Một số phương hướng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn

Có nhiều cơ quan quy định việc kinh doanh và các hoạt động liên quan của các DNV&N theo những chức năng khác nhau nhưng chưa có cơ quan nào tập trung vào việc phát triển các chính sách, chương trình và phối hợp hoạt động của các bộ, các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương để thúc đẩy và hỗ trợ các DNV&N. Thành lập cơ quan quản lý về mặt nhà nước đối với các DNV&N trong đó có DNV&N ở nông thôn đã được quy định tại nghị định 90/2001/NĐ-CP của chính phủ. Việc nhà nước cho phép thành lập hiệp hội DNV&N ngành nghề nông thôn thể hiện sự quan tâm, nhất quán trong việc khuyến khích phát triển kinh tê nông thôn nói chung, ngành nghề nông thôn noi riêng. Tổ chức này có chức năng phôi hợp hoạt động của các doanh nghiệp giữa các khu vực, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, trao đổi kinh nghiệp, cung cấp thông tin, hỗ trợ nhau vốn công nghệ, tiêu thụ sản phẩm và tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.Đồng thời còn làm chức năng cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước và mở rộng hợp tác với bên ngoài.

doc32 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 871 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số phương hướng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn. Với nhận thức trên, cùng sự ham thích tìm hiểu của bản thân, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số phương hướng và phát triển dn vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn”, từ đó đưa ra được một số phương hướng và giải pháp phát triển DNV&N ở khu vực nông thôn. Để thực hiện được mục đích, kết cấu của đề án bao gồm: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về DNV&N Chương 2: Thực trạng phát triển DNV&N ở nông thôn hiện nay Chương 3: Một số định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển DNV&N ở nông thôn Với kiến thức được trang bị còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong sự góp ý của các thầy cô giáo và những người quan tâm đến đề tài này để bài viết thêm có ý nghĩa thiêt thực. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 Một số Vấn đề lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1.Khái niệm, phân loại vừa và nhỏ 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Nói đến DNV&N là nói đến cách phân loại dn dựa trên độ lớn hay quy mô của dn. Việc phân loại DNV&N phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô dn, điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm DNV&N giữa các nước chính là việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô dn và lượng hoá các tiêu thức ấy thông qua các tiêu chuẩn cụ thể. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về quy định các tiêu thức phân loại DNV&N, song khái niệm chung nhất về DNV&N ở Việt Nam là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là “cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có quy mô vốn đầu tư không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động không quá 300 người” - Các doanh nghiệp Nhà nước đăng ký theo Luật doanh nghiệp Nhà nước. - Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các hợp tác xã đăng ký hoạt động theo Luật hợp tác xã. 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1.2.1. Tiêu chí định tính Không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNV&N cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế – xã hội mỗi nước khác nhau, và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, vùng lãnh thổ Những tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNV&N như: chuyên môn hoa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định được trong thực tế. Do đó các tiêu chí này thường làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. 