Một số loài sao biển mới ghi nhận ở vùng biển Việt Nam

Đặc điểm: Sao biển cỡ nhỏ, 5 tay, đĩa thân hẹp (Hình 4a). Tay nhỏ, thuôn dài, chiều dài tay từ tấm đĩa 35-43 mm, đường kính đĩa thân 5-8 mm. Tấm xương lưng dạng khảm, mang gai nhỏ rải rác, phủ lớp da mỏng. Gai thịt to, phân bố rải rác, dạng đơn lẻ, không tập trung thành đám. Những tấm xương ở mặt bụng cũng mang gai nhỏ, nằm rải rác. Tấm biên trên và dưới rõ, phần ở gốc tay trơn láng, không gai, nên vách thân gần như trơn, không sần sùi. Tấm xương kề chân mút mang gai cong vào rãnh chân (Hình 4c). Một tấm sàng khá to mang gờ thô, nằm gần trung tâm đĩa. Mẫu tươi có màu nâu nhạt, chóp tay màu đỏ cam, mặt bụng màu sáng hơn (Hình 4b). Mẫu ngâm trong cồn màu trắng ngà. Nhận xét: Sao biển Metrodira subulata Gray, 1840 được nhận biết nhờ những tấm xương kề chân ống mang những gai cong vòng vào bên trong (VandenSpiegel và cs., 1998, Hình 4b). Trên thực tế Metrodira subulata được ghi nhận lần đầu tiên tại Việt Nam trong báo cáo của Antokhina và cs. (2012). Tuy vậy, trong báo cáo của Antokhina và cs. (2012) chỉ liệt kê, không mô tả, nên loài M. subulata được đề cập trong báo cáo này. Sinh thái - Phân bố: Sống ở độ sâu từ 0- 150 m (VandenSpiegel và cs., 1998). Loài được ghi nhận ở Xing-ga-po, Việt Nam, Trung Quốc

pdf6 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số loài sao biển mới ghi nhận ở vùng biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
176 Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2013, tập 19: 176-181 MỘT SỐ LOÀI SAO BIỂN MỚI GHI NHẬN Ở VÙNG BIỂN VIỆT NAM Nguyễn Thị Mỹ Ngân & Đào Tấn Hỗ Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam Tóm tắt 101 mẫu sinh vật thuộc ngành da gai đã thu được ở vùng biển Khánh Hòa từ những chuyến thu mẫu nhằm bổ sung mẫu vật cho Bảo tàng Hải dương học năm 2012. Trong số đó, 2 loài sao biển lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam là Paragonaster stenostichus Fisher, 1913, Goniodiscaster granuliferus (Gray, 1847). Sao biển Metrodira subulata Gray, 1840 được ghi nhận trước đó nhưng chưa có mô tả chi tiết cũng được đề cập trong báo cáo này. Bài báo đã cung cấp những dẫn liệu về hình thái và hình ảnh minh họa các loài. NEW RECORDS OF STARFISHES IN VIETNAM Nguyen Thi My Ngan & Dao Tan Ho Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology Abstract 101 specimens of echinoderms were collected during surveys in Khanh Hoa to modify specimens for Museum of Oceanography in 2012. Among them, two species of starfish (Asteroidea) such as Paragonaster stenostichus Fisher, 1913 and Goniodiscaster granuliferus (Gray, 1847) are newly recorded in Vietnam; Metrodira subulata Gray, 1840 is also included in this paper even though it was recorded without decription in previous studies . Morphological diagnosis of the three species are further described and illustrated. I. MỞ ĐẦU Sao biển là thuộc ngành động vật da gai, nhóm sinh vật đáy cỡ lớn thường gặp ở vùng biển Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu về sao biển đã được xuất bản như nghiên cứu động vật không xương sống trong khu hệ động vật đáy vùng biển Đông Dương của Dawydoff (1952), báo cáo của Trần Ngọc Lợi (1967), nghiên cứu khu hệ động vật và điều kiện sống ở vịnh Bắc Bộ của Gurjanova (1972). Những báo cáo ở giai đoạn tiếp theo chủ yếu của Đào Tấn Hỗ như Sơ bộ nghiên cứu về động vật da gai ở quần đảo Trường Sa (1991), ở