Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện
pháp luật hình sự và tăng cường giải
thích, hướng dẫn pháp luật hình sự. Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017
đã có nhiều tiến bộ, khắc phục được nhiều
hạn chế của Bộ luật hình sự năm 1999,
tuy nhiên, một số quy định, chế định trong
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm
2017 vẫn chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó
khăn trong quá trình áp dụng. Ví dụ, quy
định “xét thấy không cần phải bắt chấp
hành hình phạt tù” tại khoản 1 Điều 65 Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017
về án treo là khá chung chung, trừu tượng
và phụ thuộc rất lớn vào chủ quan của các
thành viên Hội đồng xét xử. Điều này là
một trở ngại rất lớn cho việc áp dụng chế
định án treo trong thực tiễn xét xử. Vì
vậy, cần nghiên cứu để thay thế bằng quy
định cụ thể, rõ ràng hơn, tạo thuận lợi cho
việc áp dụng pháp luật.
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi năm 2017 đã có một số sửa đổi, tuy
nhiên vẫn cần tiếp tục có những giải
thích, hướng dẫn để có cách hiểu và vận
dụng thống nhất. Điều 175 BLHS năm
2015 đã bổ sung “tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia
đình họ”, tuy nhiên, nội hàm của khái
niệm này lại chưa có văn bản nào giải
thích, hướng dẫn. Mặt khác, khái niệm
“bỏ trốn”, “cố tình không trả”, “gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn
xã hội” trong quy định của Điều 175
BLHS cũng chưa được làm rõ. Việc giải
thích, hướng dẫn cụ thể những khái niệm
này là yêu cầu cấp bách tạo thuận lợi cho
quá trình áp dụng pháp luật cũng như bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kiến nghị từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 51 (01/2019) 61-69 61
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Duy Tường**†
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 8/7/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 8/01/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/01/2019
Tóm tắt: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua cho thấy vẫn còn
những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự. Bài viết này phân tích làm rõ một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, qua đó đưa ra một số kiến nghị góp phần bảo đảm
áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Từ khóa: Áp dụng pháp luật hình sự; Thực tiễn; Tội phạm; Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản; Tòa án nhân dân; thành phố Hồ Chí Minh.
1. Khái quát về áp dụng pháp
luật hình sự của Tòa án đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo quan điểm phổ biến hiện
nay, áp dụng pháp luật là một trong bốn
hình thức thực hiện pháp luật là: Tuân thủ
pháp luật; Thi hành pháp luật; Sử dụng
pháp luật và Áp dụng pháp
luật.1******************************
Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp
luật của Trường Đại học Luật định nghĩa:
* Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hưng Yên
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, 2011,
tr. 185.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Sđd, tr. 186.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện
pháp luật trong đó nhà nước thông qua
các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách
có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những quy định của
pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các
quy định của pháp luật để tạo ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ
hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật
cụ thể.2††††††††††††††††††††††††††††††
62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Từ định nghĩa trên, có thể định nghĩa: Áp
dụng pháp luật hình sự của Tòa án đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó Tòa án nhân danh Nhà nước căn
cứ vào các quy định của pháp luật nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng tạo
ra các quyết định hoặc bản án làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ
pháp luật hình sự trong từng vụ án hình