1.1.2.2. Tiêu chí định lượng Nhiều tiêu chí định hướng có thể sử dụng các tiêu chí như: số lao động làm việc, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế. - Tài sản (hay vốn) có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (hay vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại. - Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm. Tiêu chí để phân loại DNV&N cũng đang rất khác nhau. Phân tích số liệu của hơn 22 quốc gia, nhóm quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả các nước phát triển, đang phát triển, các nước đang chuyển đổi nền kinh tế cho thấy: chỉ tiêu về lao động được sử dụng 21 lượt, chỉ tiêu về tài sản và vốn được sử dụng 7 lượt, chỉ tiêu về doanh thu được sử dụng 5 lượt. Một loạt quốc gia chỉ sử dụng duy nhất mỗi chỉ tiêu về số lượng lao động. Tuy rằng định lượng về lao động cho các ngành cũng rất khác nhau nhưng thường là tỷ lệ thuận với trình độ phát triển. Nước có trình độ phát triển cao nhất là Mỹ, số lao động theo theo tiêu chí về DNV&N cũng lớn nhất dưới 800 người và được áp dụng cho tất cả các ngành. Ngành nào có trình độ phát triển cao hơn, ngành đó có tiêu chí lao động đối với DNV&N cũng cao hơn, chẳng hạn ngành chế tác, công nghiệp, xây dựng... Cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính và sự nghiệp của nước ta đến thời điểm 1/7/1995, dn có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 70,3%, doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm17,5%. Cả nước có 23708 doanh nghiệp thì trong đó có 87,8% thuộc loại hình DNV&N (dựa vào tiêu chí vốn và lao động). Tính riêng về tiêu chí vốn, DNV&N chiếm 99,6% trong tổng số doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,4% trong số các hợp tác xã và công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm 42,4% trong tổng số các công ty cổ phần và chiếm 68,9% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà nước. ở Việt Nam hiện nay có nhiều tổ chức tài chính phi chính thức (không có chức năng thực thi các chính sách của Nhà nước) sử dụng các tiêu thứckhác nhau hay phân loại DNV&N để xác định chính sách ưu tiên. Chẳng hạn: - Dự án VIE/US/95/004 hỗ trợ các DNV&N ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi: doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người và vốn đăng ký dưới 0,1 triệu USD. Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 31 đến 200 người và vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD. - Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc chương trình VN - EU quy định các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50 nghìn đến 300 nghìn USD tương đương gân 700 triệu đến 4,5 tỷ đồng VN. - Ngân hàng công thương Việt Nam quy định: để thực hiện các hoạt động vay tín dụng thì các DNV&N có vốn từ 5 –10 tỷ đồng với số lao động từ 500-1000 người. Hội đồng liên minh các HTX lại quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ 100-300 triệu đồng và số lao động từ 5-10 người la doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có vốn trên 50 người. Theo quy định của thủ tướng chính phủ tại công văn số 681/CP xác định tiêu thức DNV&N trong giai đoạn này là những doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. 1.1.3. Các yếu tố tác động đến phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ - Khái niệm DNV&N mang tình tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển KT-XH nhất định, trình độ phát triển của từng năm. Thông thường các nước có trình độ phát triển thì giới hạn quy định chỉ tiêu quy mô lớn hơn so với các nước có trình độ phát triển chậm. Chẳng hạn như Nhật Bản, các doanh nghiệp sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và dưới 300 lao động; trong thương mại, dịch vụ có vốn dưới 300 nghìn USD và dưới 100 lao động thì thuộc DNV&N. Đài Loan theo quy định hiện nay trong ngành xây dựng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người, trong công nghiệp khai khoáng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, 500 lao động và trong thương mại, dịch vụ có doanh số dưới 1,4 triệu USD và dưới 50 lao động là những DNV&N. Sự thay đổi quy định của một quốc gia thể hiện khả năng thích ứng nhanh của cơ chế chính sách quản lý của nhà nước đối với khu vực DNV&N dưới tác động của sự phát triển KT-XH và môi trường bên ngoài. - Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và quy mô DN cũng khác nhau. Chẳng hạn, một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng nó là doanh nghiệp lớn ở các vùng núi và nông thôn. - Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng với quy mô như vậy hiện tại hoặc tương lai có thể chỉ là DNV&N. Chẳng hạn ở Đài Loan năm 1989 trong