Nghiên cứu từ AMC về hiệu quả CT và
siêu âm doppler thường qui trong phát hiện
giả phình ĐM gan sau LDLT, năm 1999-2003 tỉ
lệ 11/539 bị giả phình. Kết luận: theo dõi hình
ảnh học thường qui thì quan trọng để phát
hiện sớm biến chứng, siêu âm Doppler thì hạn
chế trong chẩn đoán, tuy nhiên CT có cản
quang đặc biệt CT đa đầu dò có dựng hình
đông mạch cho thấy hiệu qủa trong phát hiện
ở hầu hêt bệnh nhân (83%) (5,1).
Khi hồi cứu lại bệnh nhân đầu tiên có nhiều
yếu tố nguy cơ giả phình ĐM gan: có tổn thương
đuôi tụy trong quá trình mổ cắt lách, Lipase
thường cao trong thời gian hậu phẫu, nối mật
ruột Roux-en-Y. Mặc dù cũng thường qui chụp
CT Scan theo dõi, nhưng thời điểm chụp lần cuối
trước xảy ra biến chứng là khá xa đến 20 ngày.
Chúng tôi tự hỏi nếu như có nghĩ đến biến
chứng giả phình, việc thường qui hơn chụp CT
scan tầm soát có thể phát hiện sớm khi chưa vỡ
phình và chủ động can thiệp nội mạch, thả coil
thì tiên lượng bệnh nhân của chúng tôi đã tốt
hơn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhận xét về hồi sức sau mổ ghép gan nhân hai trường hợp ghép gan từ người cho gan sống tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 267
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HỒI SỨC SAU MỔ GHÉP GAN
NHÂN HAI TRƯỜNG HỢP GHÉP GAN TỪ NGƯỜI CHO GAN SỐNG
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Thanh Linh*, Huỳnh Quang Đại**, Phạm Thị Ngọc Thảo**, Nguyễn Trường Sơn*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ghép gan ngày nay đã được chấp nhận rộng rãi và trở nên là phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh
nhân bệnh gan giai đoạn cuối và suy gan cấp. Sự tiến bộ của kỹ thuật ghép gan, đặc biệt kỹ thuật ghép gan từ
người cho gan sống đã giải quyết đáng kể lượng bệnh nhân chờ ghép gan.
Mục tiêu: chia xẻ một số kinh nghiệm về hồi sức từ công việc chuẩn bị, quá trình theo dõi sau mổ, điều trị
miễn dịch và một số biến chứng nhân 2 ca mổ ghép gan từ người cho gan sống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: báo cáo 2 ca ghép gan từ người cho sống tại BVCR.
Kết quả: Bệnh nhân thứ nhất được chẩn đoán xơ gan ứ mật giai đoạn cuối, cường lách, được tiến hành ghép
gan phải từ con trai, nối mật ruột và cắt lách, điều trị miễn dịch với Cyclosporin và steroid. Hậu phẫu ngày 6 biến
chứng chảy máu sau mổ từ bờ dưới đuôi tụy, phẫu thuật cầm máu thành công. Hậu phẫu ngày 61 xuất huyết
tiêu hóa mức độ nặng do vỡ giả phình động mạch gan vào ruột non. Sau DSA tắc mạch cầm máu, hoại tử gan
ghép, tử vong sau 70 ngày ghép. Bệnh nhân thứ hai xơ gan giai đoạn cuối do rượu, viêm gan siêu vi B đang hoạt
động, đái tháo đường type 2, bệnh tim thiếu máu cục bộ đã đặt stent LAD. Bilirubin trước mổ 45mg%, được thay
huyết tương 3 lần, sau đó ghép gan phải từ con trai, nối mật-mật. Sau mổ được rút nội khí quản trong ngày hậu
phẫu thứ nhất, điều trị miễn dịch với Tacrolimus, steroid và Mycophenolate mofetil. Phòng ngừa tái nhiễm HBV
theo phác đồ. Diễn tiến thuận lợi cho thấy mảnh gan ghép hoạt động tốt sau ghép, xuất viện sau 1 tháng. Tiếp tục
điều trị ngoại trú.
