Trong xét nghiệm vi sinh lâm sàng, ngoài
một số khó khăn do nguyên nhân khách quan
như đã đề cập, thì kinh nghiệm và thao tác kỹ
thuật của kỹ thuật viên có ảnh hưởng quan trọng
đến kết quả định danh. Ví dụ, giai đoạn quan sát
kính hiển vi có thể nhầm lẫn giữa hình dạng cầu
trực khuẩn Gram âm và cầu khuẩn Gram âm
hay song cầu khuẩn Gram âm và dẫn đến bỏ qua
quy trình định danh trực khuẩn Gram âm bằng
bộ kit IDS14GNR. Bên cạnh đó, quá trình thuần
chủng các vi khuẩn hiện diện trong mẫu bệnh
phẩm đóng vai trò quyết định đến kết luận định
danh dựa trên phản ứng sinh hóa. Trong nghiên
cứu này, khi phân lập trên môi trường NA và
MCA, chúng tôi phát hiện một mẫu có 2 loại
khóm vi khuẩn, tương ứng với 2 hình dạng tế
bào vi khuẩn khác nhau là cầu trực khuẩn và
trực khuẩn. Hiện tượng này xảy ra có thể do quá
trình phân lập đã chưa tách được các vi khuẩn
khác nhau có trong mẫu nên không thể biện giải
kết quả thử nghiệm sinh hóa khi tiến hành định
danh bằng bộ kit IDS14GNR tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Dương.
Kết quả kháng sinh đồ cho thấy tình trạng đề
kháng kháng sinh ngày càng gia tăng, đặc biệt
đối với vi khuẩn Gram âm. Vì vậy cần cân nhắc
lựa chọn phác đồ điều trị kháng sinh đối với các
chủng vi khuẩn có ti lệ đề kháng kháng sinh cao
như A. baumannii, P. aeruginosa, nhằm góp
phần kiểm soát tình trạng đề kháng kháng sinh
trong nhiễm trùng bệnh viện.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhận định về vi khuẩn gram âm chưa xác định được phân lập từ mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Dược Học 272
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ VI KHUẨN GRAM ÂM CHƯA XÁC ĐỊNH
ĐƯỢC PHÂN LẬP TỪ MẪU BỆNH PHẨM CỦA BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BÌNH DƯƠNG
Nguyễn Tú Anh*, Nguyễn Hoàng Thu Trang*, Bùi Thị Kim Thoa*
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhận định về vi khuẩn Gram âm chưa xác định được phân lập từ mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân
điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương
Phương pháp nghiên cứu: vi khuẩn Gram âm chưa xác định được phân lập từ mẫu bệnh phẩm của bệnh
nhân điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương. Vi khuẩn được định danh bằng phương pháp nuôi cấy,
quan sát hình thể và phản ứng sinh hóa. Tiếp theo, thử nghiệm kháng sinh đồ được thực hiện trên các vi khuẩn đã
định danh với 5 loại kháng sinh amikacin, ciprofloxacin, amoxicillin/clavulanic acid, ceftazidim, cefepim.
Kết quả: định danh từ 52 mẫu cho thấy chiếm tỉ lệ cao nhất là Acinetobacter baumannii (30,8%). Ngoài ra
cũng xác định được một số vi khuẩn khác như Pseudomonas spp., Burkholderia cepacia, Vibrio spp. và các vi
khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae. Tổng hợp kết quả nghiên cứu, kết hợp các yếu tố như mẫu bệnh phẩm, khoa
phòng điều trị là cơ sở để chúng tôi đưa ra nhận định đây có thể là những trường hợp nhiễm trùng bệnh viện.
Qua biện giải nhận thấy A. baumannii đề kháng với tất cả 05 kháng sinh với tỉ lệ ≥ 50%. Các vi khuẩn thuộc họ
Enterobacteriaceae, Pseudomonas spp. và B. cepacia vẫn còn nhạy cảm với ceftazidim và cefepim.
