chương trình đào tạo như trên,
học viên được tiếp cận chương trình theo một
trình tự logic, hợp lý. Vì vậy, học viên được trang
bị các kiến thức và kỹ năng từ thấp đến cao, từ kỹ
năng cơ bản đến kỹ năng cụ thể và chuyên sâu.
Từ năm 2014 cho đến nay, ngoài Học viện
Tư pháp thì Học viện Tòa án cũng thực hiện
chức năng đào tạo Thẩm phán theo quy định tại
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Tương tự như chương trình đào tạo Thẩm phán
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
67
tại Học viện Tư pháp, khóa học đào tạo Thẩm
phán tại Học viện Tòa án trang bị cho học viên
những kiến thức cơ bản về kỹ năng giải quyết
các loại vụ việc hình sự, dân sự, kinh doanh,
thương mại, hành chính, lao động. Phát biểu tại
lễ khai giảng lớp đào tạo nghiệp vụ khóa 4 tại
Học viện Tòa án, đồng chí Nguyễn Trí Tuệ, Phó
Chánh án TANDTC, Giám đốc Học viện Tòa án
đã nêu rõ “Nội dung đào tạo Thẩm phán tập
trung nhấn mạnh vào hai chức năng chủ yếu
của Thẩm phán: Chức năng thực hiện hành vi
tố tụng, điều hành hoạt động tố tụng của Thẩm
phán; chức năng phân tích các vấn đề pháp lý
để đưa ra các phán quyết, quyết định trong
phạm vi quyền hạn của Thẩm phán. Bên cạnh
đó, khóa học sẽ rèn luyện bản lĩnh chính trị và
đạo đức nghề nghiệp cho các học viên, những
tình huống phát sinh trong quá trình người
Thẩm phán giải quyết vụ án.”
Nội dung chương trình đào tạo Thẩm phán
tại Học viện Tòa án cũng có nhiều điểm tương
đồng với nội dung chương trình đào tạo Thẩm
phán tại Học viện Tư pháp3.
Phần chuyên đề chung cũng được cấu tạo bởi
các chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ xét xử
chiếm khoảng 5% tổng số đơn vị học trình (30
tiết). Nội dung phần học này giúp học viên có
những nhận thức chung về ngành Tòa án, nghề
Thẩm phán và đạo đức của Thẩm phán.
Phần kỹ năng (bao gồm kỹ năng chung và
kỹ năng chuyên sâu) cũng được xây dựng theo
từng môn học có cấu trúc gần giống với chương
trình đào tạo tại Học viện Tư pháp. Điểm khác
là việc phân chia các môn học nhiều hơn so với
môn học trong chương trình đào tạo Thẩm phán
của Học viện Tư pháp. Cụ thể, bao gồm 06 môn
học: Kỹ năng giải quyết vụ án dân sự; Kỹ năng
giải quyết vụ án kinh doanh thương mại; Kỹ
năng giải quyết vụ án lao động; Kỹ năng giải
quyết vụ án hôn nhân gia đình; Kỹ năng giải
quyết vụ án Hình sự; Kỹ năng giải quyết vụ án
Hành chính.
Mỗi một môn học trong kỹ năng chung bao
gồm các bài lý thuyết và các bài thực hành hồ sơ.
Bài lý thuyết cung cấp cho học viên những kiến
thức tổng thể về lý thuyết kỹ năng liên quan đến
nội dung bài học được đúc kết từ thực tiễn. Các
bài thực hành hồ sơ tình huống được sắp xếp
ngay sau khi học bài lý thuyết với hồ sơ tình
huống cụ thể đi kèm giúp cho học viên có thể
hiểu rõ và vận dụng được lý thuyết kỹ năng. Các
môn học trong phần kỹ năng trang bị các tri thức
và kỹ năng cần thiết như: kỹ năng thụ lý vụ án,
điều tra thu thập chứng cứ nghiên cứu hồ sơ, xét
xử phiên tòa sơ thẩm, ra bản án hoặc quyết định
giải quyết vụ án.