Kết luận: Thành công ca mổ ghép gan là sự phối hợp chặt chẽ của từng bộ phận trong một nhóm, từ giai
đoạn chuẩn bị trước mổ, phẫu thuật, gây mê và hồi sức sau phẫu thuật. Trong đó, hồi sức sau mổ có vai trò quan
trọng trong việc giúp sớm phục hồi chức năng gan ghép và theo dõi phát hiện sớm những biến chứng, điều trị kịp
thời. Rất nhiều biến chứng sau mổ ghép gan xãy ra trong giai đoạn hậu phẫu xa, tuy nhiên nhiều xét nghiệm và
chẩn đoán hình ảnh định kỳ thường qui có thể giúp phát hiện sớm những biến chứng đó khi lâm sàng chưa biểu
hiện triệu chứng, do đó cần tuân thủ các bước theo dõi như các phác đồ đã khuyến cáo là cần thiết.
Từ khóa: ghép gan người cho gan sống, chảy máu ổ bụng, dò mật, giả phình động mạch gan.
ABSTRACT
POSTOPERATIVE RESUSCITATION AND COMPLICATIONS OF LIVING DONOR LIVER
TRANSPLANTATION: REPORT OF TWO CASES
Tran Thanh Linh, Huynh Quang Dai, Pham Thi Ngoc Thao, Nguyen Truong Son
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 267 - 272
Background: Liver transplantation is now widely accepted and become the optimal treatment for patients
with end-stage liver disease and acute fulminant liver failure. The progress of liver transplant techniques,
particularly techniques for living donor liver transplantation (LDLT) resolved substantially number of patients in
* Khoa Hồi Sức Cấp Cứu, Bệnh viện Chợ Rẫy ** Bộ môn Hồi Sức Cấp Cứu – Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS.CKII.Trần Thanh Linh, ĐT: 0918168846, Email: thanhlinhcr@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 268
the waiting list.
Objectives: Discuss about the preparation, postoperative management, immunosuppressive therapy,
complications of the two first cases LDLT in Cho Ray hospital, Viet Nam
Patient and method: two case reports
Result: The first patient was diagnosed as secondary biliary cirrhosis and hypersplenism. She was
transplanted by right liver graft from her son and splenectomy, immunosuppressive therapy with Cyclosporin,
steroid. Post-operative day 6 (POD6), the patient had to re-operate to stop intra-abdominal bleeding from
pancreatic tail. On POD 61, the patient had severe upper gastrointestinal bleeding due to pseudo-aneurysm of
hepatic artery ruptured into small intestine. After DSA to emboli hepatic artery, the patient had liver graft
necrosis, fulminant hepatic failure and died on POD70. The second patient had end-stage alcohol cirrhosis, active
hepatitis B, type 2 diabetes, ischemic heart disease with a stent in LAD. Pre-operative bilirubin was 45mg%. The
patient had plasma exchange 3 times and was transplanted by his son’s right liver graft. He was endotracheal
extubation on POD1, immunosuppressive therapy with tacrolimus, steroid, mycophenolate mofetil and prevented
reactive hepatitis B. His graft recovered soon and he discharged after 1 month, follow up in outpatient clinic.
Conclusion: The success needs the cooperation of each other in liver transplantation team, form preoperative
evaluation, surgery, anesthesia and postoperative care. Especially, the role of postoperative resuscitation is very
important in helping early retrieving function of graft, detection and monitoring of complications to correct
promptly. Many liver transplant postoperative complications occur in late postoperative period, however many
tests and routine imaging diagnosis can detect early these complications such as no clinical symptoms, therefore
required to comply with the monitoring task as the recommended protocols is needed.
Keywords: living donor liver transplantation, intra-abdominal bleeding, biliary leak, hepatic artery pseudo-
aneurysm.
MỞ ĐẦU
Những năm 1970 tỉ lệ sống một năm sau
ghép gan chỉ khoảng 30%, với sự tiến bộ trình độ
gây mê, kỹ thuật mổ, thuốc ức chế miễn dịch và
đặc biệt hồi sức sau mổ góp phần tăng tỉ lệ sống
mảnh ghép và tỉ lệ sống của bệnh nhân 1 năm, 3
năm, 5 năm là 87%, 78% và 73% từng nhóm(6).
Tại Bệnh viện Chợ rẫy đã thực hiện 2 trường
hợp ghép gan nguồn từ người cho gan sống
trong năm 2012 và 2013 bước đầu cho thấy thành
công.
