Một số nhận xét về hạ đường huyết ở bệnh viện Thống Nhất năm 2010

Hoàn cảnh hạ đường huyết Trong mẫu nghiên cứu trên, số bệnh nhân hạ đường huyết đang được điều trị và theo dõi trong bệnh viện ít hơn bệnh nhân từ bên ngoài vào. Những trường hợp nặng đều từ bên ngoài vào viện; những bệnh nhân đang được điều trị nội trú được theo dõi kĩ, phát hiện kịp thời triệu chứng hạ đường huyết để điều trị nên triệu chứng hồi phục nhanh, không nặng. Bệnh nhân có triệu chứng hạ đường huyết rồi mới xét nghiệm để xác định mức glucose trong máu nhiều hơn bệnh nhân tình cờ xét nghiệm có hạ glucose máu. Trong 2 nghiên cứu của 2 tác giả Nguyễn thị Mây Hồng(5) và Lý Đại Lương(3), do đối tượng bệnh nhân nghiên cứu là bệnh nhân đang điều trị bệnh đái tháo đường và đang nội trú, nên bác sỹ luôn cảnh giác với triệu chứng hạ đường huyết. Có khác nghiên cứu này của chúng tôi, đối tượng bệnh nhân bao gồm cả những bệnh nhân đang điều trị đái tháo đường và không có bệnh đái tháo đường, bệnh nhân nội trú và cả những bệnh nhân từ ngoài vào viện vì bệnh lý khác. Dù vậy, số lượng bệnh nhân tình cờ được phát hiện có glucose máu thấp cũng khá cao (38,9%). Đối với người cao tuổi, do quá trình tích tuổi học làm cho thay đổi vị giác và cảm giác đói no, kèm những bệnh lý mạn tính làm cho bệnh nhân chán ăn, nhiều lý do góp phần gây ra hạ đường huyết mà nếu không lưu ý thì chúng ta sẽ dễ bỏ sót. Mức độ triệu chứng và tuổi Mức độ nặng của triệu chứng tỉ lệ nghịch với số lượng, nhưng tỉ lệ thuận với tuổi; có 4/6 trường hợp nặng trên 70 tuổi. Vì số lượng bệnh nhân không nhiều nên chưa thể kết luận được có phải bệnh nhân tuổi càng cao thì càng nặng không, vì theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn thị Mây Hồng(5) thì tuổi không khác biệt so với nhũng triệu chứng nặng và không nặng. Yếu tố nguy cơ hạ đường huyết Đa số do chán ăn, bỏ bữa (41.6%) Như vậy, khi bệnh nhân đang dùng thuốc hạ đường huyết, thì vấn đề chán ăn và bỏ bữa mà vẫn uống thuốc hạ đường huyết như cũ là yếu tố nguy cơ đáng quan tâm nhất. Một bệnh nhân do dùng insulin quá liều. Trong số bệnh nhân khảo sát có 04 bệnh nhân uống rượu. Biến chứng của uống rượu, ngoài hạ thân nhiệt hoặc ngộ độc rượu, còn có hạ đường huyết. Vì vậy đối với những người uống rượu, nếu không cảnh giác, mà chủ quan và cho rằng đó chỉ là do say rượu thì có thể bệnh nhân sẽ không được cấp cứu kịp thời. Nhất là những người uống rượu thường xuyên có thể đ bị viêm gan mạn tính hay xơ gan do rượu. Khi đã bị tổn thương gan do rượu thì dự trữ glucose ở gan không còn làm nặng thêm tình trạng hạ đường huyết.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhận xét về hạ đường huyết ở bệnh viện Thống Nhất năm 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 105 MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HẠ ĐƯỜNG HUYẾT Ở BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2010 Nguyễn Đức Công*, Hồ Thượng Dũng*, Đặng Thị Thùy Quyên* TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát những đặc điểm của bệnh nhân hạ đường huyết và những yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết. Đối tượng & Phương pháp: Khảo sát 36 bệnh nhân mới vào viện hay đang điều trị trong bệnh viện có đường huyết < 70mg/dL (3,9mmol/l). Kết quả & bàn luận: Đa số BN>70t (58%), đang