Tương tự như chương trình đào tạo Thẩm
phán của Học viện Tư pháp, trong nội dung đào
tạo Thẩm phán của Học viện Toà án cũng có
phần đào tạo kỹ năng chuyên sâu. Phần này được
thực hiện sau khi được đào tạo kỹ năng chung,
cũng được xây dựng theo từng môn học và mỗi
bài học chỉ là một bài lý thuyết kỹ năng cung cấp
cho học viên kiến thức trong việc giải quyết một
loại án cụ thể.
Kết thúc các môn học trong nội dung đào tạo
Thẩm phán tại Học viện Tòa án là các bài diễn án
nhằm mục tiêu rèn luyện các kỹ năng của Thẩm
phán, tạo cơ hội để học viên thực hành nghề
nghiệp. Phương pháp học bài diễn án tại Học
viện Tòa án cũng giống bài học diễn án tại Học
viện Tư pháp
Một trong những điểm khác biệt căn bản của
nội dung đào tạo Thẩm phán tại Học viện Tòa án
so với chương trình đào tạo Thẩm phán tại Học
viện Tư pháp là không có phần thực tập. Điều
này có lẽ bắt nguồn từ thời gian đào tạo Thẩm
phán tại Học viện Tòa án chỉ bằng 1/2 thời gian
đào tạo Thẩm phán tại Học viện Tư pháp (6
tháng). Tuy nhiên, theo nội dung chương trình
đào tạo Thẩm phán cho thấy cũng có một số giờ
(khoảng 30 tiết) đưa học viên đi tham dự phiên
tòa và đi thực tế.
Ngoài ra, điểm khác biệt trong chương trình
đào tạo Thẩm phán tại Học viện Tư pháp và tại
Học viện Tòa án là trong chương trình đào tạo
của Học viện Tòa án còn có một phần học bổ trợ
các kiến thức về tin học (khoảng 40 tiết) như Một
số kỹ năng cơ bản khi soạn thảo văn bản bằng
phần mềm Microsoft Word 2003; Một số kỹ năng
3 Lịch học đăng trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
68
sử dụng phần mềm Power point, kỹ năng trình
bày văn bản nhằm giúp cho học viên có thể sử
dụng thành thạo tin học văn phòng giúp học viên
có thể sử dụng tốt công nghệ thông tin trong hoạt
động nghề nghiệp sau này.
Như vậy có thể thấy, trong chương trình đào
tạo Thẩm phán ở Học viện Tư pháp và Học viện
Tòa án hiện nay về cơ bản đã thể hiện được mục
tiêu đào tạo Thẩm phán có năng lực xét xử, có
các tố chất, đạo đức nghề nghiệp.
Sau gần 20 năm đào tạo, chương trình đào
tạo Thẩm phán đã ngày càng hoàn thiện, thể hiện
khá toàn diện các nội dung cần thiết để trang bị
cho người làm nghề Thẩm phán; đã cập nhật kịp
thời cho học viên những vấn đề pháp luật mới,
pháp luật chuyên sâu; trang bị các kỹ năng tiến
hành tố tụng, kỹ năng áp dụng pháp luật mà một
Thẩm phán cần có. Nội dung đào tạo vừa cụ thể,
vừa khái quát và toàn diện, vừa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn trước mắt song vẫn trang bị cho học
viên những kiến thức, nguyên tắc, phương pháp
cần thiết đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu cải cách
tư pháp của Đảng.
