Một số nhân tố đánh giá tính chọn lọc trong khai thác hải sản
Trong điều kiện thực tế của nghề cá, rất
khó có thể giải quyết việc chọn lọc khai thác
và quản lý chọn lọc với sự tuyệt đối theo tất
cả các yếu tố ảnh hưởng trên, mà chỉ có thể
lựa chọn sử dụng những yếu tố mang lại hiệu
quả cao trong chọn lọc và quản lý chọn lọc.
Những phân tích trên đã chỉ rõ được sự ảnh
hưởng các yếu tố tới tính chọn lọc và quản
lý chọn lọc trong khai thác hải sản. Trong đó,
quan trọng và thiết thực nhất là yếu tố chọn lọc
cơ học. Chọn lọc theo yếu tố cơ học mang lại
độ tin cậy cao, áp dụng với các điều kiện đánh
bắt khác nhau, dễ dàng điều chỉnh theo mong
muốn phù hợp với cường độ khai thác và trữ
lượng nguồn lợi (điều chỉnh đánh bắt theo kích
thước cá, thành phần loài và giống). Đồng thời,
việc giải quyết bài toán chọn lọc cũng dễ dàng
được thực hiện với việc áp dụng mô hình toán
học (thông qua đường cong chọn lọc).
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhân tố đánh giá tính chọn lọc trong khai thác hải sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 93
MỘT SỐ NHÂN TỐ ĐÁNH GIÁ TÍNH CHỌN LỌC TRONG
KHAI THÁC HẢI SẢN
SOME FACTORS IN EVALUATING THE SELECTIVITY
OF MARINE FISHERIES
Nguyễn Đình Phùng1
Ngày nhận bài: 17/7/2017; Ngày phản biện thông qua: 22/12/2017; Ngày duyệt đăng: 29/12/2017
TÓM TẮT
Bài báo xác định các yếu tố đặc trưng tính chọn lọc của ngư cụ và chọn lọc trong khai thác. Xác định
các chỉ số cần thiết để đánh giá hiệu quả việc quản lý chọn lọc trong khai thác hải sản. Các phương pháp giải
quyết vấn đề chọn lọc, với việc sử dụng các mô hình toán học để đánh giá đặc tính chọn lọc ngư cụ và chọn
lọc khai thác.
Từ khóa: chọn lọc, cá, ngư cụ, khai thác, trữ lượng nguồn lợi.
ABSTRACT
The article identifi es the selective characteristics of selected gear and selectivity in exploitation, the
indicators needed to assess the effectiveness of selective management of capture fi sheries. Selective problem
solving methods, with the use of mathematical models to assess characteristics selecting gear and selecting
exploitation were used.
Key words: selective, fi sh, gear, exploitation, resource reserves.
1 Phòng Nghiên cứu công nghệ Khai thác, Viện Nghiên cứu Hải sản
là quản lý việc chọn lọc, thứ ba là giải quyết bài
toán chọn lọc.
Tính chọn lọc trong quản lý nghề cá thể
hiện trong việc khai thác cá của tất cả các loại
ngư cụ. Việc chọn lọc trong khai thác dựa trên
2 yếu tố chính: chọn lọc đánh bắt theo nghề
(thể hiện qua việc chọn cá từ vùng tác động
của ngư cụ); chọn lọc đánh bắt theo sự phân
bố của đối tượng đánh bắt theo thời gian (mùa
vụ), địa điểm (ngư trường).
Chọn lọc cá tại ngư trường khai thác
được dựa trên nhiều nguyên nhân và yếu
tố. Nói chung, việc chọn lọc được chia làm 3
loại: chọn lọc ngư cụ, chọn lọc khai thác và
I. MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới nói chung và với
nước ta nói riêng khai thác hải sản hợp lý hay
khai thác có trách nhiệm để bảo vệ trữ lượng
nguồn lợi hải sản là vấn đề cấp thiết trong quản
lý nghề cá. Ngoài việc hạn chế cường lực khai
thác tùy theo từng nghề ở từng vùng biển, giới
hạn thời gian khai thác và loài đánh bắt thì khai
thác có chọn lọc là một trong những phương
pháp tối ưu được áp dụng rộng rãi trên thế giới
để bảo vệ và phục hồi nguồn lợi hải sản.