sự cụ thể.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Giai đoạn 2014 -2018 tòa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử 11 vụ
án phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, trong đó có 8 vụ bị kháng
cáo, kháng nghị. Trong 8 vụ có kháng
cáo, kháng nghị thì có 5 vụ giữ nguyên
bản án sơ thẩm, chỉ có 3 vụ bị sửa hình
phạt. Nghiên cứu các vụ án được Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm có sửa hình
phạt cho thấy nổi lên một số hạn chế,
vướng mắc sau đây:
2.1. Tòa án cấp sơ thẩm chưa
xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ
Nghiên cứu nội dung vụ án Hoàng
Văn T cho thấy: T là nhân viên của tiệm
cầm đồ tại địa chỉ số 11 DDN, phường Q,
Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh đã lấy
của chủ tiệm cầm đồ (ông Vũ Xuân T) 1
chiếc xe máy hiệu AirBlade, 1 điện thoại
di động Iphone 5 đã qua sử dụng, 1 máy
3 Trích Bản án hình sự sơ thẩm số
26/2018/HSST ngày 05/4/2018 của Tòa án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
tính bảng Ipad đã qua sử dụng và 25 triệu
đồng tiền mặt. Bản kết luận giám định số
152/HĐĐG ngày 17/12/2014 định giá xe
gắn máy Honda AirBlade trị giá
25.000.000 đồng; Điện thoại di động
Iphone 5 trị giá 6.000.000 đồng; Máy tính
bảng Ipad trị giá 6.500.000 đồng. Tổng
giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của
ông T là 62.500.000 đồng. Tòa án cấp sơ
thẩm đã xem xét chấp nhận các tình tiết
giảm nhẹ là: Bị cáo chưa có tiền án, tiền
sự; phạm tội lần đầu; thành khẩn khai
báo; ăn năn hối cải. Từ đó, Tòa án cấp sơ
thẩm áp dụng điểm p khoản 1 và điểm d
khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45
BLHS 1999 tuyên bố Hoàng Văn T phạm
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
và xử phạt Hoàng Văn T 3 năm
tù.3‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡
Hoàng Văn T có đơn kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm nhận
định, ngoài các tình tiết mà Hội đồng xét
xử sơ thẩm đã ghi nhận, bị cáo Hoàng
Văn T còn có những tình tiết khác, như bị
cáo có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo sau khi
phạm tội đã hiến thận để cứu người, được
Bệnh viện Đa khoa PX xác nhận. Mặt
khác, nghiên cứu hoàn cảnh gia đình bị
cáo cho thấy, bị cáo sinh năm 1986 tại
Nam Hà, đăng ký thường trú tại huyện X
tỉnh Ninh Bình. Bị cáo mất mẹ từ nhỏ, cha
bị cáo là thương binh. Bị cáo có hoàn
cảnh gia đình khó khăn nên chỉ học đến
lớp 11 thì theo người quen vào thành phố
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 63
Hồ Chí Minh làm thuê, kiếm tiền. Rõ ràng
hành vi chiếm đoạt 62.500.000 đồng một
phần cũng do lỗi của ông T, chủ tiệm cầm
đồ đã thiếu kiểm tra, giám sát, quy trình
hoạt động có nhiều sơ hở nên phần nào
kích thích ý định phạm tội của T. Việc
không đánh giá chính xác những tình tiết
giảm nhẹ, cũng như không làm rõ nguyên
nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội
làm cho việc đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội chưa
đúng, dẫn đến hình phạt mà tòa án cấp sơ
thẩm áp dụng cho T là quá nặng, chưa
tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, nên chưa đáp
ứng được mục đích của hình phạt. Từ
nhận định này, Tòa án cấp phúc thẩm đã
chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt
cho T từ 3 năm tù xuống thành 2 năm
tù.4§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§
Trường hợp của Phan Thị Thanh T cũng
là vụ án mà tòa án chưa đánh giá hết các
tình tiết của vụ án. Nội dung vụ án: Phan
Thanh T được chị Nguyễn Thị Tuyết M
tin tưởng giao cho điều khiển xe mô tô
gửi vào bãi gửi xe. T đã đem xe đi bán với
giá 10.000.000 đồng và tiêu xài hết tiền
rồi bỏ về quê ở Bình Thuận. Chị M không
liên lạc được nên trình báo công an. Sợ bị
bắt nên 10 ngày sau, T đã đem tiền chuộc
lại xe mô tô và mang trả lại cho chị M.
Kết luận định giá tài sản số 24 ngày
4 Bản án hình sự phúc thẩm số
238/2018/HSPT ngày 12 tháng 6 năm 2018
của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh.
5 Trích Bản án sơ thẩm số 220/2017/HSST
ngày 13/7/2017 của TAND quận Thủ Đức,
thành phố Hồ Chí Minh.