vùng đảo Phú Quốc và Thổ Chu (1992), động vật da gai ở vùng biển tỉnh Khánh Hòa (2002) hay sinh vật đáy vùng biển Thuận Hải – Minh Hải (Nguyễn Văn Chung và cs., 1991). Kết quả tổng hợp từ các nghiên cứu cho thấy, có khoảng 56 loài sao biển được ghi nhận ở vùng biển Việt Nam (Đào Tấn Hỗ, 2002; Lane và cs., 2000). Báo cáo gần đây của Antokhina và cs., 2012 tổng hợp từ các báo cáo trước và kết quả thu mẫu trong giai đoạn từ 2003-2011 đưa ra một danh mục gồm 79 loài sao biển được ghi nhận vùng ven bờ biển Việt Nam. Tuy vậy, số liệu trên vẫn còn khá khiêm tốn so với 236 loài sao biển ở vùng biển Đông (Đào Tấn Hỗ, 2002; Chao, 2000; Lane và cs., 2000; Liu và cs., 2006; Antokhina và cs., 2012). Điều này cho thấy khả năng có thể tìm thấy thêm nhiều loài sao biển ở vùng biển Việt Nam. Bài báo này mô tả và minh họa 2 loài sao biển lần đầu tiên được ghi nhận và một loài mới ghi nhận trước đó nhằm bổ sung cho khu hệ sinh vật đáy ở biển Việt Nam. Mẫu vật thu được trong những chuyến thu mẫu cho đề tài cơ sở của Bảo tàng Hải dương học năm 2012. Tất cả mẫu vật trong 177 báo báo đều thu được trong lưới cào của ngư dân trên vùng biển Nha Trang, Khánh Hòa. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Mẫu vật thu được trong những chuyến thu mẫu cho đề tài cơ sở của Bảo tàng Hải dương học năm 2012. Tất cả mẫu vật trong báo báo đều thu được trong lưới cào của ngư dân trên vùng biển Nha Trang, Khánh Hòa. Mẫu được cố định trong dung dịch cồn 96% hoặc formalin 10%, sau đó bảo quản trong cồn 80%. Tên loài được xác định theo tài liệu của Gray, 1847; Gray, 1866; Fisher, 1919; Doderlein, 1935; Clark & Rowe, 1971; Liao & Clark, 1995; VandenSpiegel và cs., 1998. Các quan trắc sinh học như bán kính tay và đĩa thân được mô tả trong Hình 1. Hình 1. R: bán kính tay, r: bán kính đĩa thân Figure 1. R: radius of the ray, r: distance from the center of the disc to the edge of the radius III. KẾT QUẢ 1. Bộ VALVATIDA Perrier Họ GONIASTERIDAE Forbes Paragonaster stenostichus Fisher, 1913 (Hình 2a-c) Mẫu vật: Tổng số 4 mẫu thu được: R/r = 38/10, 43/13, 40/14 mm và 52/13 mm. Mẫu thu trong lưới đánh cá của ngư dân ở vùng biển Nha Trang, Khánh Hòa. Độ sâu không rõ. Ngày thu 2/7/2012. Mẫu vật hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hải dương học. Đặc điểm: Sao biển có kích thước khá nhỏ, hình sao, 5 tay dài và mảnh, góc tay tròn (Hình 2a). Những tấm cụm xương lưng tương đối lớn, phẳng, hơi tròn hoặc hình ô van, xếp đều, song song với dãy xương giữa tay. Mỗi tấm đều phủ kín những hạt tròn, những hạt ở giữa to hơn hạt ở rìa. Những tấm xương xen tia ở giữa tay luôn lớn nhất ở vùng đĩa. Tại gốc tay, những tấm xương xen tia hẹp dần, chiều dài lớn hơn chiều rộng, chúng nhỏ dần đến tận mút tay. Đây cũng chính là dãy xương duy nhất phân cách 2 dãy mảnh biên lưng (Hình 2c). 21-28 mảnh biên lưng dạng khối, hơi lồi, chiều rộng lớn hơn dài, phủ hạt nhỏ. Mặt bụng mang những tấm xương phủ gai nhỏ, thưa, tấm xương vùng giữa tay khá nhỏ (Hình 2b), trong đó những tấm xương cạnh tấm xương kề chân mút là lớn nhất và kéo dài đến giữa tấm xương biên bụng thứ 3. Ở gốc tay từ mảnh biên bụng thứ 4, không còn tấm xương bụng mà chỉ còn tấm xương kề chân mút. Mảnh biên bụng tương tự và tương ứng với mảnh biên lưng, hai tấm đầu có chiều rộng lớn hơn nhiều so với chiều dài, nên khi nhìn từ trên xuống, hai tấm xương này rất hẹp. Tấm xương kề chân mút rộng, mang gai hơi