Chương trình đào tạo nghiệp Thẩm phán
được xây dựng theo phương án “mở”, có thể
linh hoạt điều chỉnh sau mỗi khóa hoặc ngay
trong từng khóa học cho phù hợp với yêu cầu
của thực tế. Với chương trình đào tạo Thẩm
phán hiện nay, học viên được tiếp cận chương
trình theo một trình tự logic, hợp lý, thủ tục cơ
bản làm nền tảng cho các thủ tục đặc biệt. Vì
vậy, học viên được trang bị các kiến thức và kỹ
năng từ thấp đến cao, từ kỹ năng cơ bản đến kỹ
năng cụ thể và chuyên sâu, được thực hiện hoạt
động diễn án sinh động và được đào tạo thực tế
tại các Tòa án địa phương.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên đây,
chương trình đào tạo Thẩm phán hiện nay vẫn
còn một số vấn đề bất cập cần tiếp tục nghiên cứu
đổi mới. Nội dung chương trình đào tạo hiện tại
chưa bảo đảm tính toàn diện ở mức cần thiết.
Hiện nay, nội dung chủ yếu vẫn là đào tạo kỹ
năng cơ bản mà các Thẩm phán Việt Nam đang
thực hiện nhiều năm nay khi tiến hành tố tụng,
giải quyết các vụ, việc. Trong khi, các kỹ năng
này còn mang nặng chủ nghĩa kinh nghiệm, tính
chuyên nghiệp chưa cao, chưa đáp ứng được tính
chất hiện đại và tiên tiến; tụt hậu khá xa so với kỹ
năng tiến hành tố tụng của những nền tư pháp
văn minh trên thế giới.
Về thời gian đào tạo, theo chúng tôi, thời
gian đào tạo hiện tại còn tương đối ngắn và
chưa hợp lý (đặc biệt là thời gian đào tạo Thẩm
phán của Học viện Tòa án). Như chúng ta đều
biết, nghề Thẩm phán là nghề đặc biệt, cần
nhân lực có chất lượng cao và có những kiến
thức, kỹ năng và tố chất nhất định mới có thể
hành nghề đáp ứng yêu cầu cải cách nền tư
pháp. Trong khi, hệ thống pháp luật của nước ta
đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện. Vì vậy,
yêu cầu về năng lực chủ thể áp dụng pháp luật
đòi hỏi càng phải cao.
2. Một số kiến nghị phát triển chương
trình đào tạo Thẩm phán trong thời gian tới
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020 cũng khẳng định: “Tiếp tục đổi
mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân
luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư
pháp, bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập
nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật,
kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến
thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức trong sạch,
dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế
XHCN”.
Trong quá trình cải cách, Tòa án được xác
định là cơ quan trung tâm và cải cách hoạt động
xét xử là trọng tâm trong hệ thống tổ chức và
hoạt động các cơ quan tư pháp. Đó cũng chính
là yêu cầu mà Bộ Chính trước hết và chủ yếu là
nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Bởi
đội ngũ Thẩm phán chính là lực lượng nòng cốt
vận hành bộ máy Tòa án thực hiện chức năng
tư pháp.
Đây được xem là cơ sở lý luận của các giải
pháp nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo
Thẩm phán, củng cố và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu của một đất
nước công nghiệp hiện đại như mục tiêu mà
Đảng ta đã đề ra cho năm 2020, trong đó việc
phát triển chương trình đào tạo Thẩm phán được
quan tâm đầu tiên.
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
69
Cải cách hoạt động xét xử tại phiên toà theo
hướng, đẩy mạnh việc tranh tụng theo Nghị
quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị;
nâng cao hoạt động tranh tụng theo các quy định
của Bộ Luật Tố Tụng Dân sự năm 2015, Bộ Luật
Tố Tụng Hình sự năm 2015 cũng là cơ sở cho
việc tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo
Thẩm phán.
Chương trình đào tạo Thẩm phán đang áp
dụng về cơ bản là phù hợp với đối tượng và mục
đích đào tạo. Tuy vậy với tiến trình cải cách tư
pháp, và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong
thời gian tới và từ thực tiễn được phân tích ở trên
đang đặt ra nhu cầu phải tiếp tục rà soát để chỉnh
lý, bổ sung nội dung chương trình đào tạo Thẩm
phán nhằm đáp ứng các yêu cầu thực tiễn hành
nghề hiện nay.