19/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản
quận Thủ Đức kết luận: Chiếc xe trị giá
25.592.000 đồng. Bản án sơ thẩm số
220/2017/HSST ngày 13/7/2017 của
TAND quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh tuyên bị cáo T phạm tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hội đồng
xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 140;
điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt
bị cáo Phan Thanh T 10 tháng tù.5* T làm
đơn kháng cáo. Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định, Hội đồng xét xử cấp sơ
thẩm đã đánh giá các tình tiết giảm nhẹ và
T được hưởng, tuy nhiên, Hội đồng xét xử
cấp sơ thẩm vẫn chưa đánh giá hết các
tình tiết giảm nhẹ mà T phải được hưởng,
như bản thân T là quân nhân xuất ngũ, gia
đình có hoàn cảnh khó khăn nên nhất thời
phạm tội. Sau khi phạm tội, T đã chuộc
lại xe và trả lại cho người bị hại. Như vậy,
hậu quả của hành vi phạm tội đã bị khắc
phục hoàn toàn. Trường hợp này thể hiện
T là người vừa thành khẩn khai báo, vừa
ăn năn hối cải nên có căn cứ giảm nhẹ
hình phạt cho T. Trên cơ sở đó, Hội đồng
xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng
cáo, giảm nhẹ hình phạt cho T từ 10 tháng
tù xuống 8 tháng tù.6†
Vụ án của Phạm Thị Bảo Tr phạm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng là
vụ án chưa đánh giá hết các tình tiết của
vụ việc. Nội dung vụ việc như sau: Từ
6 Bản án hình sự phúc thẩm số
509/2017/HSPT ngày 22 tháng 9 năm 2017
của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh.
64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
tháng 6 đến tháng 8 năm 2014, lợi dụng
khâu quản lý của trường mầm non
V.D.T.T thuộc Công ty TNHH cổ phần
giáo dục QT còn nhiều kẽ hở, khi thu tiền
của phụ huynh đóng học phí, Tr gửi email
báo cho bà Hoàng A (Người đại diện theo
pháp luật của công ty) một nửa số tiền của
từng phụ huynh đóng học phí, nửa còn lại
Tr chiếm đoạt. Ngoài ra, Tr cũng kê
khống hóa đơn sửa chữa và mua sắm
trang thiết bị. Tổng số tiền Tr chiếm đoạt
là 184.236.000 đồng. Hội đồng xét xử đã
vận dụng điểm a khoản 2 Điều 140 Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51,
khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt
Phạm Thị Bảo Tr 2 năm 6 tháng tù.7‡Bị
cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và
xin được hưởng án treo vì hoàn cảnh gia
đình khó khăn. Tòa án cấp phúc thẩm
nhận xét: Bị cáo có nhân thân tốt, thái độ
khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã tự
nguyện khắc phục nộp lại toàn bộ số tiền
chiếm đoạt trước khi khởi tố vụ án, người
bị hại có đơn bãi nại đề nghị giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có
chồng tham gia cách mạng, được tặng
thưởng nhiều huy chương. Bị cáo có hoàn
cảnh gia đình khó khăn, có con nhỏ; Bị
cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong quá trình
tại ngoại chấp hành tốt pháp luật nhà
nước; Bị cáo có công việc ổn định và có
con nhỏ nên xét thấy không cần thiết áp
dụng hình phạt tù giam mà cho bị cáo
được hưởng án treo cũng đạt được mục
7 Trích Bản án hình sự sơ thẩm số
09/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2018
đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp
phúc thẩm áp dụng điểm d khoản 2 Điều
140 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm b, s
khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 khoản
2 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo
Phạm Thị Bảo Tr 2 năm 6 tháng tù nhưng
cho hưởng án treo, thời gian thử thách là
5 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Như vậy, trong cả ba vụ án trên,
có thể thấy, Hội đồng xét xử sơ thẩm mặc
dù về cơ bản đã vận dụng đúng những
tình tiết của vụ án để quyết định hình
phạt, vì vậy về cơ bản, hình phạt được
quyết định là tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, một số tình tiết vẫn chưa được
Hội đồng xét xử đánh giá một cách toàn
diện, nhất là các tình tiết thuộc về hoàn
cảnh gia đình, nhân thân người phạm tội.