ngành công nghiệp, doanh nghiệp có quy mô dưới 130 nghìn USD là DNV&N trong khi đó năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD. - Khái niệm DNV&N sẽ khác nhau khi mục đích phân loại khác nhau. Chẳng hạn, khái niệm DNV&N với mục đích phân loại là để hỗ trợ các doanh nghiệp yếu, mới ra đời sẽ khác khái niệm DNV&N với mục đích là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường. 1.2. Đặc điểm của các dn vừa và nhỏ ở Việt Nam Đặc điểm của các DNV&N có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển và việc hoạch định chính sách đối với các dn này. Đặc điểm của các DNV&N hiện nay có nguyên nhân sâu xa từ những điều kiện lịch sử xa xưa cũng như do mô hình kinh tế cũ tác động rất lớn đến sự phát triển của chúng ta. Dưới đây là một số đặc điểm cần tính đến trong việc hoạch định chính sách: + Sự phát triển của DNV&N ở Việt Nam trải qua nhiều biến động thăng trầm: trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, các DNV&N thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa được khuyến khích phát triển. Nhà nước lập nên một hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước từ TW đến địa phương nhưng phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước này hoạt động không có hiệu quả. Sau khi chuyển đổi cơ chế, số DNV&N ngoài quốc doanh đang tăng lên nhanh chống trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước lại giảm mạnh do chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước theo nghị quyết TW 3 (khoá IX). + Việt Nam là một nước kém phát triển nên sản xuất nhỏ là phổ biến do đó các doanh nghiệp quy mô nhỏ có diện rộng và phổ cập. + Về hình thức dn, bao gồm các loại hình: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ gia đình. Trong đó tỷ trọng các DNV&N trong các thành phần kinh tế là: doanh nghiệp Nhà nước là 65,9%, doanh ngiệp tư nhân là 99,6%, công ty trách nhiệm hữu hạn là 94,7%, công ty cổ phần là 42,4%, hợp tác xã là 97,4%. + Trang thiết bị và công nghệ còn lạc hậu dẫn đến chi phí ngày càng cao trong khi chất lượng sản phẩm và năng suất lao động thấp, hạn chế rất lớn đến tới khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trình độ quản lý còn hạn chế, thiếu kiến thức quản trị kinh doanh, kinh nghiệm và kiến thức pháp luật. + Các DNV&N phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, các địa phương và các ngành nghề tryền thống. Xu hướng hiện nay tập trung vào các ngành cần ít vốn, có thời gian thu hồi vốn đầu tư nhanh như thương mại hay dịch vụ. 1.3. Vai trò của dn vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn 1.3.1. Về kinh tế 1.3.1.1. Góp phần vào tăng trưởng, phát triển và ổn định kinh tế nông thôn Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mà trong tâm mà trọng tâm là công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, với mạng lưới rộng khắp và truyền thống, gắn bó với nông nghiệp và kinh tế – xã hội nông thôn, DNV&N là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Theo đó hệ thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển, các làng nghề truyền thống sẽ được hiện đại hoá. Các DNV&N ở khu vực nông thôn đã thu hút lượng vốn đáng kể của dân cư, đưa nguồn vốn đó vào chu chuyển, khác phục một nghịch lý đã tồn tại trong nhiều năm là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng khi lượng vốn trong dân cưcòn nhiều khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Tuy lượng vốn thu hút vào doanh nghiệp không nhiều, nhưng nhờ số lượng DNV&N khá lớn nên tổng lượng vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng lên. DNV&N đã góp phần sản xuất và cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu một khối lượng lớn, hàng năm tạo ra giá trị sản lượng khoảng trên 40 nghìn tỷ đồng và có tốc độ tăng trưởng khoảng 9%/năm. 1.3.1.2. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động Sự phát triển của các DNV&N trong nền kinh tế có tác động tích cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, xoá dần tình trạng độc canh, thuần nông và nâng cao và nâng cao hàm lượng giá trị nông sản hàng hoá. Các DNV&N thông qua các hợp đồng gia công chế biến hoặc làm đại lý phục vụ sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào từng ngõ ngách của thị trường mà các dn lớn không thể làm được. Phát triển DNV&N làm cho việc phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn về mặt lãnh thổ, cả ở nông thôn lẫn thành thị, miền núi lẫn đồng bằng, giảm sức ép về dân số đối với các thành phố lớn. Từ 1990 đến 2001, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 72,3% xuống còn 62,8%, riêng ở khu vực nông thôn tỷ lệ lao động nông nghiệp đã giảm từ 81,64% năm 1996 xuống còn 76,52%năm 2001. Trong khi lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không tăng, các dn đầu tư vốn nước ngoài mới thu hút được khoảng 600 nghìn lao động thì các DNV&N ở nông thôn đã góp phần tạo ra sự chuyển dịch kinh tế, cơ cấu lao động, khai thác và sử dụng triệt để hơn các tiềm năng vốn có (tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và truyền thống dân tộc) để phát triển kinh tế trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 1.3.1.3. Tăng hiệu quả kinh tế Các DNV&N đã tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần khôi phục và phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống. Sự gia tăng số lượng DNV&N làm cho khối lượng và chủng loại sản phẩm tăng lên, và kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo sức ép buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải thường xuyên không ngừng đổi mới và cải tiến mặt hàng, giảm chi phí, nâng cao chất lượng để thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Giữa các DNV&N và các làng nghề có mối liên hệ gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau. Một mặt các DNV&N ở nông thôn đã góp phần khôi phục và phát triển nhiều ngành nghề truyền thống. Mặt khác làng nghề truyền thống đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển các DNV&N. Kết quả khảo sát cho thấy 34% số doanh coi yếu tố truyền thống của địa phương là yếu tố chính, thúc đẩy sự hình thành nên các doanh nghiệp. 1.3.1.4. Góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ doanh nhân mới trong nền kinh tế thị trường Trong thực tế có những doanh nghiệp nhỏ hay các hộ ngành nghề chỉ giữ quy mô sản xuất kinh doanh của mình một cách ổn định qua các thời kỳ phù hợp với khả năng kinh doanh, song cũng có không ít các doanh nghiệp phát triển lên thành những doanh nghiệp có quy mô lớn và các doanh nhân ngày càng trưởng thành trong quá trình sản xuất kinh doanh. 1.3.2. Về xã hội 1.3.2.1. Góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập Mặc dù phần lớn các DNV&N nông thôn có quy mô lao động nhỏ (trên 90% số doanh nghiệp sử dụng dưới 100 lao động, trung bình mỗi hộ ngành nghề sử dụng từ 3 – 4 lao động thời vụ; mỗi doanh nghiệp sử dụng 26 lao động thường xuyên và 10 – 12 lao động thời vụ), so với hàng chục nghìn doanh nghiệp tư nhân, hàng trăm nghìn hộ ngành nghề thì số lao động được thu hút vào làm việc trong các cơ sở này là rất lớn (hàng năm ở nông thôn nước ta có khoảng gần 1triệu lao động tăng thêm, trong đó khoảng 600 – 700 nghìn người chủ yếu được tiếp nhận vào khu vực nông nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn. Nếu như để đầu tư cho mỗi chỗ làm việc, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần 294 triệu đồng, doanh nghiệp Nhà nước cần 41triệu đồng thì doanh nghiệp tư nhân chỉ cần đầu tư 17triệu đồng, còn các cơ sở sản xuất tiểu thủ công chỉ cần 10triệu đồng. Điều này cho thấy tính vượt trội của DNV&N nông thôn nhất là trong điều kiện nguồn vốn có hạn. 1.3.2.2. Góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị và giữa các vùng nông thôn Trong khi tỷ lệ thu từ nông nghiệp hầu như là không đổi thì thu từ công nghiệp và dịch vụ tăng từ 19,6% lên 21,6%, trong đó có sự đóng góp lớn của các DNV&N. Các DNV&N đã tạo ra nguồn thu nhập khá ổn định, thường xuyên góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các bộ phận dân cư. Kết quả của các cuộc khảo sát cho thấy mức sống chung của bộ phận dân cư ở nông thôn đang từng bước được cải thiện và tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 50% năm 1993 xuống còn 14,3% năm 2002. Chương 2 Thực trạng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn hiện nay. 2.1. Đánh giá chung sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thời gian qua Việt Nam là nước nông nghiệp, dân số sống ở nông thôn khoảng 