điểu trị thuốc hạ đường huyết (66,7%), nhưng BN không đái tháo đường bị hạ đường huyết cũng tương đối cao 33,3%. BN ngoại trú (61,1%) so nội trú (38,9%); triệu chứng nhẹ (mệt, vã mồ hôi) (52,8%) so nặng (lơ mơ, mê..) (16,7%) gặp chủ yếu ở BN ngoại trú. Kết luận: Phần lớn hạ đường huyết xảy ra trên bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị thuốc nhưng chán ăn hay bỏ bữa. Từ khóa: Hạ đường huyết, đái tháo đường. ABSTRACT SOME CHARACTERISTIC OF HYPOGLICEMIC PATIENTS IN THE THONG NHAT HOSPITAL IN 2010 Nguyen Duc Cong, Ho Thuong Dung, Dang Thi Thuy Quyen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 105 - 109 Aim: To examine some characteristic of hypoglicemic patient and its risk factors. Materials & Methods:To evaluate 36 patients who have just admitted and inpatients with the glucose falls below 70 mg/dL. Results & Discussion: The most patients are more than 70 year old (58%). Hypoglycemia occur as a complication of treatment of diabetes mellitus with insulin or oral medications (66.7%). Hypoglycemia is less common in non-diabetic persons (33.3%). Hypoglycemia occur in outpatients is 61.1%; and inpatients, 38.9%. There are 52.8% patients with hypoglycemic symptoms and manifestations is fatigue, weakness, sweating. About 16.7% hypoglycemic symptoms is more severe symptoms such as confusion, coma in patients who come mostly from outpatients. Conclusion: The most case of hypoglycemia occur in patient of diabetes mellitus with reduction of oral intake while continuing to take insulin or oral medications. Key words: Hypoglicemia, diabetes. ĐẶT VẤN ĐỀ Hạ đường huyết là một hậu quả của rất nhiều bệnh lý, trong đó nhiều nhất là hạ đường huyết do thuốc điều trị đái tháo đường. Thế kỷ XXI, đái tháo đường tiếp tục là vấn đề đáng báo động. Mục tiêu kiểm soát đường huyết càng chặt chẽ thì hạ đường huyết càng dễ xuất hiện. Đái tháo đường nằm viện có rất nhiều yếu tố nguy cơ của hạ đường huyết (bệnh cơ bản nặng, suy dinh dưỡng, nhiễm trùng can thiệp thủ * Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả liên lạc: BS. CKI. Đặng Thị Thùy Quyên, ĐT: 0908366367 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 106 thuật, phẫu thuật, phối hợp các lọai thuốc điều trị khác nhau ). Do đó cần tìm hiểu về vấn đề này để việc điều trị đái tháo đường đảm bảo về an toàn và chất lượng. Đối tượng bệnh nhân của bệnh viện Thống Nhất phần lớn là người có tuổi. Đối với người có tuổi, thường ăn uống kém, sa sút trí tuệ dễ nhầm lẫn trong thuốc uống; là một trong những nguyên nhân gây hạ đường huyết. Khi xảy ra hạ đường huyết, nếu không phát hiện và điều chỉnh kịp thời, sẽ để lại hậu quả đáng tiếc, có thể là tử vong. Đề tài này nhằm nhận xét một số bệnh cảnh hạ đường huyết ở Bệnh viện Thống Nhất để giúp ngăn ngừa hoặc phát hiện sớm hạ đường huyết, để điều trị kịp thời giúp hạn chế tổn thương do hạ đường huyết gây ra. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Tìm hiểu những yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết ở bệnh nhân nhập viện bệnh viện Thống Nhất từ thng năm 2010. Mục tiêu chuyên biệt Khảo sát những đặc điểm của bệnh nhân hạ đường huyết. Tỉ lệ những yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn bệnh Tất cả bệnh nhân vào viện hay đang điều trị trong bệnh viện có đường huyết < 70mg/dL (3,9mmol/l). Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân không có xét nghiệm chứng minh có hạ đường huyết. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Thống kê mô tả tiền cứu. Thu thập dữ liệu Thăm khám bệnh nhân (thu thập các triệu chứng cơ năng và thực thể) và hồ sơ bệnh án. Xử lý dữ liệu Các số liệu được phân tích và xử lý theo các thuật toán thống kê trong y học bằng phần mềm SPSS 16.0 và MS-EXCEL, sử dụng test x2 với p < 0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Tuổi và giới Tuổi 70 n; % 6; 6,8% 9;25,2% 21; 8% Giới Nam Nữ n;% 27; 75% 9; 25% Nhận xét: Tuổi gặp nhiều nhất là >70 tuổi. Bệnh nhân của bệnh viện Thống nhất phần lớn là nam, cao tuổi. Có đái tháo đường ĐTĐ có không n; % 24; 6,7% 12; 3,3% Nhận xét: BN bị hạ đường huyết đang có bệnh đái tháo đường chiếm tỷ lệ nhiều hơn, nhưng bệnh nhân không đái tháo đường bị hạ đường huyết cũng có một tỷ lệ tương đối cao 33,3%. Mức độ triệu chứng Mức độ Nhẹ TB Nặng n; % 19;52,8% 11;30,6% 6; 16,7% Nhận xét: Đa số chỉ biểu hiện nhẹ, nhưng những ca nặng cũng nhiều (16.7%). Hoàn cảnh Hoàn cảnh Nội viện Ngoại viện n; % 14;38.9% 22; 61.1% Nhận xét: Bệnh nhân từ ngoài vào nhiều hơn bệnh nhân nội trú. Tuy nhiên, bệnh nhân nội trú, tức những bệnh nhân đang có chế độ chăm sóc y tế, cũng chiếm tỷ lệ khá cao (38,9%). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 107 Tình cờ xét nghiệm hay có triệu chứng Có triệu chứng Tình cờ n; % 22; 61,1% 14; 38,9% Nhận xét: Những bệnh nhân có triệu chứng hạ đường huyết rồi xét nghiệm nhiều hơn số bệnh nhân xét nghiệm tình cờ phát hiện hạ đường huyết. Mức độ triệu chứng và hoàn cảnh Mức độ Nặng (n;%) Nhẹ (n;%) TB (n;%) Nội viện 0 14; 38,8% 0 Ngoại viện 6; 16,6% 5; 14,0% 11; 30,6% Nhận xét: Những bệnh nhân có mức độ triệu trung bình đến nặng đều là bệnh nhân từ ngoài vào. Bệnh nhân đang nằm điều trị nội trú bị hạ đường huyết chỉ có ở mức độ nhẹ. Mức độ triệu chứng và tuổi Độ nặng Nhẹ (n;%) TB(n;%) Nặng(n;%) Tuổi < 60 4; 11,1% 1; 2,8% 1; 2,8% Tuổi từ 60 – 70 4; 11,1% 4; 11,1% 1; 2,8% Tuổi > 70 11; 30,6% 6; 16,6% 4; 11,1% Nhận xét: Tuổi và mức độ triệu chứng tỷ lệ thuận với nhau. Tuổi càng cao số lượng bệnh nhân bị hạ đường huyết càng nhiều và càng nặng. Có 6 bệnh nhân nặng thì 4 bệnh nhân trên 70 tuổi. Yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết Yếu tố nguy cơ n; % Đang dùng thuốc HĐH 16; 44,4% Do dùng thuốc quá liều. 01; 2,8% Do ăn kém hoặc bỏ bữa ăn. 15; 41,6% Uống rượu 04; 1,2% Bệnh mạn tính kèm theo (suy thận mạn, lao, ung thư, bệnh tim mạch,..) 16; 4,4% Nhận xét: Trong số bệnh nhân đang dùng thuốc hạ đường huyết, chỉ có 01 bệnh nhân do dùng thuốc quá liều, số còn lại do chán ăn hoặc ăn bỏ bữa. Uống rượu có 04 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 11,2%. Những bệnh nhân còn lại có nhiều loại bệnh lý mạn tính đi kèm như suy thận mạn, lao, ung thư, bệnh tim mạch. BÀN LUẬN Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề hạ đường huyết. Nhưng những nghiên cứu đó tập trung chú ý đến hạ đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường. Chúng tôi không chỉ nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường mà trên bệnh nhân với mọi loại bệnh và mọi tình huống gây ra hạ đường huyết.Bệnh nhân của bệnh viện Thống