Bên cạnh đó, những vấn đề liên quan đến
nguyên nhân và điều kiện của hành vi
phạm tội cụ thể chưa được tòa án làm rõ
để dựng lên một bức tranh đầy đủ, toàn
diện và chân thật nhất về vụ việc phạm tội
để từ đó có nhận thức một cách đầy đủ,
chính xác nhất nhân thân người phạm tội
và các tình tiết có liên quan nhằm đưa ra
một hình phạt chính xác, phù hợp nhất với
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội. Các bản án đã được Hội đồng
xét xử chấp nhận kháng cáo và tuyên sửa
án sơ thẩm cho thấy một xu hướng là các
bản án sơ thẩm đều xử theo hướng áp
dụng một hình phạt nghiêm khắc hơn so
của Tòa án nhân dân quận 7 thành phố Hồ
Chí Minh.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 65
với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội. Do vậy, cả 3 bản án sơ thẩm
bị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa thì đều
sửa theo hướng nhẹ hơn, trong đó 1 bản
án giảm từ 3 năm tù xuống thành 2 năm
tù; 1 bản án giảm từ 10 tháng tù xuống
còn 8 tháng tù và 1 bản án giữ nguyên
mức hình phạt 2 năm 6 tháng tù nhưng
cho hưởng án treo.
2.2. Tòa án cấp sơ thẩm chưa
mạnh dạn áp dụng án treo
Án treo là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa
án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt
tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp
hành hình phạt tù.8§Án treo là một chế
định vừa thể hiện tính nhân đạo của Pháp
luật hình sự Việt Nam, vừa có tác dụng
khuyến khích người phạm tội tự tu
dưỡng, rèn luyện, giáo dục tại cộng đồng
với sự hỗ trợ tích cực của gia đình, cơ
quan, xã hội.9**Bên cạnh đó, án treo cũng
có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế, giúp tiết
kiệm rất nhiều kinh phí cải tạo, giáo dục
người phạm tội thi hành án trong các trại
giam.10††
Việc áp dụng án treo mang lại nhiều lợi
ích cả cho nhà nước cũng như cho người
phạm tội, vì vậy Tòa án nhân dân tối cao
liên tục có các văn bản hướng dẫn áp
8 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01
tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60 của
Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm
2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình
sự về án treo.
dụng chế định án treo nhằm giúp tòa án
nhân dân các cấp có thể áp dụng đúng
nhất chế định này để vừa bảo đảm lợi ích
của người phạm tội, vừa mang lại lợi ích
cho Nhà nước. Mặc dù Tòa án nhân dân
tối cao mới ban hành Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm
2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật
hình sự về án treo, tuy nhiên, Nghị quyết
này mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7
năm 2018. Vì vậy, các vụ án nêu trên đều
áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11
năm 2013 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60
của Bộ luật hình sự về án treo. Chiếu theo
hướng dẫn của Nghị quyết này, nhiều vụ
án trong số 8 vụ án bị kháng cáo, kháng
nghị nói trên thỏa mãn các điều kiện được
hưởng án treo và nhẽ ra người phạm tội
phải được hưởng án treo. Ví dụ vụ án của
Phạm Thị Bảo Tr nói trên, mặc dù Hội
đồng xét xử cấp sơ thẩm tuyên phạt 2 năm
6 tháng tù, tuy nhiên, Hội đồng xét xử
phúc thẩm đã sửa lại bản án, tuyên phạt
Tr 2 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án
treo. Theo chúng tôi, việc tòa án quyết
định cho Tr hưởng án treo là hoàn toàn có
cơ sở, vì Tr thỏa mãn cả 5 điều kiện được
nêu tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP
là: Bị xử phạt tù không quá ba năm về tội
9 Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb.
Công an nhân dân, trang 302.
10 Nguyễn Văn Bường, Chế định án treo
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
miền Trung và Tây Nguyên, Luận án tiến sỹ
luật, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017,
trang 41.