Chương trình đào tạo Thẩm phán cần được
hoàn thiện trên cơ sở đảm bảo khung chương
trình chung với cấu thành phần chuyên đề
chung; phần kỹ năng; diễn án, thực tập; kỹ
năng chuyên sâu và thi tốt nghiệp. Nội dung
chương trình phải căn cứ vào yêu cầu thực tiễn,
tiêu chuẩn của chức danh Thẩm phán. Trong đó
quán triệt phương châm lý luận phải gắn thực
tiễn, học đi đôi với hành đảm bảo hiệu quả,
thiết thực. Đồng thời nội dung chương trình
đào tạo phải kết hợp trang bị kiến thức chuyên
môn với việc nâng cao nhận thức về chính trị,
đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ xét
xử. Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ trang bị
cần toàn diện đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm
tránh dàn trải. Trước mắt, trong điều kiện chưa
thể thực hiện việc đào tạo chung cho Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Luật sư thì Chương trình
đào tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cần bổ
sung thêm các nội dung liên quan đến vị trí, vai
trò và một số kỹ năng cơ bản của Kiểm sát viên
và Luật sư trong hoạt động tố tụng. Trong thời
gian tới cần đưa vào chương trình đào tạo bộ
môn đạo đức nghề nghiệp cho học viên Thẩm
phán. Giảm thời lượng cập nhật văn bản pháp
luật mới, pháp luật nội dung. Tập trung vào
việc rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ xét xử, kinh
nghiệm và tác nghiệp cụ thể. Chương trình đào
tạo Thẩm phán phải đảm bảo thống nhất với
chương trình đào tạo các chức danh tư pháp
khác như kiểm sát, Luật sư đồng thời phải đảm
bảo tính hiện đại, thiết thực và có cơ cấu hợp
lý. Cùng với việc nâng cao các kiến thức kỹ
năng trong chương trình đào tạo Thẩm phán thì
cần tăng cương thời lượng đào tạo để nghiên
cứu và trao dồi kỹ năng nhiều hơn nữa thì mới
có thể đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong
giai đoạn cải cách tư pháp.
Bên cạnh việc tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung
chương trình đào tạo Thẩm phán thì việc xây
dụng chương trình Thẩm phán mới phù hợp với
yêu cầu đào tạo là rất cần thiết.
Qua nghiên cứu mô hình đào tạo Thẩm phán
nhiều nước trên thế giới cho thấy, nhiều nước
trên thế giới tiến hành đào tạo chung các chức
danh tư pháp. Ví dụ, Nhật Bản đào tạo 3 chức
danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong
một chương trình chung thống nhất với 3 nhóm
nội dung chính là xét xử, biện hộ, công tố. Cộng
hoà Pháp đào tạo chung 2 chức danh là Thẩm
phán và Công tố viên (Kiểm sát viên) trong một
chương trình chung. Nhiều nước khác tuy không
có thiết chế đào tạo riêng cho Thẩm phán nhưng
Thẩm phán được lựa chọn bổ nhiệm trong số
những Luật sư giỏi nên họ am hiểu rất sâu sắc
nghiệp vụ của Luật sư. Ở Việt Nam chủ trương
đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư trong một chương trình đang được triển
khai. Từ năm 2004, Bộ Tư pháp đã giao cho Học
viện Tư pháp chủ trì, phối hợp với các đơn vị
chức năng của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng Chương trình
chung đào tạo nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư. Hiện nay, chương trình chung đào tạo
nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư đã
được thông qua và theo kế hoạch sẽ được triển
khai thực hiện năm 2018.
Chúng tôi cho rằng, việc đào tạo chung
nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong
một chương trình có nhiều lợi thế. Trước hết,
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư là ba chức
danh có quan hệ mật thiết với nhau trong các
hoạt động tố tụng; nếu họ hiểu được kỹ năng
nghề nghiệp của nhau sẽ nhanh chóng thống nhất
ý kiến khi đánh giá về cùng một vấn đề, giúp giải
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
70
quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, đúng pháp
luật và phù hợp với các tình tiết khách quan. Việc
đào tạo Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên trong
một chương trình thống nhất tạo điều kiện thuận
lợi cho việc luân chuyển công tác giữa các chức
danh này, tạo điều kiện thực hiện được chủ
trương quan trọng của Nghị quyết số 49-NQ/TW
là “mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức
danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ
quan tư pháp, mà còn là các luật gia, Luật sư”.