dẹp, đầu tròn. Gai nhỏ dạng đơn lẻ, nằm rải rác xung quanh các tấm xương lưng ở đĩa thân. Tấm sàng nhỏ, mang những gờ thô, nằm ở khoảng giữa tâm đĩa và mép trong của tấm biên lưng. Mẫu tươi có màu cam ở mặt lưng và vàng nhạt ở mặt bụng, vùng đĩa ở cả hai mặt đều sậm màu hơn vùng biên. Mẫu ngâm cồn màu vàng nhạt đều hai mặt. Nhận xét: Sao biển P.r stenotichus Fisher, 1913 rất giống loài P. ctenipes hypacanthus Fisher, 1913. Cả hai cùng có khu vực phân bố ở Phi-líp-pin, biển Đông (Fisher, 1919; Lane và cs., 2000). Tuy vậy, có thể nhận biết loài P. stenotichus nhờ vào hình dạng tấm xương phân cách hai dãy biên lưng. Ở vùng gần tâm đĩa, những tấm xương này dài và hẹp, trong khi đó ở loài P. ctenipes hypacanthus, những tấm xương này rộng và ngắn. Ngoài ra, đặc điểm và sự phân bố hạt trên các tấm xương cũng có sự khác biệt giữa 2 loài này. Vị trí của giống 178 Paragonaster trong hệ thống phân loại hiện vẫn đang còn được các chuyên gia trên thế giới tranh luận. Giống Paragonaster Sladen, 1889 vốn dĩ được xếp vào họ Gonasteridae, bộ Valvatida. Blake (1987) dựa vào những đặc điểm hình thái, chức năng, liên kết với những loài đã tuyệt chủng đã tách họ phụ Pseudarchasterinae (bao gồm giống Paragonaster) thành một nhóm tách biệt nhưng vẫn giữ trong họ Gonasteridae. Gần đây, nghiên cứu phả hệ dựa trên sinh học phân tử của Mah & Foltz (2011) cho thấy họ phụ Pseudarchasterinae có quan hệ gần với bộ Paxillosida hơn là Goniasteridae thuộc bộ Valvatida và đề nghị đưa Pseudarchasterinae vào bộ Paxillosida. Trong báo cáo này, Paragonaster vẫn được xếp vào họ Gonasteridae (bộ Valvatida). Sinh thái - Phân bố: Sống ở đáy cát, bùn, độ sâu đến 172-363 m (VandenSpiegel và cs., 1998). Loài này được tìm thấy ở Việt Nam, và Phi-lip-pin. 2. Bộ VALVATIDA Perrier Họ OREASTERIDAE Fisher Goniodiscaster granuliferus (Gray, 1847) (Hình 3a-b) Anthenea granulifera Gray, 1847: 77 ; 1866 : 9, Pl. 5, Figs2, 2a. Goniodiscus stella Mobius, 1859 : 9, Pl. 3, Figs 1, 2. Goniodiscaster granuliferus : Doderlein, 1935 : 81, Pl. 20, Figs 1, 1a : Clark & Rowe, 1971 : 32, 49. Mẫu vật: Tổng số 4 mẫu được đo: R/r = 83/32, 80/33, 87/34 mm và 88/40 mm. Mẫu thu trong lưới đánh cá của ngư dân ở vùng biển Nha Trang, Khánh Hòa. Độ sâu không rõ. Ngày thu 12/5/2012. Mẫu vật hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hải dương học. Đặc điểm: Sao biển có kích thước trung bình, 5 tay (Hình 3a). Thân dẹp, dạng sao, tay phát triển, gốc tay rộng, sau đó thuôn dần và nhọn ở chóp. Những tấm cụm xương lưng hình đa giác hoặc hơi tròn, tất cả đều phủ hạt mịn, tròn. Trên mỗi tấm cụm xương còn có 1 hoặc vài gai kìm dạng 2 van có kích thước tương đương hoặc hơi to hơn hạt xung quanh. Những tấm xương xen tia rõ ràng, kéo dài đến hết chiều dài tay. Mỗi tấm xương xen tia nguyên thủy ở trung tâm đĩa thân mang 1 u lồi nhỏ nhưng rõ (Hình 3b), ngoài ra vùng trung tâm đĩa còn có thêm 3- 4 u lồi tương tự. 15 mảnh biên lưng, dạng khối lồi, phủ kín hạt nhỏ, khá đều và mịn. Mảnh biên bụng tương ứng với mảnh biên lưng, phủ hạt mịn. Các mảnh biên tạo thành gờ cơ thể. Tấm xương bụng hình đa giác, phủ hạt nhỏ và thưa. Gai nhỏ rất nhiều, phân bố khắp bề mặt lưng đến gần chóp tay. Tấm sàng to, có gờ nhỏ và mịn, nằm gần trung tâm đĩa. Mẫu tươi màu nâu sậm ở mặt lưng, tấm cụm xương lưng sẫm màu hơn, vùng gần chóp tay có 1 khoảng sẫm màu, vùng kế tiếp đến chóp tay sáng màu. Mặt bụng màu trắng ngà với 