66 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng; Có nhân thân tốt; Có nơi
cư trú cụ thể, rõ ràng; Không có tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự; Có khả
năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi
chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh
hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm
về tham nhũng. 11‡‡Bị cáo Tr cũng không
thuộc các trường hợp mà Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn là không cho hưởng án
treo tại khoản 2 Điều Điều 2 Nghị quyết
số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11
năm 2013 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 60
của Bộ luật hình sự về án treo. Những tình
tiết này về cơ bản là có thể dễ dàng nhận
biết, tuy nhiên về điều kiện “Có khả năng
tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp
hành hình phạt tù thì không gây ảnh
hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm” là một điều kiện không
dễ dàng nhận thức được. Chính điều này
là một rào cản mà nhiều Hội đồng xét xử
không quyết định cho bị cáo hưởng án
treo. Nghiên cứu 8 vụ án bị kháng cáo,
kháng nghị cho thấy, cả 8 bị cáo trong 8
vụ án đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt,
trong đó có 4 bị cáo xin được hưởng án
treo. Tuy nhiên trong số 4 bị cáo xin được
hưởng án treo thì chỉ có duy nhất 1 bị cáo
được Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án
treo (chiếm tỷ lệ 25%). Theo chúng tôi,
11 Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng 11 năm
2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình
sự về án treo.
đây là một tỷ lệ quá ít bởi nhiều bị cáo
trong số các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt
có thể xem xét cho hưởng án treo, nhưng
Hội đồng xét xử đã không cho các bị cáo
này được hưởng án treo. Ví dụ, nghiên
cứu vụ án Phạm Thị Minh N lợi dụng việc
được giao làm thu ngân cho siêu thị Lotte
Mart Gò Vấp, biết được dữ liệu thanh
toán của người đang thực tập thì không
được lưu vào dữ liệu của siêu thị nên khi
thanh toán tiền cho khách, N đã xuất hóa
đơn thanh toán ở chế độ thực tập để chiếm
đoạt số tiền bán hàng. Tính đến thời điểm
bị phát hiện, từ tháng 6 đến tháng 8/2017,
N đã chiếm đoạt tổng số tiền là
45.665.000 đồng. Bản án sơ thẩm tuyên
N phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản; căn cứ khoản 1 Điều 140 Bộ
luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều
52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử
phạt N 6 tháng tù. N làm đơn xin giảm
nhẹ hình phạt và xin được hưởng án
treo.12§§ Tòa án cấp phúc thẩm nhận định,
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ, như thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho
người bị hại; bị cáo chưa có tiền án, tiền
sự. Tuy nhiên, ở đây xuất hiện quan điểm
khác nhau giữa Viện kiểm sát và Tòa án.
Viện kiểm sát cho rằng, hành vi của N
không thuộc trường hợp phạm tội nhiều
lần. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc
12 Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HSST
ngày 16-3-2018 của Tòa án nhân dân quận
Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 67
thẩm nhận định, vì bị cáo N chỉ được
phân công tính tiền cho khách hàng vào
mỗi thứ 7 và chủ nhật hàng tuần, nên mỗi
lần bị cáo chiếm đoạt tiền của siêu thị là
không liên tục về thời gian nên hành vi
của bị cáo thỏa mãn tình tiết “Phạm tội
nhiều lần. Theo chúng tôi, lập luận này
của Hội đồng xét xử là chưa thỏa đáng.