II. NỘI DUNG
Các vấn đề chọn lọc nói chung có thể chia
làm ba nhóm. Thứ nhất là đánh giá tính chọn
lọc ngư cụ và chọn lọc trong khai thác, thứ hai
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI
94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
chọn lọc nghề cá. Chọn lọc ngư cụ là chọn cá
từ vùng tác động của ngư cụ. Chọn lọc khai
thác là chọn lọc việc đánh bắt theo thời gian,
không gian, đối tượng theo loài, kích thước và
giống. Chọn lọc nghề cá là kết hợp đồng thời
của việc chọn lọc theo ngư cụ và khai thác.
Chọn lọc ngư cụ, chọn lọc khai thác và
chọn lọc nghề cá được xem xét bởi sự tương
quan của đối tượng được khai thác về thành
phần loài, kích thước, giống và sản lượng
của chúng. Đánh giá việc chọn lọc này bằng
các đường cong chọn lọc và xác xuất các đối
tượng (thành phần loài) đánh bắt khác nhau,
kích thước khác nhau .v.v. trong sản lượng mẻ
lưới [1, 2, 3, 7, 9, 10].
Xét các yếu tố chung đối với chọn lọc trong
khai thác: việc chọn lọc được thực hiện ở các
giai đoạn khác nhau trong khai thác dựa vào
yếu tố cơ - sinh học, lý - sinh học, cơ học, sinh
học, hình học, cũng như sự kết hợp của các
yếu tố trên [6, 8].
Yếu tố cơ học: nguyên tắc cơ học trong
chọn lọc được thể hiện qua việc điều chỉnh về
chọn lựa kích thước và dạng mắt lưới. Việc
này phụ thuộc vào sản lượng, kích thước,
thành phần cá trong sản lượng; sự biến dạng
của mắt lưới; độ thô và sức căng chỉ lưới; vị
trí và tốc độ di chuyển ngư cụ (ngư cụ chuyển
động), tốc độ trôi tấm lưới (ngư cụ cố định);
hình dạng của cá .v.v.
Yếu tố cơ - sinh học: nguyên tắc chọn
lọc theo yếu tố này thể hiện qua những thông
số khác nhau về sự di chuyển của các loài cá
khác nhau về kích thước, về giống và về sự
tương tác của chúng với ngư cụ, các đặc tính
của cá trong dòng chảy, các chỉ số chuyển
động của ngư cụ. Chọn lọc theo yếu tố này
dựa trên sự điều chỉnh các thông số chuyển
động của ngư cụ.
Yếu tố lý – sinh học: nguyên tắc chọn lọc
lý - sinh học dựa vào phản ứng của các loài cá,
kích thước và giới tính của chúng trên tác động
của các trường vật lý trong vùng hoạt động của
ngư cụ.
Yếu tố hình học: các nguyên tắc hình học
của chọn lọc liên quan đến các đặc điểm cụ thể
về sự phân bố của cá theo loài, kích thước và
giới tính trong vùng đánh bắt và tác động của
ngư cụ.
Yếu tố sinh học: các nguyên tắc sinh học
của tính chọn lọc được dựa trên khả năng của
các đối tượng cá khác nhau về kích thước, loài
và giới tính thoát ra khỏi ngư cụ và vùng đánh
bắt của ngư cụ. Khả năng này phụ thuộc vào
kinh nghiệm và đặc tính sinh học của cá.
Trong các yếu tố trên thì yếu tố chọn lọc
theo sinh học và hình học có giá trị nhỏ hơn
so với các yếu tố chọn lọc khác. Tuy nhiên,
không phải khi nào cũng có thể phân tách rõ
ràng việc chọn lọc theo cụ thể từng yếu tố trên,
mà chúng liên quan chặt chẽ với nhau. Hiện
nay chọn lọc theo yếu tố cơ học là quan trọng
nhất, chủ yếu dựa trên những đặc tính chọn
lọc của lưới, mắt lưới. Nhờ đó ta có thể:
- Quản lý việc đánh bắt cá theo khối lượng
hoặc số lượng, theo tuổi và kích thước của cá;
- Trong trường hợp tăng kích thước mắt
lưới một cách phù hợp, và thậm chí là không
giới hạn cường lực khai thác thì vẫn có thể loại
trừ được việc đánh bắt quá mức;
- Điều chỉnh được sản lượng đánh bắt khi
có sự biến động mạnh về năng suất khai thác
theo các thế hệ đàn cá;
- Các tính chọn lọc mong muốn của ngư cụ
được đảm bảo và kiểm soát dễ dàng;
- Đánh bắt có chọn lọc kết hợp với các
quy định và điều chỉnh về cường độ khai thác
sẽ đảm bảo phục hồi nhanh chóng trữ lượng
nguồn lợi các loài và có kế hoạch khai thác
hợp lý trong các giai đoạn tiếp theo.
