Một số nguyên nhân và yếu tố liên quan tới suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại một số địa điểm thuộc Bắc Cạn

KẾT LUẬN 1/ Kiến thức về thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi của bà mẹ ở cả hai nơi chưa đúng. Tỷ lệ các bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên có kiến thức và thực hành tốt hơn các bà mẹ ở xã Mỹ Phương. 2/ Tỷ lệ bà mẹ mang thai được chăm sóc tốt còn thấp ở các 2 địa điểm nghiên cứu. Các bà mẹ mang thai ở xã Mỹ Phưong ít đi khám thai và ít nghỉ ngơi trước sinh hơn so với các bà mẹ mang thai ở phường Phùng Chí Kiên. 3/ So với phường Phùng Chí Kiên, tỷ lệ sinh con tại trạm y tế của các bà mẹ ở xã Mỹ Phương thấp, phần lớn bà mẹ sinh con tại nhà. ở cả 2 nơi, tỷ lệ bà mẹ được truyền giáo dục sức khoẻ trong 3 tháng qua đều thấp. 4/ Trong 2 tuần qua, ở phường Phùng Chí Kiên có 18% trẻ dưới 5 tuổi bị tiêu chảy và 6,6% bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp; trong khi các tỷ lệ này ở xã Mỹ Phương là 23% và 9,2%. Cách chăm sóc trẻ bị tiêu chảyt và bị ho sốt của các bà mẹ ở cả 2 nơi còn nhiều sai sót. Xã Mỹ Phương có tỷ lệ bà mẹ mắc sai sót trong cách chăm sóc trẻ ốm cao hơn phường Phùng Chí Kiên. 5/ Ở cả hai nơi, có mối liên quan giữa tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi với học vấn của mẹ, thời điểm ăn sam và cân nặng sơ sinh của trẻ.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nguyên nhân và yếu tố liên quan tới suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại một số địa điểm thuộc Bắc Cạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học 243 MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI SUY DINH DƢỠNG Ở TRẺ DƢỚI 5 TUỔI TẠI MỘT SỐ ĐỊA ĐIỂM THUỘC BẮC CẠN Trần Chí Liêm* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Vấn đề nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ liên quan tới suy dinh duỡngở trẻ em dưới 5 tuổi là vấn đề cấp bách và chưa được nghiên cứu nhiều ở vùng núi cao phía Bắc nước ta. Phương pháp: Tác giả áp dụng phương pháp dịch tễ học mô tả cắt ngang so sánh để phân tích sự khác biệt giữa một phường ở thị xã Bắc Kạn so với một xã nông thôn ở cùng tỉnh. Tính cỡ mẫu theo phương pháp so sánh 2 tỷ lệ suy dinh dưỡng ở 2 địa phương và áp dụng kỹ thuật nhân trắc, kỹ thuật phỏng vấn đề KAP ở các bà mẹ có con dưới 5 tuổi có và không có con bị suy dinh dưỡng. Sau khi xử lý bằng phương pháp thống kê y học, tác giả đã rút ra được những kết quả như sau: Kết quả: Tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức và thực hành về nuôi dưỡng trẻ không cao nhưng ở thị xã tốt hơn ở nông thôn. - Các bà mẹ khi mang thai chưa được chăm sóc tốt và ở xã nông thôn thấp hơn ở thị xã. - Tỷ lệ các bà mẹ được tuyên truyền, giáo dục về chăm sóc sức khỏe ở xã nông thôn thấp hơn ở phường thị xã. Từ khoá: suy dinh dưỡng, KAP (kiến thức - thái độ - thực hành) ABSTRACT CAUSES AND RISK FACTORS RELATED TO THE MALNUTRITION OF CHILDREN UNDER 5 IN SOME PLACES IN BACKAN Tran Chi Liem * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 4 – 2008: 243 - 248 Introduction: The causes and risk factors related to the malnutrition of