Bên cạnh đó, việc thống nhất đào tạo các chức
danh tư pháp tạo điều kiện cho việc tập trung
năng lực đào tạo (giáo viên, giáo trình, tài liệu, cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động đào
tạo) và tạo nhiều thuận lợi cho việc tổ chức thực
hiện các khoá đào tạo (tổ chức các buổi diễn án,
thảo luận, toạ đàm khoa học).
Có thể nói rằng, công tác đào tạo Thẩm phán
trong những năm qua đã thu được nhiều thành
quả đáng trân trọng, là một bước tiến vượt bậc
trong công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao năng lực cán bộ, công chức các cơ quan
tư pháp nói chung; tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng cao làm nguồn bổ nhiệm Thẩm phán nói
riêng. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp
và hội nhập quốc tế thì, kết quả đó chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền. Một trong những
giải pháp nâng chất lượng đào tạo Thẩm phán là
phải nâng cao chất lượng chương trình đào tạo,
luôn bổ sung, cập nhật chương trình đào tạo phù
hợp theo từng thời kỳ và đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp./.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Tổ chức TAND năm 2014
2. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020.
3. Quyết định số 653/QĐ-HVTP của Giám
đốc Học viện Tư pháp Ban hành Chương trình
chi tiết đào tạo nghiệp vụ xét xử khóa 15.
4. Lịch học lớp đào tạo xét xử của Học viện
Tòa án (xem tại an.gov.vn/portal/
page/portal/hvta/27676673/27677503.
Ngoài ra, nhà nước phong kiến rất coi trọng
tính uy nghiêm của bộ máy công quyền trong
nghi lễ công đường cũng như phẩm phục của các
quan chức. Đối với các quan Thừa, Hiến, quan
Lục bộ, các quan Ngự sử, các quan Đại thần,
nghi thức trang phục càng thêm phần trang trọng.
Coi trọng vấn đề thưởng phạt, lễ nghĩa trong
quan triều giúp cho bộ máy nhà nước hoạt động
hiệu quả, đây là những yếu tố tích cực trong quản
lý nhà nước mà các nhà nước sau cần nghiên cứu
áp dụng.
Nói chung, thời kỳ này, pháp luật đã có nhiều
tiến bộ trong xây dựng và áp dụng pháp luật một
cách có hiệu quả mà pháp luật hiện nay cần
nghiên cứu kế thừa.
Tóm lại, một số quan điểm chính trị cho
rằng thời kỳ này nên tách hệ thống hành chính
khỏi hệ thống tố tụng, giảm bớt sự chuyên chế
của chính quyền bằng việc giám sát và khảo
khoá quan lại, nhưng về căn bản do xuất phát
từ cơ cấu tập quyền trong quản lý nhà nước
nên chính quyền và quan chức thời kỳ này về
cơ bản vẫn mang tính chất đặc quyền đặc lợi.
Đặc trưng này đã chi phối toàn bộ hệ thống
Nha môn và hoạt động của các cơ quan tố
tụng./.
Tài liệu tham khảo
1. Quốc triều Hình luật, Nhà xuất bản Pháp
lý, năm 1991.
2. Quốc triều Khám tụng điều lệ, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1994.
3. Hoàng Việt luật lệ, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội, năm 1994.
4. Một số văn bản điển chế và pháp luật
Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, năm 2006.
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG CỦA NHÀ NƯỚC
PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỶ XV - XIX
(Tiếp theo trang 64)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_kien_nghi_phat_trien_chuong_trinh_dao_tao_tham_phan_t.pdf