Ưu điểm của việc chọn lọc cá theo kích
thước mắt lưới là sự ổn định và tin cậy, ứng
dụng trong các điều kiện đánh bắt khác nhau,
mang lại hiệu quả chọn lọc cao. Tuy nhiên,
phương pháp này không phải luôn luôn đảm
bảo được tất cả các yêu cầu của chọn lọc, hạn
chế của nó là dẫn đến sự chết của một phần cá
sau khi thoát qua mắt lưới.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 95
Trường hợp đánh bắt cá bằng các ngư
cụ chuyển động thì nguyên tắc chọn lọc cơ -
sinh học là quan trọng nhất. Khi ứng dụng các
trường vật lý như là một phương tiện để tăng
cường trong khai thác thì chọn lọc sinh học
là chiếm ưu thế. Khi sự phân bố của cá trong
ngư trường và trong vùng tác động của ngư cụ
không đồng đều thì chọn lọc hình học là mang
tính quan trọng.
Các hạn chế chính trên chọn lọc của ngư
cụ và chọn lọc khai thác bao gồm các tài liệu
về quy định khai thác. Trước hết là giới hạn
về kích thước hoặc khối lượng cá hoặc đồng
thời theo kích thước và khối lượng; cấm khai
thác và buôn bán cá có kích thước nhỏ hơn
kích thước cho phép; đưa ra kích thước mắt
lưới tối thiểu được phép sử dụng trong khai
thác. Ngoài những điều trên, giới hạn hoặc
cấm hoàn toàn việc khai thác theo mùa và ngư
trường xác định (mùa sinh sản, khu cá đẻ ).
Những hạn chế này được thực hiện nhằm bảo
vệ trữ lượng cá và một phần nào đó về các vấn
đề sinh thái trong khai thác.
Trong việc giải quyết bài toán về chọn lọc,
ngoài những yếu tố hạn chế đã nói ở trên, cần
tính đến những yếu tố hạn chế và một số yêu
cầu khác:
- Phần cá thoát ra có kích thước cho phép
khai thác (kích thước thương mại);
- Phần cá đóng vào mắt lưới khi thoát;
- Tỷ lệ thành phần loài và giống trong sản
lượng;
- Phần cá chết sau khi thoát;
- Ảnh hưởng của chọn lọc tới năng suất
khai thác, đối tượng khai thác cho phép, cường
lực khai thác, nhu cầu thị trường và các chỉ số
khác về kinh tế nghề cá v.v.
Điều quan trọng là cần phải cải thiện tính
chọn lọc trong khai thác với tất cả các loại ngư
cụ [4, 5, 6]. Theo đó, yêu cầu tăng tính đồng
nhất việc khai thác theo chiều dài cá, theo loài
hoặc theo giới tính của cá. Tính chọn lọc tăng
khi mà giảm được phần cá mà không chịu tác
động của chọn lọc trong phần chứa cá, trong
vùng chọn lọc, bằng cách di chuyển đường
cong chọn lọc sang trái hoặc sang phải, điều
này phụ thuộc vào cấu tạo thành phần loài
trong đàn cá đánh bắt.
Cải thiện tính chọn lọc với mục tiêu là đáp
ứng các yêu cầu khác nhau về chọn lọc ngư
cụ và chọn lọc khai thác. Những yêu cầu này
đối với từng, hoặc đồng thời với một số chỉ tiêu
không phải luôn luôn tương thích. Đôi khi các
yêu cầu chỉ được đáp ứng gần đúng trên cơ
sở của một sự lựa chọn hài hòa giữa các chỉ
số. Tuy nhiên giải pháp gần đúng này không
phải lúc nào cũng có thể thực hiện nếu như giá
trị một vài chỉ số bị giới hạn để điều chỉnh quy
chế và chỉ số hoạt động trong khai thác. Khi
đó việc đánh bắt hoặc ngừng đánh bắt hoặc
phải đặt ra câu hỏi về sự thay đổi cho quy định
các giới hạn trong khai thác. Đôi khi những giới
hạn này không phù hợp với điều kiện khai thác
của ngành thủy sản nước ta.