children under 5 at highland and mountanous areas of Northern Vietnam was unknown. Method: A cross – sectional study was performed to approach this tissues. We compard the malnutrition rate at Phung Chi Kien Provinct of Bac Kan township with the one at My Phuong, a rural commune. Although observations and interviewing mothers who have children at age with and without malnutrition were evaluated. Result: The overal rate of mother having knowledge of caring practive for their children was not high (20%). However, it was higher in the township than in the rural area. The rate of mothers received health education in rural commune was lower in rural commune than in the township area. The malnutrition rate related closely to mothers’s educational level, the initial time of giving additional foof besides milk and childrenls body weigh. The study syggested several potential measures to reduce malnutrition and opened other future s Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học 244 ĐẶT VẤN ĐỀ Tình trạng thiếu dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi rất phức tạp. Theo WHO thì nguyên nhân gây nên thiếu dinh dưỡng là thiếu ăn và bệnh tật. Hội nghị Thượng đỉnh họp tại Roma tháng 12/1992 cho là do nghèo khổ và thiếu kiến thức chăm sóc trẻ em (7). Theo Từ Giấy và Hà Huy Khôi quy cho 3 nhóm nguyên nhân chính: 1/3 do thiếu ăn, 1/3 do thiếu chăm sóc, 1/3 do bệnh tật. Ở nước ta người ta hay nói nhiều tới các bệnh nhiễm trùng như tiêu chảy, viêm phổi. Ngoài ra còn các nguyên nhân khác như tình trạng kinh tế, trình độ văn hoá của bố mẹ, cũng như kiến thức và thực hành của bố mẹ cũng như phong tục tập quán, quy mô gia đình, tình trạng sức khoẻ của các bà mẹ. Do đó, các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng ở nước ta cũng có một vấn đề cấp thiết và quan trọng nhất mà những vùng cao dân tộc ít người, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp rất nhiều khó khăn cũng còn ít được nghiên cứu. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại một phường thuộc thị xã Bắc Kạn và một xã nông thôn cũng thuộc Bắc Kạn, nhằm mục tiêu sau: “Mô tả và bước đầu phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại một phường thuộc thị xã Bắc Kạn và một xã nông thôn vào năm 2003. Trên cơ sở này, đề xuất một số kiến nghị và các giải pháp phòng, chống suy dinh dưỡng cho địa phương cũng như cho miền núi cao phía Bắc nước ta. ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tƣợng - Trẻ em dưới 5 tuổi - Các bà mẹ có con dưới 5 tuổi - Hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi Địa chỉ nghiên cứu - Phường Phùng Chí Kiên, thị xã Bắc Kạn - Xã Mỹ Phương thuộc huyện Ba Bể, Bắc Kạn - Nghiên cứu từ tháng 7 đến tháng 9/2003. Thiết kế nghiên cứu Theo phương pháp mô tả cắt ngang so sánh có phân tích. Cỡ mẫu và phƣơng pháp chọn mẫu Cỡ mẫu: So sánh 2 tần suất: n1=n2: cỡ mẫu trẻ < 5 tuổi ở phường và ở thị xã. P1, P2: Thăm dò tính được P1=0,27; P2=0,44 =5% =10% Z2=10,5 Tính được n1=n2=153 trẻ Các chỉ số nghiên cứu Mô tả các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ Kiến thức và thực hành nuôi dưỡng trẻ, 2 tuổi của mẹ - Kiến thức của mẹ về thời gian cho con bú sau đẻ Phỏng vấn - Thực hành cho con bú sau đẻ của mẹ Phỏng vấn - Kiến thức của mẹ về thời gian cai sữa cho trẻ Phỏng vấn - Thực hành cai sữa cho trẻ của mẹ Phỏng vấn - Thực hành cho trẻ ăn sam của mẹ Phỏng vấn Chăm sóc bà mẹ mang thai và hoạt động y tế địa phương - Tình hình khám thai của các bà mẹ Phỏng vấn - Tình hình theo dõi cân nặng của các bà mẹ khi mang thai Phỏng vấn - Thời gian nghỉ lao động trước sinh của bà mẹ Phỏng vấn - Nơi sinh con của các bà mẹ Phỏng vấn - Người đỡ đẻ cho các bà mẹ Phỏng vấn - Tình hình tuyên truyền giáo dục sức khoẻ trong 3 tháng qua Phỏng vấn Đặc điểm bệnh tật của trẻ và cách xử trí của bà mẹ - Tỷ lệ trẻ < 2 tuổi bị tiêu chảy trong 2 tuần qua Phỏng vấn - Tỷ lệ trẻ < 2 tuổi bị ho sốt trong 2 tuần qua Phỏng vấn - Cách chăm sóc trẻ ốm của các bà mẹ Phỏng vấn - Cách chăm sóc trẻ bị tiêu chảy của các bà mẹ Phỏng vấn - Các loại thức ăn bà mẹ kiêng khi trẻ bị tiêu chảy Phỏng vấn Kỹ thuật thu thập số liệu - Quan sát kiểu nhà, vật dụng giá trị các công trình vệ sinh (hố xí, giếng nước). - Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn có. - Các đặc điểm về trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thu nhập gia đình. - Kiến thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ. - Tình hình chăm sóc các bà mẹ khi mang thai. - Hoạt động y tế địa phương. Xử lý số liệu Bằng các trắc nghiệm thống kê bằng... 2 21 2211 )( 2 )( )1()1( PP PPPP Zn * Bộ Y tế Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học 245 KẾT QUẢ Nhận xét về kiến thức của bà mẹ về thời gian cho con bú sau đẻ Tại 2 địa điểm nghiên cứu, tỷ lệ bà mẹ cs kiến thức về thời gian cho con bú ngay sau đẻ còn thấp, ở phường Phùng Chí kiên là 26%, xã Mỹ Phương là 9,8%. Phần lớn các bà mẹ đều cho rằng nên cho trẻ bú từ 30 phút đến 2 giờ, chiếm tỷ lệ cao nhất (58,6% và 60,2%). Vẫn còn 15,4% bà mẹ ở Phùng Chí Kiên và 19,7% bà mẹ ở Mỹ Phương cho rằng nên cho trẻ bú sau 2 giờ. Nhận xét về thực hành nuôi dƣỡng chăm sóc trẻ dƣới 2 tuổi Về thực hành, tỷ lệ bà mẹ cho con bú ngay sau khi sinh ở phường Phùng Chí Kiên là 25%, xã Mỹ Phương là 10,8%. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sau 30 phút đến 2 giờ chiếm tỷ lệ cao nhất (59% và 59,2%). Tỷ lệ bà mẹ cho con bú sau 2 giờ ở xã Mỹ Phương chiếm cao hơn ở phường Phùng Chí Kiên (19,7% so với 14%), tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Nhận xét về kiến thức của bà mẹ về thời gian cai sữa Tại 2 địa điểm điều tra, tỷ lệ bà mẹ cho rằng nên cai sữa cho trẻ trước 12 tháng tuổi ở phường Phùng Chí Kiên cao hơn ở xã Mỹ Phương (21% và 8,2%). Phần lớn các bà mẹ cho rằng nên cai sữa cho trẻ từ 12 – 17 tháng tuổi (78,1% bà mẹ phường Phùng Chí Kiên và 66,5% ở xã Mỹ Phương). Tại phường Phùng Chí kiên, không có bà mẹ nào cai sữa cho con sau 24 tháng, chỉ có 6% bà mẹ ở xã Mỹ Phương còn cho con bú sau 24 tháng. Nhận xét về thực hành của các bà mẹ về thời gian cai sữa Về thực hành, tỷ lệ bà mẹ ở Phùng Chí Kiên cho trẻ thôi bú trước 12 tháng là 49%, cao hơn ở Mỹ Phương (24,2%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Tại 2 địa điểm điều tra, phần lớn các bà mẹ đều cai sữa khi trẻ từ 12-17 tháng tuổi. Sau 24 tháng, số trẻ còn bú mẹ ở xã Mỹ Phương còn rất thấp (0,7%) và ở phường Phùng Chí Kiên là 0% và 23% ở xã Mỹ Phương. Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp là 6,6% ở phường Phùng Chí Kiên và 9,2% ở xã Mỹ Phương. Nhận xét về cách chăm sóc trẻ ốm (ỉa chảy hoặc ho sốt) Ở các 2 địa điểm nghiên cứu, khi trẻ bị ốm phần lớn các bà mẹ không chữa gì (34,8% ở phường Phùng Chí Kiên và 38,7% ở xã Mỹ Phương). Ngoài ra, tỷ lệ bà mẹ không theo hướng dẫn của nhân viên y tế còn cao, ở phường Phùng Chí Kiên là 17,4% và 28,5% ở Mỹ Phương. Tỷ lệ bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên chăm sóc con theo hướng dẫn của nhân viên y tế là 47,8%, cao hơn bà mẹ ở xã Mỹ Phương (32,8%). Nhận xét về cách chăm sóc trẻ khi bị tiêu chảy Khi trẻ bị tiêu chảy, tỷ lệ các bà mẹ cho trẻ ăn kiêng ở phường Phùng Chí Kiên và xã Mỹ Phương đều cao (92,4% và 81,9%). Tỷ lệ không kiêng ở phường Phùng Chí Kiên là 7,6%, thấp hơn xã Mỹ Phương (18,1%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Nhận xét về các loại thức ăn mà các bà mẹ kiêng không cho trẻ ăn khi bị ỉa chảy Khi trẻ bị ỉa chảy, loại thức ăn mà bà mẹ kiêng cho trẻ ăn nhiều nhất là chất tanh (67,0% ở phường Phùng Chí Kiên và 50,8% ở xã Mỹ Phương). Tiếp theo là các chất chua cũng đuợc bà mẹ kiêng cho trẻ ăn. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ mà bà mẹ kiêng cho trẻ ăn sữa (2,6% ở phường Phùng Chí Kiên và 13% ở xã Mỹ Phương), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Nhận xét về mối liên quan giữa học vấn của mẹ với tỷ lệ suy dinh dƣỡng của trẻ dƣới 5 tuổi Tỷ lệ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi ở phường Phùng Chí Kiên và xã Mỹ Phương theo trình độ học vấn của mẹ có sự khác biệt rõ rệt. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em của những bà mẹ có học vấn từ cấp 1 trở xuống ở xã Mỹ Phương là 68,5% cao hơn phường Phùng Chí Kiên (48,6). Với bà mẹ có học vấn từ cấp 1 trở lên thì tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em phường Phùng Chí Kiên là 31,2% cao hơn xã Mỹ Phương (24,2%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Nhận xét về mối liên quan giữa thời điểm ăn sam với tỷ lệ suy dinh dƣỡng của trẻ dƣới 5 tuổi Ở phường Phùng Chí Kiên, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở nhóm ăn sam đúng thời điểm là 36,7%, thấp hơn nhóm ăn sam sớm (62,9%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Tương tự, tại xã Mỹ Phương tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở nhóm ăn sam sớm là 85,9%, cao hơn nhóm trẻ ăn sam đúng thời điểm một cách rõ rệt (P<0,001). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học 246 Nhận xét về kiến thức của bà mẹ về thời điểm ăn sam Tỷ lệ bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn sam trước 4 tháng tuổi ở phường Phùng Chí Kiên là 20,2% và ở xã Mỹ Phương là 34,1%. Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đúng về thời điểm cho trẻ ăn sam ở 2 địa điểm điều tra là 79,8% ở phường Phùng Chí Kiên và 65,4% ở xã Mỹ Phương, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Nhận xét về thực hành cho trẻ ăn sam của bà mẹ Về thực hành, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ ăn sam trước 4 tháng ở xã Mỹ Phương cao hơn phường Phùng Chí Kiên (39,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ bà mẹ khám thai đủ 3 lần ở cả 2 nơi đều rất thấp, chỉ có 18,1% bà mẹ ở Phùng Chí Kiên và 9,2% ở xã Mỹ Phương. Nhận xét về tình hình theo dõi cân nặng của bà mẹ ở cả hai nơi, tỷ lệ bà mẹ không theo dõi cân nặng khi mang thai là rất cao (81,8% ở phường Phùng Chí Kiên và 89,9% ở xã Mỹ Phương). Chỉ có 18,2% bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên và 10,1% bà mẹ ở xã Mỹ Phương có đi khám thai. Sự khác biệt về tỷ lệ bà mẹ theo dõi cân nặng ở hai nơi là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nhận xét về thời gian nghỉ lao động trƣớc sinh Biểu đồ 14 cho thấy tỷ lệ bà mẹ không nghỉ ngơi trước khi sinh con ở xã Mỹ Phương còn cao (40,7%), ở phường Phùng Chí Kiên là 28,9%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Thời gian nghỉ của bà mẹ chủ yếu là từ 3-4 tuần. Tỷ lệ nghỉ sau 1 tháng rất thấp, chỉ có 9,9% ở phường Phùng Chí Kiên và 0,9% ở xã Mỹ Phương. Bàn luận các yếu tố ảnh hƣởng đến tình trạng dinh dƣỡng của trẻ em dƣới 5 tuổi So sánh tỷ lệ cho trẻ bú sớm ngay sau sinh của các bà mẹ vùng nghiên cứu với các số liệu tham khảo Năm 1991 1993 2003 2003 Vùng HN (17) HN (19) Phường Phùng Chí Kiên, tỉnh Bắc Kạn Xã Mỹ Phương, tỉnh Bắc Kạn Bú mẹ trong 1/2 giờ đầu (%) 8,0 8,4 25,0 10,8 Những cải thiện của tình hình bú mẹ chắc chắn có vai trò ảnh hưởng của các cuộc vận động nuôi con bằng sữa mẹ đã và đang được nhiều ngành tham gia. Nhưng cũng phải nói đến vai trò quyết định của nhân viên y tế, nữ hộ sinh trong việc chủ động khuyến khích và giúp đỡ cho bà mẹ ngay sau lúc sinh vì tại thời điểm đó bà mẹ hoàn toàn chủ động, dễ tiếp nhận các lời khuyên từ nhân viên y tế. So sánh tình hình bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu với các số liệu khảo tham khảo qua các năm Trong nghiên cứu của Hà Huy Khôi – Từ Giấy 1994 () đã cho thấy rằng: ở đâu điều kiện vệ sinh môi trường thấp kém thì tỷ lệ bệnh tật và suy dinh dưỡng cao hơn so với nơi có điều kiện vệ sinh môi trường tốt hơn(24). Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng thấy rằng vấn đề vệ sinh môi trường và bệnh tật có mối liên quan với nhau. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy ở phường Phùng Chí Kiên có 18% trẻ bị tiêu chảy, 6,6% trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Còn ở xã Mỹ Phương có 23,0% trẻ bị tiêu chảy, 9,2% trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Phỏng vấn bà mẹ về cách chăm sóc trẻ khi bị ốm thì ở phường Phùng Chí Kiên có 34,8% bà mẹ trả lời là không đưa trẻ đi khám bệnh và 47,8% bà mẹ không theo hướng dẫn của cán bộ y tế địa phương. Còn ở xã Mỹ Phương có 38,7% bà mẹ không đưa trẻ đi khám bệnh, 28,5% bà mẹ không theo hướng dẫn của cán bộ y tế địa phương. Các yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở phường Phùng Chí Kiên và xã Mỹ Phương theo trình độ học vấn của mẹ có sự khác biệt rõ rệt. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của những bà mẹ có học vấn từ cấp 1 trở xuống ở xã Mỹ Phương là 68,5% cao hơn phường Phùng Chí Kiên (48,6%). Với bà mẹ có học vấn từ cấp 1 trở lên thì tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở phường Phùng Chí Kiên là 31,2%, cao hơn xã Mỹ Phương (24,2%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Ở phường Phùng Chí Kiên, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở nhóm ăn sam đúng thời điểm là 36,7%, thấp hơn nhóm ăn sam sớm (62,9%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Tương tự, tại xã Mỹ Phương tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở nhóm ăn sam sớm là 85,9%, cao hơn nhóm trẻ ăn sam đúng thời điểm một cách rõ rệt (P<0,001) (biểu đồ 20). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học 247 Về cân nặng sơ sinh, tại phường Phùng Chí Kiên, nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2.500gr) có tỷ lệ suy dinh dưỡng là 40,0%, cao hơn nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh 2.500gr (12,3%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Tại xã Mỹ Phường, nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2.500gr) có tỷ lệ suy dinh dưỡng 53,2% cao hơn nhóm trẻ có cân nặng sơ sinh 2.500gr (19,8%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Điều này cho thấy vấn đề chăm sóc thai có ý nghĩa với sự phát triển không những trong thời kỳ bào thai mà cả sự phát triển sau này của trẻ. Chăm sóc sức khỏe khi bà mẹ mang thai và hoạt động của y tế địa phương Qua số liệu chúng tôi thu thập được thì vấn đề chăm sóc bà mẹ khi mang thai ở phường Phùng Chí Kiên và xã Mỹ Phương là tương đối tốt. Điều này thể hiện qua số lần trung bình khám thai của bà mẹ là 3 lần. Đa số các bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên sinh con tại cơ sở y tế chiếm 90,2%. Hoàn toàn được các nhân viên y tế đỡ đẻ. Còn ở xã Mỹ Phương chỉ có 42,7% bà mẹ được sinh con ở cơ sở y tế và có 65,8% bà mẹ được nhân viên y tế đỡ đẻ. Có tới 71,1% bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên được nghỉ ngơi trước khi sinh con ở xã là 59,3%. Nhưng kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy tỷ lệ bà mẹ được uống vitamin A còn thấp mới chỉ đạt ở mức 36,2% bà mẹ (phường Phùng Chí Kiên) và 28,4% bà mẹ (xã Mỹ Phương). Liên quan đến nguyên nhân này có lẽ ngoài tác động trực tiếp từ gia đình thì vai trò tuyên truyền giáo dục của cán bộ y tế cũng đóng vai trò đáng kể không chỉ các bà mẹ sau khi sinh con mà cả những người thân của họ hiểu được tác dụng của việc uống vitamin A đủ và hợp lý sau khi sinh con đến sức khoẻ của vợ con mình. Chúng tôi nhận thấy rằng vai trò truyền thông giáo dục sức khoẻ tại 2 địa điểm nghiên cứu còn thiếu. Có 63,4% bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên và 75,7% bà mẹ ở xã Mỹ Phương trong vòng 3 tháng trước thời điểm nghiên cứu nói rằng không tham gia bất kỳ một buổi tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng và sức khoẻ. Do đó việc truyền thông giáo dục dinh dưỡng cần được đẩy mạnh và phổ biến hơn nữa tại các vùng miền núi. So sánh thời gian cho trẻ ăn bổ sung sớm với số liệu tham khảo Năm 1996 Phường Phùng Chí Kiên 2003 Xã Mỹ Phương 