5 vùng trung gian màu nâu sậm. Khi ngâm trong formalin, những vùng màu nâu chuyển sang màu tím và tạo thành những khoảng sẫm màu tương tự như khi mẫu còn tươi. Nhận xét: Sao biển Goniodiscaster granuliferus (Gray, 1847) giống sao biển G. forficulatus Clark, 1909. Chúng cùng phân bố ở vùng biển Đông (Liao & Clark, 1995). Điểm khác biệt là vùng trung tâm đĩa của G. granuliferus có 5 u lồi nhỏ nhưng rất rõ (Liao & Clark, 1995), ngoài ra mặt lưng và các tấm biên trên chỉ phủ hạt mịn mà không có gai như G. forficulatus (Clark & Rowe, 1971). Sinh thái - Phân bố: Sống ở độ sâu 110- 146 m (VandenSpiegel và cs., 1998). Được tìm thấy ở Việt Nam, Trung Quốc. 3. Bộ SPINULOSIDA Perrier Họ ECHINASTERIDAE Gray Metrodira subulata Gray, 1840 (Hình 4a- c) Mẫu vật: Có 2 mẫu thu được : R/r = 43/8 mm và 36/5 mm. Mẫu thu trong lưới đánh cá của ngư dân ở vùng biển Nha Trang, Khánh Hòa. Độ sâu không rõ. Ngày thu 02/7/2012. Mẫu vật hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hải dương học. 179 Hình 2a-c. Paragonaster stenostichus Fisher, 1913: - a. Mặt bụng, - b. Mặt lưng, - c. Tấm xương giữa. Hình 3a-b: Goniodiscaster granuliferus (Gray, 1847): – a. Mặt bụng. b. U lồi nhỏ vùng trung tâm (các mũi tên). Hình 4a-c. Metrodira subulata Gray, 1840: – a. Mặt lưng, - b. Mặt bụng, - c. Gai tấm xương vùng kề chân ống Figs 2a-c. Paragonaster stenostichus Fisher, 1913: - a.Ventral view, - b. Dorsal view, - c. Very narrow radial plates on the ray. Figs 3a-b: Goniodiscaster granuliferus (Gray, 1847): - a. Dorsal view; - b. Small tubercle (arrows) at the centre next to madreporite. Figs 4a-c. Metrodira subulata Gray, 1840: - a. Dorsal view, - b. Ventral view, - c. Adambulacral plates with curved inner spines. 180 Đặc điểm: Sao biển cỡ nhỏ, 5 tay, đĩa thân hẹp (Hình 4a). Tay nhỏ, thuôn dài, chiều dài tay từ tấm đĩa 35-43 mm, đường kính đĩa thân 5-8 mm. Tấm xương lưng dạng khảm, mang gai nhỏ rải rác, phủ lớp da mỏng. Gai thịt to, phân bố rải rác, dạng đơn lẻ, không tập trung thành đám. Những tấm xương ở mặt bụng cũng mang gai nhỏ, nằm rải rác. Tấm biên trên và dưới rõ, phần ở gốc tay trơn láng, không gai, nên vách thân gần như trơn, không sần sùi. Tấm xương kề chân mút mang gai cong vào rãnh chân (Hình 4c). Một tấm sàng khá to mang gờ thô, nằm gần trung tâm đĩa. Mẫu tươi có màu nâu nhạt, chóp tay màu đỏ cam, mặt bụng màu sáng hơn (Hình 4b). Mẫu ngâm trong cồn màu trắng ngà. Nhận xét: Sao biển Metrodira subulata Gray, 1840 được nhận biết nhờ những tấm xương kề chân ống mang những gai cong vòng vào bên trong (VandenSpiegel và cs., 1998, Hình 4b). Trên thực tế Metrodira subulata được ghi nhận lần đầu tiên tại Việt Nam trong báo cáo của Antokhina và cs. (2012). Tuy vậy, trong báo cáo của Antokhina và cs. (2012) chỉ liệt kê, không mô tả, nên loài M. subulata được đề cập trong báo cáo này. Sinh thái - Phân bố: Sống ở độ sâu từ 0- 150 m (VandenSpiegel và cs., 1998). Loài được ghi nhận ở Xing-ga-po, Việt Nam, Trung Quốc. Lời cảm ơn: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp ở Bảo tàng Hải dương học đã hỗ trợ trong quá trình thu mẫu để hoàn thành bài báo này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Antokhina T. I., O. V. Savinkhin, T. A. Britayev, 2012. Asteroidea of Vietnam with some notes on their symbionts. In Britayev T. A., Pavlov D. S. (Eds). Benthic fauna of the bay of Nhatrang, Southern Vietnam. Moscow, KMK, 491 pp. Blake