BỆNH ÁN
Người nhận Người cho
CUNG THỊ KIM Đ 53 tuổi
Giới: nữ, Số nv: 89671
Nhóm máu A+, CMV-IgG (+),HBsAg (-)
Ngày vv:08/10/2012, Ngày PT: 12/10/2012. TL
mảnh ghép: 630gr
Chẩn đoán: Xơ gan mật giai đoạn cuối –
cường lách.
Tiền căn: mổ nhiều lần: cắt túi mật, nối ống
mật chủ, xuất huyết tiêu hóa do vỡ dãn TM
thực quản 3 lần. MELD: 13, CTP: 7
DIỆP HỮU L
Tuổi 22, Giới: nam
Nhóm máu A+, CMV-
IgG (-), HBcAg (+)
Thời gian mổ 13 giờ. Trong mổ truyền 8 HCL, 10FFP, 2TC. Phương pháp phẫu thuật: ghép gan phải, nối mật-ruột, cắt lách.
Sau mổ thở máy, không duy trì thuốc vận mạch, tỉnh sau 4 giờ, cai máy sau 12 giờ, rút NKQ sau 16 giờ.
HUỲNH CÔNG T 50 tuổi
Giới: nam, Số nv: 64662
Nhóm máu AB+, CMV-IgG (+), HBsAg (+),
HBeAg(+), HBV-DNA (+)
Ngày vv:11/8/2013, Ngày PT: 15/8/2013
Trọng lượng mảnh ghép: 750gr
Chẩn đoán: Hôn mê gan -Xơ gan giai đoạn
cuối do rượu-HBV
Tiền căn: Đái tháo đường type 2, bệnh mạch
vành đã đặt stent năm 2012. MELD: 29,
CTP: 10
Trước mổ Bilirubin 45mg%, điều trị thay
huyết tương 3 lần
HUỲNH GIA T
Tuổi 18, Giới: nam
Nhóm máu A+, CMV-
IgG (-), HBsAg (-)
Thời gian mổ 14 giờ. Trong mổ truyền 11 HCL, 11FFP, 20TC, 20 kết tủa lạnh. Phương pháp phẫu thuật: ghép gan phải, nối
mật-mật. Sau mổ thở máy, duy trì thuốc vận mạch Noradrenalin, tỉnh sau 6 giờ, cai máy sau 15 giờ, rút NKQ sau 18 giờ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 269
Tình trạng khi nhập ICU
Cả hai thở máy, monitoring theo dõi Mạch,
HA động mạch xâm lấn, CVP, SpO2 liên tục.ghi
lại sinh hiệu, lượng nước tiểu, Glasgow, dịch dẫn
lưu (JP), dịch mật mỗi giờ. Xét nghiệm CTM,
ĐMTB, sinh hóa, KMĐM mỗi 6 giờ, Đường
huyết mao mạch mỗi 2 giờ. Nồng độ thuốc ức
chế miễn dịch 2 lần/ ngày. Siêu âm Doppler gan
mỗi ngày, XQ bụng một lần / ngày, XQ phổi 4
lần / ngày, CT scan bụng dựng hình mạch máu
mỗi tuần.
Điều trị
Kháng sinh: Piperacillin/Tazobactam +
Levofloxacin, Phòng nhiễm nấm: Amphotericine
B liên tục 7 ngày sau mổ→ uống Sporanox 3
tháng, Phòng nhiễm Virus: Gancyclovir liên tục
7 ngày sau mổ → uống Valtrex 3 tháng.
Điều hòa miễn dịch: Imunoglobulin IV,
Gabexate mesilate (Foy) x 7 ngày→ngưng
Thuốc ức chế miễn dịch: Bệnh nhân đầu tiên:
Steroid + Cyclosporin (CSA) . Bệnh nhân thứ hai
chúng tôi sử dụng Tacrolimus kết hợp MMF và
steroid.
Ngừa tái nhiễm HBV theo phác đồ cho bệnh
nhân thứ hai: 20.000IU HBIG truyền TM trong
giai đoạn không gan, rồi10.000IU truyền từ hậu
phẫu ngày 1 – ngày 7 + Entecavir 0.5mg/ ngày,
rồi tiếp tục 10.000UI/ mỗi tuần x 4 tuần, sau đó
mỗi tháng 1 lần. Mục tiêu: tháng 1,2,3,4,5,6 – duy
trì antiHBs > 1000IU/L đến > 6 tháng duy trì
antiHBs > 500IU/L. Theo dõi HBsAg/Ab mỗi
ngày tới ngày hậu phẫu 7→ mỗi tuần x 4 tuần,
rồi mỗi tháng.