Từ khóa: vi khuẩn Gram (-), nhiễm trùng bệnh viện, Acinetobacter baumannii
ABTRACT
STUDY ON UNIDENTIFIED GRAM-NEGATIVE BACTERIA ISOLATED FROM THE CLINICAL
SPECIMEN OF BINH DUONG GENERAL HOSPITAL
Nguyen Tu Anh, Nguyen Hoang Thu Trang, Bui Thi Kim Thoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 272 - 276
Objective: study on Gram-negative bacteria in the clinical specimen that can not be identified Binh Duong
neral hospital.
Methods: unidentified bacteria were determined at Department of Microbiology and Parasitology, Faculty of
Pharmacy, University of Medicine and Pharmacy at HCMC, applying culturing and biochemical methods.
Continuously, the identified bacteria were subjects of antibiotic susceptibility testing with five antibiotics
amikacin, ciprofloxacin, amoxicillin/clavulanic acid, ceftazidim and cefepim.
Results: The result showed that Acinetobacter baumannii was found with the highest rate (30.8%). Besides,
there were also other bacteria such as Pseudomonas spp., Burkholderia cepacia, Vibrio spp. and bacteria belonging
to Enterobacteriaceae. This data, together with the other factors including type of clinical specimen, clinical
department, propose that these cases are hospital – acquired infection. A. baumannii resist all of five antibiotics
with the rate above 50%. The bacteria of Enterobacteriaceae, Pseudomonas spp. and B. cepacia are still sensitive to
ceftazidim and cefepim.
Keywords: Gram-negative bacteria, hospital – acquired infection, Acinetobacter baumannii
* Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: DS. Nguyễn Tú Anh ĐT: 0938130372 Email: nguyentuanhvn@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Học 273
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng do vi khuẩn Gram âm luôn là
một trong những thách thức và mối quan tâm
hàng đầu của các bác sĩ điều trị tại Việt Nam
cũng như trên toàn thế giới. Không chỉ do cơ chế
sinh bệnh khá phức tạp mà còn do khả năng đề
kháng với nhiều kháng sinh phổ rộng của vi
khuẩn Gram âm, vì vậy chúng là nguyên nhân
dẫn đến các diễn biến nhiễm trùng phức tạp và
gây tỉ lệ tử vong cao. Việc định danh chính xác
tác nhân vi khuẩn Gram âm có ý nghĩa quan
trọng trong chẩn đoán bệnh cũng như đưa ra
hướng điều trị kịp thời, hiệu quả. Sự thiếu sót
hay nhầm lẫn trong định danh vi khuẩn gây
bệnh góp phần làm gia tăng thất bại trong điều
trị và tình trạng đề kháng kháng sinh.
Cùng với sự phát triển của các kỹ thuật hiện
đại trong định danh vi khuẩn nói chung và trong
lâm sàng nói riêng như PCR (polymerase chain
reaction), lai phân tử ADN, giải trình tự 16S
rARN, phương pháp định danh truyền thống
dựa trên đặc điểm hình thái và đặc tính sinh hóa
của vi khuẩn vẫn là công cụ hữu hiệu, phù hợp
với điều kiện trang thiết bị của nhiều phòng xét
nghiệm vi sinh ở nước ta hiện nay. Sự ra đời các
bộ kit sinh hóa thương mại dùng định danh vi
sinh vật khá thuận tiện và rút ngắn thời gian
thực hiện. Tuy nhiên, mỗi loại kit chỉ giới hạn
định danh một, vài nhóm hay một số đơn vị
phân loại vi khuẩn nhất định nào đó.
Trong thời gian gần đây, tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Bình Dương, có một số mẫu bệnh
phẩm nhiễm vi khuẩn Gram âm nhưng không
thể định danh bằng bộ kit IDS14GNR đang sử
dụng tại bệnh viện. Do vậy, đề tài được thực
hiện nhằm định danh các vi khuẩn Gram âm
chưa xác định được phân lập từ các mẫu bệnh
phẩm từ Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương.