2003 Tỷ lệ % trẻ ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi 70,9 24,0 39,5 Đó là kết quả của nhiều nghiên cứu khác nhau đã từng được đề cập bởi tác giả Đỗ Thị Hòa () cho rằng có 3 nguyên nhân cơ bản cần phải kể đến, trong đó là: + Các bà mẹ hoài nghi về nguồn sữa của mình, tự cho rằng sữa của mình không đủ để cho trẻ lớn. + Niềm tin của các bà mẹ về sự ưu việt của chất bột, chất gạo, chúng giúp trẻ nhanh lớn và cứng cáp hơn. KẾT LUẬN 1/ Kiến thức về thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi của bà mẹ ở cả hai nơi chưa đúng. Tỷ lệ các bà mẹ ở phường Phùng Chí Kiên có kiến thức và thực hành tốt hơn các bà mẹ ở xã Mỹ Phương. 2/ Tỷ lệ bà mẹ mang thai được chăm sóc tốt còn thấp ở các 2 địa điểm nghiên cứu. Các bà mẹ mang thai ở xã Mỹ Phưong ít đi khám thai và ít nghỉ ngơi trước sinh hơn so với các bà mẹ mang thai ở phường Phùng Chí Kiên. 3/ So với phường Phùng Chí Kiên, tỷ lệ sinh con tại trạm y tế của các bà mẹ ở xã Mỹ Phương thấp, phần lớn bà mẹ sinh con tại nhà. ở cả 2 nơi, tỷ lệ bà mẹ được truyền giáo dục sức khoẻ trong 3 tháng qua đều thấp. 4/ Trong 2 tuần qua, ở phường Phùng Chí Kiên có 18% trẻ dưới 5 tuổi bị tiêu chảy và 6,6% bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp; trong khi các tỷ lệ này ở xã Mỹ Phương là 23% và 9,2%. Cách chăm sóc trẻ bị tiêu chảyt và bị ho sốt của các bà mẹ ở cả 2 nơi còn nhiều sai sót. Xã Mỹ Phương có tỷ lệ bà mẹ mắc sai sót trong cách chăm sóc trẻ ốm cao hơn phường Phùng Chí Kiên. 5/ Ở cả hai nơi, có mối liên quan giữa tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi với học vấn của mẹ, thời điểm ăn sam và cân nặng sơ sinh của trẻ. Kiến nghị 1/ Cần đẩy mạnh thực hiện các chương trình phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi ở Bắc Kạn, nhất là vùng nông thôn, để làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng xuống cấp hơn. 2/ Cần tiếp tục nghiên cứu, phân tích sâu hơn về các nguyên nhân và các yếu tố liên quan tới suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 năm tuổi ở Bắc Kạn cũng như ở các vùng cao miền núi phía Bắc nước ta. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học 248 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Văn Dung (1999): Tình trạng dinh dưỡng trẻ em tuổi nhà trẻ và các yếu tố ảnh hưởng. Luận án tiến sỹ Y học. 2. Lê Thị Khánh Hoà (1996): Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan từ 3-6 tuổi ở một quận nội thành Hà Nội. Luận án thạc sĩ dinh dưỡng công cộng. 3. Từ Ngữ, Lê Danh Tuyên, Trần Quốc An, Phạm Văn Phú và CS (1993). Mức tiêu thụ LTTP và tình trạng dinh dưỡng của người H’mông ở xã vùng núi phía Bắc. Tạp chí Vệ sinh phòng dịch tập III, số 3 4. Tổng cục Thống kê (2000) Tình trạng dinh dưỡng bà mẹ trẻ em Việt Nam – NXB Y học. 5. UNICEF (1994): Situation analysis of women and children Vietnam. 6. UNICEF (1994). State of world children 7. WHO (1995). Measuring change in nutrition status 8. WHO (1995): Nutrition highlights of recent activities of world and plan of action for nutrition.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_nguyen_nhan_va_yeu_to_lien_quan_toi_suy_dinh_duong_o.pdf