Kiểm soát huyết áp với Dihydropyridin
(Perdipine truyền liên tục), Amlor. Lasix tiêm
mạch để đạt mục tiêu nước tiểu 150-200ml/giờ.
Phòng ngừa huyết khối: Plavix, Aspirin.
Bù albumin để duy trì Albumin / máu >
3,5g/L. Ngừa loét dạ dày với Nexium, Sucralfate
Bảng 1. Cận lâm sàng hậu phẫu người nhận gan (trường hợp 1)
Ngày HP Hb
(g/dL)
PLT
(G/L)
% PT INR Bilirubin
(mg%)
AST
U/L
ALT
U/L
Lactate
mg/dl
Đường
máu(mg%)
Nhập ICU 8,5 29 30 2,27 3,01 770 610 49,6 287
1 79 77,5 40 1,49 1,85 365 454 19 113
2 7,9 82 50 1,23 1,1 153 290 15 171
5 8,6 141 68 1,19 1,2 50 157 10,5 172
6 (mổ lại) 7,5 96 76 1,14 3,12 137 217
Đến sáng sớm ngày HP6 (18/10/2012)
Dẫn lưu ổ bụng ra dịch máu đỏ hồng tăng
dần,mạch tăng, Hb giảm dần và không tăng
dù được bù máu, men gan tăng, chức năng
đông máu không thay đổi. Kết quả CT scan
bụng dựng hình mạch máu: thoát mạch thì
ĐM vùng hố lách.
Hình 1. Biến chứng chảy máu hậu phẫu ngày 6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 270
Hình 2. Hình ảnh CT-scan giả phình động mạch gan
Bệnh nhân được mổ lại lúc 22h30 18/10/2012
Chẩn đoán sau mổ: Chảy máu vùng bờ dưới
đuôi tụy sát mỏm cắt và cuống gan trên tá tràng
của vùng nhận. Xử trí: khâu cầm máu.
Đến ngày 11/12/2012 (ngày HP thứ 61) 21
giờ
Tiêu phân máu đỏ sậm lượng nhiều, Mạch,
HA tụt nhanh khó đo, Hb giảm nhanh. Nội soi
DD-TT không thấy tổn thương. CT-Scan bụng
dynamic: giả phình, thoát thuốc vào lòng quai
ruột non cạnh ĐM gan riêng đoạn nối, DSA:
hình ảnh giả phình mạch + thoát mạch vào
lồng ruột ở vị trí ghép nhánh ĐM gan của
người cho và người nhận (miệng nối ĐM).
Xử trí
DSA tắt ĐM gan , sau tắt ĐM gan tình trạng
chảy máu được kiểm soát, tuy nhiên suy gan
hoại tử tế bào gan cấp, bệnh tử vong 1 tuần sau
đó trong bệnh cảnh hôn mê gan, suy đa tạng.
Ca thứ hai
Giai đoạn hậu phẫu bệnh ổn định, xuất viện
sau một tháng và theo dõi định kỳ theo lịch. Đến
hậu phẫu ngày 95 bệnh đau bụng âm ỉ liên tục
vùng thượng vị và hạ sườn phải, không sốt,
không ói, được nhập viện theo dõi. Kết quả CT
scan dynamic: dịch dưới gan, dạ dày nhiều thức
ăn. Chụp đường mật: rò mật từ chân ống dẫn
lưu đường mật.
Xử trí
Rút DL đường mật, kháng sinh Ertapenem.
Sau 10 ngày bệnh ổn định xuất viện.
BÀN LUẬN
Cả hai trường hợp sau mổ đều rất nặng, đều
có thân nhiệt thấp < 36oC ngay khi nhập hồi sức.
Cuộc mổ kéo dài, mở bụng lớn bảo quản gan
lạnh, cũng như truyền nhiều máu là nguyên
nhân hạ thân nhiệt. Tăng nhiệt độ phòng, tăng
nhiệt độ làm ấm máy thở và mền ủ ấm với máy
làm ấm Bair huger đã giúp chúng tôi kiểm soát
được thân nhiệt bệnh nhân.