Từ kết quả định danh này, các vi khuẩn sẽ được
thử tính nhạy cảm với một số kháng sinh trong
danh mục thuốc của bệnh viện: ciprofloxacin,
amikacin, cefepim, ceftazidim và
amoxicillin/clavulanic acid.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Chủng vi khuẩn
52 mẫu vi khuẩn được thu thập từ bệnh
viện Đa khoa tỉnh Bình Dương từ tháng 8/2011
đến tháng 03/2012. Các chủng này được phân
lập từ mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân điều trị
tại các khoa, phòng của bệnh viện và chưa
định danh được bằng bộ kit IDS14GNR của
công ty Nam Khoa.
Phân lập, định danh vi khuẩn
Các mẫu vi khuẩn sau khi được chuyển đến
Bộ môn Vi sinh – Ký sinh đã được phân lập, nuôi
cấy trên môi trường MacConkey (MC) và
Tryptic Soye Broth (TSB) để tăng sinh số lượng.
Các mẫu vi khuẩn này lần lượt được định danh
bằng kit IDS14GNR (Nam Khoa), kit API20E
(bioMérieux) theo hướng dẫn của nhà sản xuất
và một số phản ứng sinh hóa bổ sung khác theo
hướng dẫn phân loại vi khuẩn của Bergey(2).
Thử nghiệm tính đề kháng kháng sinh:
Thực hiện kháng sinh đồ với các chủng vi
khuẩn đã được thuần chủng theo hướng dẫn của
CLSI (Clinical Laboratory Standards Institute -
Viện tiêu chuẩn lâm sàng và xét nghiệm), E. coli
ATCC 25922 được dùng làm mẫu chứng(1).Các
kháng sinh được lựa chọn theo khuyến nghị của
CLSI và có trong danh mục thuốc của bệnh viện
Đa khoa tỉnh Bình Dương, bao gồm: amikacin,
ciprofloxacin, amoxicillin/clavulanic acid,
ceftazidim, cefepim.
KẾT QUẢ
Kết quả định danh. Từ tháng 8/2011 đến tháng
3/2012, chúng tôi tiến hành phân lập và định
danh 52 mẫu vi khuẩn có nguồn gốc từ 6 nhóm
bệnh phẩm khác nhau bao gồm dịch phế quản,
mủ, nước tiểu, phân, máu và dịch cơ thể (dịch
màng bụng, dịch ối, sản dịch). Mẫu bệnh phẩm
được lấy từ 45 bệnh nhân đang điều trị tại 10
khoa phòng của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình
Dương; trong đó, mẫu bệnh phẩm của 6 bệnh
nhân phân lập được nhiều hơn 2 chủng vi
khuẩn. Các mẫu chủ yếu thuộc nhóm bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Dược Học 274
phẩm dịch phế quản (chiếm 60,4%) và từ khoa
Hồi sức tích cực – chống độc (chiếm 50,9%). Sự
phân bố giới tính ở bệnh nhân lấy mẫu có sự cân
bằng giữa nam : nữ (22 : 23) với độ tuổi trung
bình là 56,2 (nhỏ nhất là trẻ sơ sinh và lớn nhất là
90 tuổi).
Tất cả 52 mẫu vi khuẩn đều mọc được trên
môi trường MC và cho phản ứng catalase dương
tính. Kết quả định danh 52 chủng vi khuẩn trình
bày tại bảng 1.