Xét hệ thống các chỉ số liên quan tới chọn
lọc trong khai thác hải sản:
- Các đường cong chọn lọc và các thông
số của chúng (hệ số chọn lọc, vùng chọn lọc,
phần cá không chịu tác động của chọn lọc bởi
mắt lưới): ảnh hưởng tới giá trị, kích thước và
thành phần loài trong sản lượng, tính đồng
nhất trong sản lượng (loài chiếm số lượng lớn)
về việc thực hiện các giới hạn về tỷ lệ thành
phần loài đánh bắt trong sản lượng;
- Phương thức khai thác: chỉ số này để
phân biệt về kích thước các loài cá trong và
ngoài phạm vi được phép khai thác.
- Sản lượng cho phép đánh bắt cá chưa
đủ kích thước cho phép khai thác (kích thước
phi thương mại): chỉ số này cho phép đánh giá
việc tuân thủ các yêu cầu về kích thước các
loài đánh bắt theo quy định;
- Sản lượng tương đối của cá chưa đủ kích
thước khai thác so với sản lượng cho phép
96 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
đánh bắt chúng trong mẻ lưới;
- Phần cá có kích thước được phép đánh
bắt (kích thước thương mại) mà thoát ra khỏi
ngư cụ;
- Tỷ lệ cá đóng vào mắt lưới so với tổng
sản lượng mẻ lưới;
- Tỷ lệ cá bị chết sau khi thoát qua mắt lưới
so với sản lượng mẻ lưới;
- Tỷ lệ đánh bắt thực tế có tính chọn lọc
của ngư cụ với giá trị sản lượng đánh bắt
không chọn lọc: chỉ số này đôi khi được xác
không tính theo tổng sản lượng mẻ lưới mà
riêng cho cá có kích thước được phép và chưa
được phép khai thác;
- Tỷ lệ cá các loài khác nhau so với tổng
sản lượng mẻ lưới;
Những chỉ số nêu trên và một số yếu tố
khác có thể áp dụng để đánh giá kết quả thực
tế và kết quả mong muốn của việc quản lý
chọn lọc. Từ đó để đánh giá hiệu quả quản lý
chọn lọc khai thác cho các loại ngư cụ. Ngoài
các chỉ số chung về chọn lọc khai thác, một số
hệ thống thông số quản lý chọn lọc cá phân
biệt rất hữu ích cho các mục đích của ngành.
Các chỉ số để đánh giá quản lý việc chọn lọc để
xác định tình trạng quản lý chọn lọc nghề cá,
trong một khía cạnh nào đó gần với trạng thái
tối ưu đó là:
- Sản lượng cá chưa đủ kích thước khai
thác (cá phi thương mại);
- Sản lượng loài cá không thuộc mục đích
đánh bắt (cá phân, cá tạp);
- Tỷ lệ cá đóng vào mắt lưới;
- Tỷ lệ cá chết sau khi thoát qua mắt lưới;
- Tỷ lệ cá có kích thước được phép đánh
bắt mà thoát qua mắt lưới;
- Phạm vi chọn lọc;
- Tỷ lệ cá không chịu tác động của chọn lọc
của lưới, mắt lưới;
- Tỷ lệ các loài cá khác nhau trong mẻ lưới.
Các chỉ số giới hạn cho phép trong chọn
lọc thủy sản được tính trên các phạm trù quản
lý. Các chỉ số đó là: kích thước cá đánh bắt
tối thiểu, sản lượng cho phép cá chưa đủ kích
thước đánh bắt, kích thước mắt lưới và tỷ lệ
các loài cá khác nhau trong sản lượng mẻ lưới.
Chỉ số về chất lượng trong sản lượng và
trữ lượng đánh bắt có tính chọn lọc là:
- Tỷ lệ cá có kích thước được phép đánh
bắt (kích thước thương mại) trong sản lượng
hoặc trong trữ lượng cá vùng khai thác;
- Tỷ lệ cá có kích thước chưa được phép
đánh bắt trong tổng sản lượng khai thác hoặc
trong trữ lượng của vùng;
- Tỷ lệ thành phần loài hoặc giống cá trong
tổng sản lượng khai thác;
Chỉ số về chất lượng trong sản lượng và
trữ lượng đánh bắt không chỉ phụ thuộc vào
hiệu quả quản lý chọn lọc khai thác, mà còn
phụ thuộc vào các yếu tố khác.