Nhất phần lớn là người có tuổi, nhất là những người sống một mình, ăn uống kém vì vị giác thay đổi, trí nhớ không còn minh mẫn nữa,.. sẽ là những cơ hội để hạ đường huyết xảy ra. Khi xảy ra hạ đường huyết ở người có tuổi thì triệu chứng không rõ như ở người trẻ mà bị lu mờ do đặc điểm của tích tuổi học, và nếu cấp cứu không kịp thời sẽ để lại những hậu quả đáng tiếc. Trong phần nêu lên một số trường hợp nặng, chúng tôi sẽ đề cập đến một trường hợp hạ đường huyết ở người có tuổi không bệnh đái tháo đường, nhưng do ăn uống kém mà tình trạng hạ đường huyết nặng để lại di chứng tổn thương não không hồi phục, rất đáng tiếc. Đặc điểm chung Tuổi trung bình của nghiên cứu của chúng tôi là 70,9. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn thị Mây Hồng là 62,2(5). Nghiên cứu của tác giả Lý Đại Lương là 69,5(3). Nghiên cứu của chúng tôi có số tuổi cao hơn 2 nghiên cứu trên do đặc điểm bệnh nhân của bệnh viện Thống Nhất phần lớn là người có tuổi. Trong số bệnh nhân hạ đường huyết, số bệnh nhân đang có bệnh đái tháo đường có tỷ lệ nhiều hơn. Tuy nhiên, số lượng bệnh nhân bị hạ đường huyết nhưng không có bệnh đái tháo đường – không dùng thuốc hạ đường huyết cũng có tỷ lệ khá cao (33,3%). Điều này cảnh báo các bác sỹ lâm sàng không chỉ cảnh giác hạ đường huyết ở bệnh nhân đang bị bệnh đái tháo đường đang dùng thuốc, mà còn phải cảnh giác hạ đường huyết ở mọi đối tượng. Cũng như phần đặt vấn đề điều trị, khi hạ đường huyết xảy ra, nếu chúng ta phát hiện sớm và điều chỉnh kịp thời thì triệu chứng hồi phục nhanh chóng. Nhưng nếu để tình trạng hạ đường huyết xảy quá lâu mới được phát hiện để điều Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 108 trị thì tổn thương sẽ khó hồi phục, thậm chí có thể tử vong. Hoàn cảnh hạ đường huyết Trong mẫu nghiên cứu trên, số bệnh nhân hạ đường huyết đang được điều trị và theo dõi trong bệnh viện ít hơn bệnh nhân từ bên ngoài vào. Những trường hợp nặng đều từ bên ngoài vào viện; những bệnh nhân đang được điều trị nội trú được theo dõi kĩ, phát hiện kịp thời triệu chứng hạ đường huyết để điều trị nên triệu chứng hồi phục nhanh, không nặng. Bệnh nhân có triệu chứng hạ đường huyết rồi mới xét nghiệm để xác định mức glucose trong máu nhiều hơn bệnh nhân tình cờ xét nghiệm có hạ glucose máu. Trong 2 nghiên cứu của 2 tác giả Nguyễn thị Mây Hồng(5) và Lý Đại Lương(3), do đối tượng bệnh nhân nghiên cứu là bệnh nhân đang điều trị bệnh đái tháo đường và đang nội trú, nên bác sỹ luôn cảnh giác với triệu chứng hạ đường huyết. Có khác nghiên cứu này của chúng tôi, đối tượng bệnh nhân bao gồm cả những bệnh nhân đang điều trị đái tháo đường và không có bệnh đái tháo đường, bệnh nhân nội trú và cả những bệnh nhân từ ngoài vào viện vì bệnh lý khác. Dù vậy, số lượng bệnh nhân tình cờ được phát hiện có glucose máu thấp cũng khá cao (38,9%). Đối với người cao tuổi, do quá trình tích tuổi học làm cho thay đổi vị giác và cảm giác đói no, kèm những bệnh lý mạn tính làm cho bệnh nhân chán ăn, nhiều lý do góp phần gây ra hạ đường huyết mà nếu không lưu ý thì chúng ta sẽ dễ bỏ sót. Mức độ triệu chứng và tuổi Mức độ nặng của triệu chứng tỉ lệ nghịch với số lượng, nhưng tỉ lệ thuận với tuổi; có 4/6 trường hợp nặng trên 70 tuổi. Vì số lượng bệnh nhân không nhiều nên chưa thể kết luận