Bảng 1: Kết quả định danh vi khuẩn
Tên vi khuẩn Số lượng Mẫu bệnh phẩm Khoa, phòng điều trị
Acinetobacter baumannii 16
Dịch phế quản (12), mủ (1),
phân (1), máu (1), dịch khác (1)
HSTC-CĐ (11), nội (3), nhi (1), sản
(1)
Burkholderia cepacia 2 Dịch phế quản (1), mủ (1) HSTC-CĐ (1), TMH (1)
Pseudomonas aeruginosa 2 Dịch phế quản (1), mủ (1) HSTC-CĐ (1), TMH (1)
Pseudomonas diminuta 1 Dịch phế quản (1) HSTC-CĐ (1)
Pseudomonas vesicularis 1 Dịch phế quản (1) HSTC-CĐ (1)
Escherichia coli inactive 2 Mủ (2) HSTC-CĐ (1), PT-GM (1)
Edwardsiella tarda biogroup 1 3 Mủ (3) Ngoại (2), sản (1)
Klebsiella pneumoniae 2 Dịch phế quản (2) HSTC-CĐ (1), PT-GM (1)
Klebsiella terrigena 4
Dịch phế quản (2), mủ (1),
dịch khác (1)
HSTC-CĐ (1), nội (1), sản (1), cấp
cứu (1)
Serratia mascescens biogroup 1 1 Dịch phế quản (1) Nội (1)
Vibrio carchariae 2 Mủ (2) Ngoại (2)
Vibrio vulnificus 6
Dịch phế quản (1), mủ (2), nước
tiểu (1), phân (1), dịch khác (1)
Nội (5), sản (1)
HSTC-CĐ: hồi sức tích cực – chống độc PT- GM: phẫu thuật – gây mê
Kết quả thực nghiệm cho thấy vi khuẩn
Gram âm chưa xác định được chủ yếu là cầu
trực khuẩn Acinetobacter baumannii (chiếm
30,8%). Để định danh 16 mẫu A. baumannii,
chúng tôi đã kết hợp quan sát hình thái khóm vi
khuẩn, nhuộm Gram, các phản ứng sinh hóa
trong bộ kit IDS14GNR và các thử nghiệm bổ
sung theo hướng dẫn của Bergey. Các thử
nghiệm này bao gồm khả năng phát triển ở nhiệt
độ cao, khả năng huyết giải và thủy giải gelatin.
Tất cả 16 mẫu cầu trực khuẩn đều tăng trưởng
được ở 3 nhiệt độ 37 oC, 41 oC và 44 oC; với thử
nghiệm sử dụng glucose sinh acid cho kết quả
dương tính; thủy giải gelatin và huyết giải đều
âm tính. Ngoài A. baumannii, một số vi khuẩn
Gram âm khác cũng đã được xác định, gồm có
Enterobacteriaceae (chiếm tỉ lệ 23,1%); Vibrio spp.
(15,4%); trực khuẩn Pseudomonas spp. (7,6%);
Burkholderia cepacia (3,8%). Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại 10 mẫu vi khuẩn chưa định danh được
(chiếm 19,2%) do kết quả phản ứng sinh hóa
không đặc trưng cho một loài vi khuẩn.
A B
C
D
Hình 1: Hình ảnh nhuộm Gram một số vi khuẩn
định danh A – A. baumanii; B – B. cepacia; C – K.
terrigena; D – V. carchariae
Kết quả khảo sát kháng sinh đồ. Thử nghiệm
kháng sinh đồ được thực hiện trên 42 vi khuẩn
đã định danh với 5 loại kháng sinh lựa chọn là
amikacin, ciprofloxacin, amoxicillin/clavulanic
acid, ceftazidim, cefepim (Bảng 2). Do số lượng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Học 275
mẫu khảo sát chưa nhiều nên chưa thể đưa ra
nhận định chung về hiện trạng đề kháng kháng
sinh của những vi khuẩn này ở bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, nhận xét kết
quả thu được cho thấy tỷ lệ đề kháng cao của A.
baumannii với các kháng sinh thử nghiệm (≥
50%), đây là những kháng sinh phổ rộng, thuộc
nhiều nhóm khác nhau và sử dụng phổ biến
trong điều trị. Vi khuẩn thuộc họ
Enterobacteriaceae vẫn còn nhạy cảm với
ceftazidim và cefepim, tuy nhiên một số chủng
thuộc nhóm này đã đề kháng với akamicin,
ciprofloxacin và amoxicillin/clavulanic acid.
Nhóm vi khuẩn Vibrio spp. hầu như đề kháng
với ciprofloxacin (7/8 mẫu). Các vi khuẩn
Pseudomonas spp. và B. cepacia vẫn nhạy với
ceftazidim và cefepim. Kết quả của chúng tôi
cũng phù hợp với một số nghiên cứu gần đây về
tỷ lệ đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn
Gram âm thường gặp trong lâm sàng(4,5,6,7,3).