Sự khác nhau cơ bản giữa tội liên tục và
phạm tội nhiều lần là tội liên tục là tội
phạm mà hành vi khách quan có tính liên
tục, bao gồm nhiều hành vi cùng loại xảy
ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, cùng
xâm hại một quan hệ xã hội và đều bị chi
phối bởi ý định phạm tội. Phạm tội nhiều
lần là trường hợp người phạm tội đã thực
hiện một tội phạm nhiều lần mà các lần
trước chưa bị xử lý. Xét hành vi của N là
trường hợp N được phân công làm thu
ngân vào các cuối tuần. Lợi dụng kẽ hở
trong quan lý của siêu thị, mỗi lần thực
hiện nhiệm vụ, N đều sử dụng hành vi
gian dối “xuất hóa đơn thanh toán ở chế
độ thực tập” để chiếm đoạt tiền. Ở đây,
cần xét đến tính chất công việc của N. Do
N chỉ được giao thực hiện nhiệm vụ thu
ngân vào các cuối tuần nên mỗi khi được
giao nhiệm vụ thì N đều thực hiện hành
vi chiếm đoạt tài sản. Trường hợp này
hoàn toàn khác trường hợp N được giao
nhiệm vụ thu ngân liên tục tất cả các ngày
từ tháng 6 đến tháng 8/2017, nhưng chỉ
cuối tuần N mới thực hiện hành vi phạm
tội. Trường hợp này mới được coi là thực
hiện tội phạm một cách không liên tục.
Còn trường hợp N chỉ được giao thực
hiện nhiệm vụ vào các cuối tuần, mỗi khi
có điều kiện thực hiện nhiệm vụ thì N đều
thực hiện cùng một dạng hành vi phạm
tội, các hành vi này đều bị chi phối bởi
cùng một mục đích phạm tội. Vì vậy,
cùng với nguyên tắc làm lợi cho bị can, bị
cáo thì trong trường hợp này, cần xác
định hành vi phạm tội của N thuộc trường
hợp tội liên tục chứ không phải phạm tội
nhiều lần. Mặt khác, xét các điều kiện của
N có đủ các điều kiện theo hướng dẫn của
Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày
01 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều
60 của Bộ luật hình sự về án treo (Nay là
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày
15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều
65 của Bộ luật hình sự về án treo). Trong
vụ án này, N chỉ bị xử phạt 6 tháng tù;
Sau khi phạm tội, N đã thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải; N đã bồi thường toàn
bộ số tiền đã chiếm đoạt; N chưa có tiền
án, tiền sự; Hoàn cảnh gia đình khó khăn,
cha mẹ ly hôn; bị cáo phải nuôi mẹ già và
anh trai bị bệnh nan y; bị cáo có nơi ở rõ
ràng. Theo chúng tôi, trường hợp này,
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nên chấp
nhận kháng cáo theo hướng tuyên phạt bị
cáo 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo
bởi bị cáo N đã nhận thức rõ hành vi phạm
tội và hoàn toàn có khả năng tự giáo dục,
cải tạo. Việc cho bị cáo N được hưởng án
treo sẽ vừa đáp ứng mục đích của hình
phạt, thể hiện tốt chính sách nhân đạo của
pháp luật hình sự, giúp bị cáo có điều kiện
chăm sóc mẹ già, anh trai bị bệnh nan y,
đồng thời giúp tiết kiệm kinh phí thi hành
án phạt tù.
3. Một số kiến nghị bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật hình sự
Áp dụng đúng pháp luật hình sự
chính là bảo đảm tốt nhất hiệu quả điều
68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chỉnh của các quy phạm pháp luật hình
sự, từ đó góp phần bảo đảm các quyền và
lợi ích cơ bản của người phạm tội. Để bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, theo chúng tôi cần thực hiện tốt một
số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện
pháp luật hình sự và tăng cường giải
thích, hướng dẫn pháp luật hình sự. Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017
đã có nhiều tiến bộ, khắc phục được nhiều
hạn chế của Bộ luật hình sự năm 1999,
tuy nhiên, một số quy định, chế định trong
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm
2017 vẫn chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó
khăn trong quá trình áp dụng. Ví dụ, quy
định “xét thấy không cần phải bắt chấp
hành hình phạt tù” tại khoản 1 Điều 65 Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017
về án treo là khá chung chung, trừu tượng
và phụ thuộc rất lớn vào chủ quan của các
thành viên Hội đồng xét xử. Điều này là
một trở ngại rất lớn cho việc áp dụng chế
định án treo trong thực tiễn xét xử. Vì
vậy, cần nghiên cứu để thay thế bằng quy
định cụ thể, rõ ràng hơn, tạo thuận lợi cho
việc áp dụng pháp luật.