Việc xây dựng một qui trình hồi sức, các biểu
mẫu theo dõi, thành lập một bảng cập nhật các
kết quả xét nghiệm liên tục, ghi chú những diễn
biến, số lượng dịch dẫn lưu và các điều chỉnh
điều trị như một bệnh án tóm tắt đã giúp chúng
tôi gặp nhiều thuận lợi trong theo dõi, phát hiện
sớm những bất thường cũng như dễ dàng bàn
giao giữa các phiên trực với nhau.
Trong tuần lễ đầu sau mổ chúng tôi đã duy
trì mức CVP thấp từ 4-5mmHg, lượng nứơc tiểu
150-200ml/giờ với Bilan xuất nhập âm, trọng
lượng ngày hôm sau giảm 0.5kg so ngày trước,
mục tiêu giữ bệnh nhân hơi khô, điều này giúp
giảm được áp lực tĩnh mạch chủ trên và giảm
tình trạng phù mảnh ghép.
Khi tỉnh và được điều trị thuốc miễn dịch cả
hai đều có tình trạng tăng HA và tăng đường
huyết. Các thống kê cho thấy 80% bệnh nhân sau
mổ ghép gan có tăng HA do co mạch từ các
nguyên nhân do stress, đau, thuốc ức chế miễn
dịch. Thuốc dãn mạch ức chế canxi
dihydropyridin ( Perdipine ), lasix, giảm đau cho
thấy kiểm soát hiệu quả HA. (5,4)
Công tác vô trùng với phòng cách ly có khu
vực đệm thay áo choàng và dép, rửa tay thường
xuyên, rút sớm các đường truyền khi không cần
thiết. Kháng sinh phòng ngừa nhiễm khuẩn
đường tiêu hóa và da với Tazocin, Levofloxacin.
Cả hai cho thấy không có dấu hiệu nhiễm trùng
trong giai đoạn hậu phẫu.(5)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 271
Nhiễm CMV rất thường gặp ở bệnh nhân
sau ghép gan, xãy ra giữa tuần 3-8 sau ghép,
đỉnh trong khoảng tuần 5 với tần suất 30 –
78%. Rất nhiều nghiên cứu về chiến lược điều
trị dự phòng, tuy nhiên hiện tại Ganciclovir là
lựa chọn hàng đầu cho điều trị thường qui dự
phòng nhiễm CMV và cho thấy giảm đáng kể
nhiễm CMV.(5,4)
Trong số ghép tạng đặc, bệnh nhân ghép gan
có nguy cơ nhiễm nấm cao nhất tỉ lệ 20 – 50%,
90% xảy ra trong 2 tuần đầu sau ghép, 80%
nhiễm Candida. Tử vong 38-40%. Nhờ điều trị
phòng ngừa sau mổ hiện nay tỉ lệ nhiễm 4-10%.
Hiện nay Amphotericin B là vẫn là thuốc ưu tiên
chọn lựa phòng nhiễm nấm(5,4)
Khi chưa có miễn dịch phòng ngừa, tái phát
HBV đến 75% ở bệnh nhân viêm gan B mãn có
bệnh hoạt động tại thời điểm ghép gan. Tần suất
này giảm xấp xỉ 10% hai năm sau ghép gan khi
HBIG được điều trị. Tái nhiễm HBV có thể xãy
ra trong tháng đầu sau ghép, cao nhất tháng 18
sau ghép. Thuận lợi của dự phòng HBIG lớn
nhất khi nó được cung cấp thời gian dài và liều
cao(5). Bệnh nhân chúng tôi kết quả bước đầu cho
thấy đang kiểm soát tốt việc ngừa tái nhiễm.
Bảng 2. Nồng độ anti-HBs dự phòng với HBIG trong
thời gian nằm viện
Ngày
HP
1 2 3 4 5 14 21 28 35
HBsAg - - - - - - - - -
antiHBs 7598 7057 7247 7752 7111 2371 2573 3899 2964
Chọn lựa thuốc ức chế miễn dịch: làm sao
hài hòa giữa phòng ngừa thải ghép và hạn chế
tối đa tác dụng có hại do thuốc ức chế miễn dịch.