được có phải bệnh nhân tuổi càng cao thì càng nặng không, vì theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn thị Mây Hồng(5) thì tuổi không khác biệt so với nhũng triệu chứng nặng và không nặng. Yếu tố nguy cơ hạ đường huyết Đa số do chán ăn, bỏ bữa (41.6%) Như vậy, khi bệnh nhân đang dùng thuốc hạ đường huyết, thì vấn đề chán ăn và bỏ bữa mà vẫn uống thuốc hạ đường huyết như cũ là yếu tố nguy cơ đáng quan tâm nhất. Một bệnh nhân do dùng insulin quá liều. Trong số bệnh nhân khảo sát có 04 bệnh nhân uống rượu. Biến chứng của uống rượu, ngoài hạ thân nhiệt hoặc ngộ độc rượu, còn có hạ đường huyết. Vì vậy đối với những người uống rượu, nếu không cảnh giác, mà chủ quan và cho rằng đó chỉ là do say rượu thì có thể bệnh nhân sẽ không được cấp cứu kịp thời. Nhất là những người uống rượu thường xuyên có thể đ bị viêm gan mạn tính hay xơ gan do rượu. Khi đã bị tổn thương gan do rượu thì dự trữ glucose ở gan không còn làm nặng thêm tình trạng hạ đường huyết. KẾT LUẬN Qua khảo sát trên, vì số lượng bệnh nhân còn ít, nên chúng tôi chỉ mới có thể có những kết luận bước đầu như sau: Về đặc điểm bệnh nhân hạ đường huyết Bệnh nhân đang điều trị bệnh đái tháo đường nhiều hơn bệnh nhân không dùng thuốc hạ đường huyết. Dù vậy, bệnh nhân không dùng thuốc hạ đường huyết bị hạ đường huyết cũng có tỉ lệ khá cao. Bệnh nhân ngoại viện nhiều hơn nội viện. Hạ đường huyết nặng thì đều là ngoại viện. Bệnh nhân đang nằm viện bị hạ đường huyết đều ở mức độ nhẹ và hồi phục. Về tỷ lệ những yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết Yếu tố nguy cơ chán ăn và bỏ bữa là thường gặp nhất ở bệnh nhân đái tháo đường đang dùng thuốc hạ đường huyết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ambrosius WT., Brillon DJ., Buse JB., Byington RP. (2010): Epidemiologic relationships between A1c and all-cause motality during a median 3.4 year follow-up of glycemic treatment in the accord trial. Diabetes care april 28, vol. 33 no; 5: p983-990. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 109 2. Gerstein HC, Miller ME, Byington RP, and Goff DC. (2008): Effects of intensive glucose lowering in type 2 diabetes. N Engl J Med; 358:p2545-2559. 3. Lý Đại Lương (2008). Tỉ lệ các yếu tố gây hạ đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú năm 2008. 4. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). Nội tiết học đại cương. Nhà xuất bản y học; tr372 - 508. 5. Nguyễn Thị Mây Hồng (2008). Tần suất và các yếu tố nguy cơ của hạ đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường nằm viện tại khoa Nội tiết bệnh viện Chợ Rẫy. Luận án tốt nghiệp chuyên khoa cấp 2 năm 2008. 6. Nguyễn Thiện Thành (1991). Hướng dẫn người có tuổi giữ gìn sức khỏe. Nhà xuất bản Y học; tr101 - 110. 7. Nguyễn Thiện Thành (1993). Cấp cứu những tình huống ưu tiên ở người có tuổi. Nhà xuất bản y học 1993; tr16 - 26. 8. Zoungas S, Patel A, Chalmers J, de Galan BE., Li Q, Biostat M.., Billot L, Ninomiya T, Neal B, MacMahon S, Grobbee DE., Kengne AP, Marre M, and Heller S, for the ADVANCE Collaborative. (2010): Severe hypoglycemia and risks of vascular event and death. N Engl J Med; p363:1410-1418.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_nhan_xet_ve_ha_duong_huyet_o_benh_vien_thong_nhat_nam.pdf
Tài liệu liên quan