Về hiệu quả quản lý nghề cá có chọn lọc
xác định các quy tắc cho việc lựa chọn các
chiến lược quản lý nghề cá. Trong việc xem
xét tính hiệu quả của quản lý nghề cá phân
biệt các điều kiện của giá trị được chấp nhận
và điều kiện của các giá trị tối ưu có thể chấp
nhận. Ví dụ, về mặt giá trị chấp nhận được là
những điều kiện mà theo đó sản lượng đánh
bắt cá có kích thước không phải mục tiêu nên
được đặt trong một vài phạm vi quy ước. Giới
hạn dưới của phạm vi phải tương ứng với sự
thoát ra qua mắt lưới của cá có kích thước
thương mại, và giới hạn trên không được vượt
quá sản lượng cho phép của cá có kích thước
phi thương mại. Tính đến điều kiện giá trị chấp
nhận được, kích thước mắt lưới ngư cụ sử
dụng cần phải nằm trong phạm vi nhất định,
giới hạn dưới tương ứng với kích thước mắt
lưới theo quy định của nghề cá nước ta. Điều
kiện của các giá trị chấp nhận được sự thoát
qua mắt lưới của cá có kích thước phi thương
mại cho phép nhận giá trị tối đa của sự thoát
đó (sự thoát hoàn toàn của cá có kích thước
phi thương mại).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 97
Ta có thể thiết lập một số điều kiện để quản
lý tối ưu việc chọn lọc nghề cá, như yêu cầu về
sự tương quan của cá có giá trị thương mại và
phi thương mại trong mẻ lưới, về sản lượng
lớn nhất của một hoặc một vài loài trong mẻ
lưới, yêu cầu về lợi nhuận .v.v. Tất cả các điều
kiện và chỉ số trong quản lý chọn lọc khai thác
được nghiên cứu riêng rẽ đối với chọn lọc từng
loài, tiếp đó trong trường hợp cần thiết sẽ xét
đồng thời những điều kiện và chỉ số này.
Một số phương pháp giải quyết bài toán
chọn lọc: có giá trị lớn nhất là sử dụng mô hình
toán học để đánh giá các đặc tính chọn lọc của
ngư cụ, tiếp đó là mô hình phân tích và sản
xuất, mô hình trữ lượng – bổ sung
Mô hình toán học có giá trị rất lớn trong
việc mô tả sự tương quan giữa chọn lọc và
cường độ đánh bắt [11, 12]. Ứng dụng các
phương pháp và các mô hình có thể giải quyết
các bài toán về quản lý chọn lọc nghề cá:
- Thứ nhất bao gồm việc đánh giá chọn lọc
ngư cụ và chọn lọc khai thác dựa trên việc thiết
lập các tính chất và mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố khác nhau đến chọn lọc.
- Thứ hai là việc điều chỉnh và quy ước
kích thước mắt lưới khi đánh bắt một loài, hoặc
một số loài chỉ định. Những nhiệm vụ này giải
quyết các yêu cầu đối với chọn lọc và giới hạn
chọn lọc. Chúng liên quan tới sự thoát của cá
có kích thước thương mại qua mắt lưới, đánh
bắt phần cá có kích thước phi thương mại, giới
hạn các chỉ tiêu kinh tế nghề cá, các yêu cầu
về các thiết bị chuyên ngành .v.v.
- Thứ ba bao gồm các biện pháp liên quan
đến phương thức khai thác cá và sản lượng cá
cho phép có kích thước phi thương mại theo
loài, theo giống.
- Thứ tư bao gồm việc điều chỉnh và đánh
giá chọn lọc lý - sinh học và cơ - sinh học đồng
thời với chọn lọc ngư cụ.
- Thứ năm bao gồm việc xem xét phân tích
và hoàn thiện chọn lọc khai thác theo thời gian
(mùa vụ), không gian (ngư trường).
- Thứ sáu bao gồm các giải pháp cho vấn
đề đánh bắt cá với tính chọn lọc và cường độ
đánh bắt, tác động của chúng đến hiệu quả
khai thác.