Khuyến cáo hiện nay:
Đơn trị liệu: nhóm ức chế cancineurin
(Cyclosporin hoặc Tacrolimus) + Steroid: cho
những bệnh nhân chức năng thận tốt và kiểm
soát tốt đường huyết.
Đa trị liệu: nhóm ức chế calcineurin + MMF +
Steroid: cho những trường hợp chức năng thận
kém, đái tháo đường hay ghép gan bất tương
hợp nhóm máu ABO.
Ở bệnh nhân đầu tiên chức năng thận tốt,
không bị tiểu đường do đó chúng tôi đã chọn lựa
đơn trị liệu với CSA và steroid. Ngược lại bệnh
nhân thứ hai suy thận sau mổ, đái tháo đường
với đường huyết tăng cao chúng tôi chọn đa trị
liệu với liều thấp của Tacrolimus và steroid kết
hợp MMF, kết quả cho thấy kiểm soát tốt chức
năng thận và đường huyết. Chúng tôi nhận thấy
sự tăng nồng độ thuốc CSA khi bắt đầu điều trị
với Itraconazole, và giai đoạn kẹp dẫn lưu mật.
Ở bệnh nhân thứ hai với Tacrolimus trong giai
đoạn liều cao có xuất hiện run 2 tay, tuy nhiên
sau khi giảm liều thì không còn tình trạng trên.
Biến chứng chảy máu
Thường gặp từ ngày hậu phẫu 1-21, trung
bình ngày thứ 6, tần suất hiện nay khoảng 5%,
hầu hết chảy từ vị trí miệng nối, mặt cắt, từ biến
chứng mạch máu (LDLT: 11,8 – 22,6%) tuy nhiên
khoảng 50% bệnh nhân không tìm thấy vị trí
chảy máu. Nghiên cứu tại AMC từ 2008-2010
trên 1039 bệnh nhân sau ghép, kết quả cho thấy
tỉ lệ chảy máu ổ bụng 9%, thời điểm trung bình
6.1 ngày sau mổ (1-21) và hầu hết được kiểm soát
bằng can thiệp nội mạch, phẫu thuật hoặc kết
hợp cả hai.(5,3)
Biến chứng đường mật
Thường gặp, tỉ lệ 5-32%, thường gặp hẹp
đường mật, dò mật, sỏi đường mật. Các yếu tố
nguy cơ làm tăng biến chứng đường mật như: tái
tạo đường mật ống T, miệng nối Roux-en-Y,
thiếu máu nuôi, tổn thương tái tưới máu, huyết
khối động mạch gan, nhiễm CMV, viêm đường
mật nguyên phát. Biến chứng rò mật tỉ lệ 2-25%
sau ghép gan, được chia làm biến chứng sớm ( 4
tuần kể từ sau ghép), và muộn. Hầu hết rò mật
tại miệng nối, tại vị trí ống T, tụt ống T hay sau
rút ống T. Nghiên cứu tại AMC từ năm 1999-
2005 dò mật 46/856 bệnh nhân, tỉ lệ 5,4%, chủ
yếu rò mật từ miệng nối, kết hợp rò mật và hẹp
đượng mật, ít hơn là rò mật từ mặt cắt gan.(5,8,2,7)
Biến chứng giả phình động mạch gan
Rất hiếm gặp, thường được phát hiện chậm,
tỉ lệ tử vong cao. Thời điểm thường gặp sau mổ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 272
6-40 ngày, hiếm hơn sau hai tháng. Được chia
làm giả phình trong gan thường liên quan thủ
thuật trước đó như PTBD, sinh thiết gan và giả
phình ngoài gan thường do: nhiễm khuẩn tại chỗ
do khuẩn lạc đường ruột hay gặp ở bệnh nhân
nối mật ruột Roux-en-Y, nhiễm nấm máu, viêm
tụy, kỹ thuật khâu miệng nối ĐM khó khăn.
Nghiên cứu từ AMC về hiệu quả CT và
siêu âm doppler thường qui trong phát hiện
giả phình ĐM gan sau LDLT, năm 1999-2003 tỉ
lệ 11/539 bị giả phình. Kết luận: theo dõi hình
ảnh học thường qui thì quan trọng để phát
hiện sớm biến chứng, siêu âm Doppler thì hạn
chế trong chẩn đoán, tuy nhiên CT có cản
quang đặc biệt CT đa đầu dò có dựng hình
đông mạch cho thấy hiệu qủa trong phát hiện
ở hầu hêt bệnh nhân (83%) (5,1).