Bảng 2: Kết quả kháng sinh đồ của các vi khuẩn Gram âm định danh.
Vi khuẩn Số chủng thử nghiệm
Số chủng đề kháng
AK CP AC CZ CM
Acinetobacter baumannii 16 9 14 14 14 8
Burkholderia cepacia 2 - - - 0 0
Pseudomonas aeruginosa 2 1 1 - 0 0
Pseudomonas spp. 2 0 1 - 0 0
Escherichia coli inactive 2 0 0 0 0 0
Edwardsiella tarda biogroup 1 3 0 0 1 0 0
Klebsiella pneumoniae 2 2 2 2 1 1
Klebsiella terrigena 4 1 1 1 1 1
Serratia mascescens biogroup 1 1 1 1 1 0 0
Vibrio spp. 8 0 7 2 1 1
Tổng số vi khuẩn 42
AK: AmiKacin, CP: CiProfloxacin, AC: Amoxicillin/Clavulanic acid, CZ: CeftaZidim, CM: CefepiM, “-“: Không thực hiện
BÀN LUẬN
Trong các mẫu bệnh phẩm khảo sát, chiếm
đa số các mẫu lấy từ dịch phế quản (60,4%), từ
khoa Hồi sức tích cực – chống độc (50,9%) và
bệnh nhân trên 65 tuổi (48,1%). Kết hợp các yếu
tố mẫu bệnh phẩm (dịch phế quản), khoa điều
trị (Hồi sức tích cực – chống độc) và đối tượng
bệnh nhân cao tuổi, là cơ sở để chúng tôi nghi
ngờ những bệnh nhân nhiễm trực khuẩn Gram
âm (Acinetobacter spp., Pseudomonas spp.,) là
những trường hợp viêm phổi do nhiễm trùng
bệnh viện, đặc biệt trên bệnh nhân thở máy. Kết
quả này phù hợp với các báo cáo tại Việt Nam
cũng như trên thế giới(4,5,7,3,8). Đề tài góp phần
khẳng định các trực khuẩn Gram âm tìm thấy
trong mẫu bệnh phẩm là một trong những
nguyên nhân gây nhiễm trùng bệnh viện hiện
nay. Đặc biệt, A. baumannii hiện diện ở 38,7%
mẫu dịch phế quản, 42,3% mẫu thu được từ
khoa Hồi sức tích cực – chống độc và 40% ở bệnh
nhân ≥ 65 tuổi. Đáng chú ý là trường hợp mẫu
máu của một bệnh nhân sơ sinh đã phân lập
được A. baumannii, đây có thể là dấu hiệu của
nhiễm trùng sơ sinh, bắt nguồn từ nhiễm trùng
bệnh viện do dụng cụ sử dụng trong sản khoa bị
nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, các vi khuẩn họ
Enterobacteriaceae cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ
(23,08%) trong số mẫu khảo sát. Dựa trên số liệu
thu được cho thấy vi khuẩn họ
Enterobacteriaceae phân bố rải rác khắp các
khoa phòng và cũng như giữa các độ tuổi, không
tập trung như trường hợp A. baumannii. Ngoài
ra, với 10 mẫu vi khuẩn chưa định danh được do
kết quả phản ứng sinh hóa không đặc trưng làm
chúng tôi nghi ngờ có hiện tượng chuyển gen
ngang. Khác với chuyển gen theo chiều dọc – là
hiện tượng chuyển gen từ bố mẹ sang con cái, từ
các sinh vật cùng chi – chuyển gen ngang là một
hình thức trao đổi gen độc lập với quá trình sinh
sản và có thể xảy ra giữa các loài khác nhau.