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa
đổi năm 2017 đã có một số sửa đổi, tuy
nhiên vẫn cần tiếp tục có những giải
thích, hướng dẫn để có cách hiểu và vận
dụng thống nhất. Điều 175 BLHS năm
2015 đã bổ sung “tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia
đình họ”, tuy nhiên, nội hàm của khái
niệm này lại chưa có văn bản nào giải
thích, hướng dẫn. Mặt khác, khái niệm
“bỏ trốn”, “cố tình không trả”, “gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn
xã hội” trong quy định của Điều 175
BLHS cũng chưa được làm rõ. Việc giải
thích, hướng dẫn cụ thể những khái niệm
này là yêu cầu cấp bách tạo thuận lợi cho
quá trình áp dụng pháp luật cũng như bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật.
Thứ hai, cần tăng cường năng lực
chuyên môn, kỹ năng áp dụng pháp luật
của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân
dân nói riêng cũng như đội ngũ tiến hành
tố tụng nói chung. Thực hiện Chiến lược
cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ chính trị, chất lượng của đội ngũ
cán bộ có chức danh tư pháp đã được
nâng lên một bước, nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Thực
hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày
4/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của
Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xâỵ
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đen
năm 2020, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp
trung ương đã đề ra Chương trình số
03/CTr/BCĐCCTPTW ngày 6/10/2016
về trọng tâm công tác cải cách tư pháp
nhiệm kỳ 2016-2021 trong đó có nội dung
tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
năng công tác của đội ngũ chức danh tư
pháp nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn
yêu cầu thực tiễn áp dụng pháp luật.
Thứ ba, cần tăng cường hơn nữa
cơ chế phối công tác giữa Cơ quan điều
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 69
tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Cần có các
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tăng
cường các hội thảo khoa học giữa các cơ
quan này nhằm thống nhất trong nhận
thức khoa học làm nền tảng quan trọng
trong quá trình áp dụng pháp luật trong
thực tiễn.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung
ương, Chương trình số
03/CTr/BCĐCCTPTW ngày
6/10/2016 về trọng tâm công tác cải
cách tư pháp nhiệm kỳ 2016-2021.
2. Bộ chính trị, Kết luận số 01-KL/TW
ngày 4/4/2016 về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của
Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược
xâỵ dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020.
3. Bộ chính trị, Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về
Chiến lược xâỵ dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm
2020.
4. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao, Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP ngày 01 tháng
11 năm 2013 hướng dẫn áp dụng
Điều 60 của Bộ luật hình sự về án
treo.
5. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao, Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5
năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều
65 của Bộ luật hình sự về án treo.
6. Nguyễn Văn Bường, Chế định án
treo theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây
Nguyên, Luận án tiến sỹ luật, Học
viện Khoa học xã hội, năm 2017,
trang 41.
7. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Bản
án hình sự sơ thẩm số 27/2018/HSST
ngày 16-3-2018 của Tòa án nhân
dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí
Minh.
8. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, Bản án hình sự phúc thẩm số
238/2018/HSPT ngày 12 tháng 6
năm 2018 của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh.
9. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, Bản án hình sự phúc thẩm số
509/2017/HSPT ngày 22 tháng 9
năm 2017 của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh.
10. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, Bản án hình sự sơ thẩm số
26/2018/HSST ngày 05/4/2018 của
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh
11. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, Bản án hình sự sơ thẩm số
220/2017/HSST ngày 13/7/2017 của
TAND quận Thủ Đức, thành phố Hồ
Chí Minh.
12. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh, Bản án hình sự sơ thẩm số
09/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm
2018 của Tòa án nhân dân quận 7
thành phố Hồ Chí Minh.
13. Trường Đại học Luật Hà Nội
(2010), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, tập 1, Nxb. Công an nhân dân,
trang 302.
14. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật,
Nxb. Công an nhân dân, 2011
Địa chỉ tác giả: Lê Duy Tường, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hưng
Yên. Điện thoại: 0912249388
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_kien_nghi_tu_thuc_tien_ap_dung_phap_luat_hinh_su_doi.pdf