Khi hồi cứu lại bệnh nhân đầu tiên có nhiều
yếu tố nguy cơ giả phình ĐM gan: có tổn thương
đuôi tụy trong quá trình mổ cắt lách, Lipase
thường cao trong thời gian hậu phẫu, nối mật
ruột Roux-en-Y. Mặc dù cũng thường qui chụp
CT Scan theo dõi, nhưng thời điểm chụp lần cuối
trước xảy ra biến chứng là khá xa đến 20 ngày.
Chúng tôi tự hỏi nếu như có nghĩ đến biến
chứng giả phình, việc thường qui hơn chụp CT
scan tầm soát có thể phát hiện sớm khi chưa vỡ
phình và chủ động can thiệp nội mạch, thả coil
thì tiên lượng bệnh nhân của chúng tôi đã tốt
hơn.
KẾT LUẬN
Thành công ca mổ ghép gan là sự phối hợp
chặt chẽ của từng bộ phận trong một nhóm, từ
giai đoạn chuẩn bị trước mổ, phẫu thuật, gây mê
và hồi sức sau phẫu thuật. Trong đó, hồi sức sau
mổ có vai trò quan trọng trong việc giúp sớm
phục hồi chức năng gan ghép và theo dõi phát
hiện sớm những biến chứng, điều trị kịp thời.
Rất nhiều biến chứng sau mổ ghép gan xảy ra
trong giai đoạn hậu phẫu xa, tuy nhiên nhiều xét
nghiệm và chẩn đoán hình ảnh định kỳ thường
qui có thể giúp phát hiện sớm những biến chứng
đó khi lâm sàng chưa biểu hiện triệu chứng, do
đó cần tuân thủ các bước theo dõi như các phác
đồ đã khuyến cáo là cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hyoung J.k, Kyoung W.k, Sung Gyu Lee, Moon-Gyu Lee
(2004): “Hepatic Artery Pseudoaneurysmsin Adult Living-
Donor Liver Transplantation: Efficacy of CT and Doppler
Sonography”, AJR:184.
2. Jin H.K, Gi-Young Ko, Sung-Gyu Lee (2008): “Bile Leak
Following Living Donor Liver Transplantation - Clinical
Efficacy of Percutaneous Transhepatic Treatment”, Liver
transplantation, 14:1142-1149
3. Jung.W. Jung, S. Hwang, G.W. Song, D.B. Moon, and S.G. Lee
(2012), “Incidence and management of Postoperative
Abdominal Bleeding After Liver Transplantation”,
Transplantation Proceedings, 44, 765–768.
4. Michael R. Lucey,1 Norah Terrault,2 Lolu Ojo, and Lewis W.
Teperman (2013): “Long-Term management of the Successful
Adult Liver Transplant: 2012 Practice Guideline by the
American Association for the Study of Liver Diseases and the
American Society of Transplantation”, Liver transplantation,
19:3-26.
5. Randall B.H, Klintmalm G.B (2005), “ Postoperative Intensive
Care Unit Management : Adult liver transplant recipients” ,
Transplantation of the Liver – Vol 2, 2ndedition, pp 833 – 1037,
Elsevier Saunders.
6. Saleh A. Alqahtani and Anne M. Larson (2011): “Adult liver
transplantation in the USA”, Current Opinion in
Gastroenterology , 27:240–247
7. Shin Hwang, Sung-Gyu Lee, Kyu-Bo Sung, Gyu-Sam
Hwang,4 Deok-Bog Moon (2006): “Long-Term Incidence, Risk
Factors, and Management of Biliary Complications After
Adult Living Donor Liver Transplantation”, Liver
transplantation, 12:831-838.
8. Walid S. A, Carlos O. Esquivel , Paul Martin (2010): “Biliary
Complications Following Liver Transplantation”, Dig Dis Sci,
55:1540–1546.
Ngày nhận bài báo: 30/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 16/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nhan_xet_ve_hoi_suc_sau_mo_ghep_gan_nhan_hai_truong_h.pdf