D. B., 1987. Classification and phylogeny of post-Paleozoic sea stars (Asteroidea: Echinodermata). Journal of Natural History, 21: 481-528. Chao S. M., 2000. New records of sea stars (Asteroidea: Echinodermata) from the continental shelf of Taiwan. Zoological Studies, 39(3): 275-284. Clark A. M. & F. W. E. Rowe, 1971. Monograph of the shallow water Indo- west Pacific Echinoderms. London. British Museum (Nat. Hist.) Publ. No. 290, 238pp. 100 figs., 31 pls. Dawydoff C., 1952. Contribution à l’étude des invertébrés de la faune marine benthique de l’Indochine. Bulletin biologique de la France et de la Belgique, Supplement 37, 158 pp. Doderlein L., 1935. Die Asteriden der «Siboga » Expedition. III Oreasteridae. Siboga Expd., 46 : 71-110, pls 20-27. Đào Tấn Hỗ, 2002. Động vật da gai (Echinodermata) ở vùng biển tỉnh Khánh Hòa. Tạp chí Khoa Học và Công Nghệ Biển, 2(1): 1-11. Đào Tấn Hỗ, 1991. Sơ bộ nghiên cứu động vật da gai (Echinodermata) ở quần đảo Trường Sa. Tạp chí Sinh Học (Viện Khoa Học Việt Nam), Hà Nội, Phụ trương (10/1991): 44-47. Đào Tấn Hỗ, 1992. Sơ bộ nghiên cứu động vật da gai (Echinodermata) ở vùng đảo Phú Quốc và Thổ Chu. Tạp chí Sinh Học (Viện Khoa Học Việt Nam), Hà Nội, 14(2): 12-15. Đào Tấn Hỗ, 2002. Động vật da gai (Echinodermata) ở vùng biển tỉnh Khánh Hòa. Tạp chí Khoa Học và Công Nghệ Biển, 2(1): 1-11. Fisher W. K., 1919. Starfishes of the Philippine seas and adjacent waters. Bulletin of the United States National Museum, 3(100): 1-547, 156 pls. Gray J. E., 1847. Description of some new genera and species of Asteriadae. Proceedings of the Zoological Society of London, 72-82. Gray J. E., 1866. Synopsis of the species of starfish in the British Museum (with figures of some of the new species). iv + 17 pp., 16 pls. London. 181 Gurjanova E. F., 1972. The fauna of the Tonkin gulf and conditions of life in it. Exploitation of the fauna of the sea (XVIII). Acad. Sci. USSR Zool. Inst. Lane D. J. W., L. M. Marsh, D. Vandenspiegel, F. W. E. Rowe, 2000. Echinoderm fauna of the South China Sea: an inventory and analysis of distribution patterns. The Raffles Bulletin of Zoology, 8: 459-493. Liao Y. & A. M. Clark, 1995. The echinoderms of Southern China. Science Press, Beijing, China, 614 pp., 338 figs., 23 pls. Liu W., Y. Liao and X. Li., 2006. A new sea star species (Asteroidea: Luidiidae) from the South China Sea. Raffles Bulletin of Zoology, 54(2): 441-445. Mah C. L. and D. W. Foltz, 2011. Molecular phylogeny of the Forcipulatacea (Asteroidea: Echino- dermata): Systematics & biogeography. Zoological Journal of the Linnean Society, 162: 646-660. Nguyễn Văn Chung, Đào Tấn Hỗ, Lê Trọng Minh, Nguyễn Huy Yết, Tôn Thất Thống, Trần Đình Nam, Tạ Minh Đường, Phạm Thị Dự, Nguyễn Văn Lượm, Nguyễn Thị Huệ, Lê Quốc Dũng, 1991. Sinh vật đáy vùng biển Thuận Hải – Minh Hải. Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, III: 137-149. Trần Ngọc Lợi, 1967. Peulements animaux et végétaux du substrat dur intertidal de la Baie de Nhatrang, Vietnam. Mem. Inst. Ocean. Nhatrang, no.11, 236 p. VandenSpiegel D., D. J. W Lane, S. Stampanato & M. Jangoux, 1998. The asteroid fauna (Echinodermata) of Singapore, with a distribution table and an illustrated identification to the species. Raffles Bulletins of Zoology, 46 (2): 1- 40.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf22_nguyenthimyngan_trang176_181_6077_2070893.pdf