- Thứ bảy là sự liên quan giữa việc dự báo
và kiểm tra chọn lọc ngư cụ, chọn lọc khai thác
và chọn lọc thủy sản.
- Thứ tám bao gồm đánh giá và nâng
cao hiệu quả đánh bắt trên tác động của việc
chọn lọc.
III. KẾT LUẬN
Trong điều kiện thực tế của nghề cá, rất
khó có thể giải quyết việc chọn lọc khai thác
và quản lý chọn lọc với sự tuyệt đối theo tất
cả các yếu tố ảnh hưởng trên, mà chỉ có thể
lựa chọn sử dụng những yếu tố mang lại hiệu
quả cao trong chọn lọc và quản lý chọn lọc.
Những phân tích trên đã chỉ rõ được sự ảnh
hưởng các yếu tố tới tính chọn lọc và quản
lý chọn lọc trong khai thác hải sản. Trong đó,
quan trọng và thiết thực nhất là yếu tố chọn lọc
cơ học. Chọn lọc theo yếu tố cơ học mang lại
độ tin cậy cao, áp dụng với các điều kiện đánh
bắt khác nhau, dễ dàng điều chỉnh theo mong
muốn phù hợp với cường độ khai thác và trữ
lượng nguồn lợi (điều chỉnh đánh bắt theo kích
thước cá, thành phần loài và giống). Đồng thời,
việc giải quyết bài toán chọn lọc cũng dễ dàng
được thực hiện với việc áp dụng mô hình toán
học (thông qua đường cong chọn lọc).
Hiện nay khai thác có chọn lọc là điều kiện
cần thiết trong việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản,
thực hiện liên tục trong thời gian lâu dài không
những giúp phục hồi nguồn lợi hải sản đang
trên đà suy giảm, mà còn làm gia tăng trữ
lượng nguồn lợi và đảm bảo hiệu quả trong
khai thác cũng như ổn định về kinh tế xã hội
của cộng đồng ngư dân. Ngoài ra, việc thực
hiện khai thác có chọn lọc và quản lý tốt chọn
lọc trong khai thác còn là cơ sở để xây dựng
kế hoạch sử dụng nguồn lợi thủy sản một cách
hợp lý và phát triển nghề cá bền vững.
98 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đào Mạnh Sơn (2004). Nghiên cứu thăm dò nguồn lợi hải sản và lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp phục
vụ phát triển nghề cá xa bờ Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài, Viện Nghiên cứu Hải sản.
2. Nguyễn Phi Toàn và ctv (2001). Báo cáo kết quả thử nghiệm thiết bị thoát cá con cho nghề lưới kéo đơn, Viện
Nghiên cứu Hải sản.
3. Nguyễn Phi Toàn (2017). Nghiên cứu hoàn thiện đụt lưới mắt vuông cho nghề lưới kéo đáy khai thác hải sản ven
bờ nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản, Báo cáo tổng kết đề tài, Viện Nghiên cứu Hải sản.
4. Nguyễn Văn Động (1987). Cơ sở khoa học chọn ngư cụ, Đại học Nha Trang.
5. Nguyễn Văn Kháng (2006). Nghiên cứu thiết kế và áp dụng ngư cụ chọn lọc cho một số loại nghề khai thác hải
sản, Báo cáo tổng kết dự án, Viện Nghiên cứu Hải sản.
6. Phạm Huy Sơn (2003). Lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp phục vụ phát triển nghề cá Việt Nam, Viện
Nghiên cứu Hải sản.
Tiếng Anh
7. FAO Technical Guideline For Responsible Fisheries. Volume 4, Fisheries Management, Rome, 1997.
8. FAO Technical Guideline For Responsible Fisheries. Volume 4, Suppl. 3, Managing fi shing capacity, Rome,
2008.
9. Introduction to Tropical Fish Stock Assessment. FAO - Food and Agriculture Organization of the United Nations
Rome, 1999.
10. Melnikov V.N., 1983, Cơ sở kỹ thuật sinh học trong khai thác cá. Bản tiếng Nga, Moscow.
11. Treshev A.I., 1974, Scientifi c basis of selective fi shing. Moscow.
12. Treshev A.I., 1983, The intensity of fi shing. Moscow.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nhan_to_danh_gia_tinh_chon_loc_trong_khai_thac_hai_sa.pdf