Nhiều vi khuẩn khác nhau tồn tại trong các bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Dược Học 276
lý nhiễm khuẩn là điều kiện thuận lợi để chuyển
gen ngang có thể xảy ra, gây hậu quả thay đổi
kiểu gen, và dẫn đến làm thay đổi một số tính
chất sinh hóa. Đối với những trường hợp này,
chúng tôi đề xuất định danh bằng phương pháp
áp dụng kỹ thuật sinh học phân tử để khuếch
đại và giải trình tự đoạn gen 16S rARN. Các
trình tự này sẽ được tra cứu với ngân hàng dữ
liệu của NCBI (National Center for Biotechology
Information) để xác định vi khuẩn.
Trong xét nghiệm vi sinh lâm sàng, ngoài
một số khó khăn do nguyên nhân khách quan
như đã đề cập, thì kinh nghiệm và thao tác kỹ
thuật của kỹ thuật viên có ảnh hưởng quan trọng
đến kết quả định danh. Ví dụ, giai đoạn quan sát
kính hiển vi có thể nhầm lẫn giữa hình dạng cầu
trực khuẩn Gram âm và cầu khuẩn Gram âm
hay song cầu khuẩn Gram âm và dẫn đến bỏ qua
quy trình định danh trực khuẩn Gram âm bằng
bộ kit IDS14GNR. Bên cạnh đó, quá trình thuần
chủng các vi khuẩn hiện diện trong mẫu bệnh
phẩm đóng vai trò quyết định đến kết luận định
danh dựa trên phản ứng sinh hóa. Trong nghiên
cứu này, khi phân lập trên môi trường NA và
MCA, chúng tôi phát hiện một mẫu có 2 loại
khóm vi khuẩn, tương ứng với 2 hình dạng tế
bào vi khuẩn khác nhau là cầu trực khuẩn và
trực khuẩn. Hiện tượng này xảy ra có thể do quá
trình phân lập đã chưa tách được các vi khuẩn
khác nhau có trong mẫu nên không thể biện giải
kết quả thử nghiệm sinh hóa khi tiến hành định
danh bằng bộ kit IDS14GNR tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Dương.
Kết quả kháng sinh đồ cho thấy tình trạng đề
kháng kháng sinh ngày càng gia tăng, đặc biệt
đối với vi khuẩn Gram âm. Vì vậy cần cân nhắc
lựa chọn phác đồ điều trị kháng sinh đối với các
chủng vi khuẩn có ti lệ đề kháng kháng sinh cao
như A. baumannii, P. aeruginosa, nhằm góp
phần kiểm soát tình trạng đề kháng kháng sinh
trong nhiễm trùng bệnh viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Clinical Laboratory Standards Institute (2011), Performance
standards for antimicrobial susceptibility testing, 21st
informational supplement, CLSI M100-S21 (ISBN 1-56238-742-
1).
2. Holt JG, Krieg NR, Sneath PHA, Staley JT, William ST (1994),
Bergey’s Manual of Determinative Bacteriology, 9th ed.,
William & Wilkin, Baltimore.
3. Jones SL, Nguyen VK, Nguyen TMP, Athan E (2006),
“Prevalence of multiresistant Gram-negative organisms in a
surgical hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam”, Tropical
Medicine and International Health, 11 (11):1725–1730.
4. Nguyễn Lân Dũng (2001), Vi sinh vật học, NXB Giáo dục.
5. Nguyễn Văn Kính và Nhóm nghiên cứu quốc gia GARP-Việt
Nam (NWG) (2010), Phân tích thực trạng: Sử dụng kháng
sinh và kháng kháng sinh ở Việt Nam, Bệnh viện nhiệt đới
trung ương.
6. Nguyễn Văn Thanh (2006), Vi sinh học, Bộ Y tế.
7. Peleg AY and Hooper DC (2010), “Hospital-Acquired
Infections Due to Gram-Negative Bacteria”, N Engl J Med 362
(19):1804-1813.
8. WHO (2002), Prevention of hospital-acquired infections: A
practical guide, 2nd ed., Malta
(WHO/CDS/CSR/EPH/2002.12).
Ngày nhận bài báo: 11.12.2012
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24.12.2013
Ngày bài báo được đăng: 10.03.2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nhan_dinh_ve_vi_khuan_gram_am_chua_xac_dinh_duoc_phan.pdf