75,25%, trong số đó trong độ tuổi lao động là 34,4 triệu người. Sau hơn 10 năm đổi mới, sản xuất nông nghiệp ở nước ta đã đạt được một số kết quả có ý nghĩa: Tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/năm. Tuy nhiên, nông nghiệp về cơ bản còn lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh mún, hiệu quả sản xuất thấp, cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, tiềm năng về đât đai, rừng, biển và đặc biệt là lao động chưa được khai thác, sử dụng có hiệu quả. Trong bối cảnh đó, DNV&N ở nông thôn, đặc biệt là những doanh nghiệp thuộc các ngành không đòi hỏi nhiều vốn, sử dụng nhiều lao động như công nghiệp chế biến, dệt may và một số ngành thủ công nghiệp được coi là nhân tố chủ yếu để tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu ở nông thôn. Về số lượng, các DNV&N chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp ở nông thôn và phát triển với tốc độ cao. Hiện nay có khoảng 40.500 cơ sở sản xuất kinh doanh, trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 14,16%, hợp tác xã 5,76%, doanh nghiệp tư nhân 80,08%. Những đổi mới trong chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đã trở thành chất xúc tác của sự hình thành và phát triển các DNV&N nông thôn. Số DNV&N tăng với tốc độ cao ( 8,6-9,8%/năm), trong đó các hộ ngành nghề, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hưu hạn tăng lên một cách nhanh chống trong khi các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã giảm đi rõ rệt. Sự phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp nông thôn đã góp phần tăng tỷ lệ lao động tiểu thủ công nghiệp từ 20% năm 1990 lên 29,5% vào năm 2001. Tốc độ phát triển các DNV&N tương đối cao nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp cực nhỏ ( 97,1%), sức cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu. 2.2. Thực trạng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn hiện nay 2.2.1. Về quy mô 2.2.1.1. Về vốn Vốn bình quân ban đầu của các DNV&N ở nông thôn rất thấp cả về số tương đối và số tuyệt đối so với các DNV&N khác. Với các doanh nghiệp hộ gia đình, vốn bình quân là 921 USD, với các doanh nghiệp tư nhân là 2153 USD. Số liệu điều tra cho thấy vốn của các DNV&N trong nông nghiệp ở miền Nam cao hơn so với DNV&N ở miền Bắc. Mức thấp khác nhau về vốn ban đầu không phản ánh những nhu cầu về vốn thấp và khác nhau nhưng đó cũng là kết quả của việc thiếu sự hỗ trợ tín dụng. Trên 80% số doanh nghiệp được bộ lao đông thương binh và xã hội khảo sát cho thấy chủ yếu dựa vào vốn tự có và vốn vay không lãi của bạn bè, họ hàng khi lập doanh nghiệp ( chính xác là 82,% ở Hoà Bình, 85,1% ở Quảng Ninh, 77,3% ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, 83% ở Long An...). Với dn hộ gia đình con số nay là 87% và với doanh nghiệp tư nhân con số này là 75%. Vốn tự có và tiền vay không phải trả lãi của các DNV&N ở khu vực nông thôn chiếm 90% số vốn ban đầu. Nguồn vốn vay ngoài chủ yếu là vay tư nhân có lãi, khoang 5,6% doanh nghiệp hộ gia đình và 19,4% doanh nghiệp tư nhân huy động vốn bằng phương pháp này. Khả năng về vốn sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh giữa các DNV&N ở khu vực nông thôn, đồng thời cũng thể hiện các tiềm năng kém hiệu quả của các DNV&N khu vực này. Nó sẽ làm khác biệt về phát triển kinh tế cũng như chênh lệch ngay giữa các DNV&N khu vực nông thôn. Các DNV&N sẽ phát triển những nơi nào có nhu cầu lớn về việc làm và thu nhập, hoặc ở những nơi có điều kiện tốt nhất để phát triển những loại hình hoạt động phi nông nghiệp. 2.2.1.2. Về lao động Quy mô của các DNV&N ở nông thôn nhỏ hơn quy mô trung bình của các DNV&N ở khu vực thành thị. Trung bình các DNV&N nông thôn tạo ra 2,2 tỷ đồng giá trị sản lượng, thu hút 26,5% lao động; các hộ ngành nghề tạo ra 134 triệu đồng và thu hút 3,5 lao động. Trung bình các DNV&N tư nhân nông thôn sử dụng 30 lao động, mức này chỉ bằng 77% số lao động trung bình của các doanh nghiệp tư nhân thành thị (39 lao động) và chỉ tạo ra được giá trị tăng thêm trung bình của một doanh nghiệp là 307 triệu đồng trên năm, mức này chỉ bằng 50% so với các doanh nghiệp tư nhân thành thị, đối với các hộ ngành nghề thì sự khác biệt này còn lớn hơn. Cụ thể hơn qua bảng số liệu dưới đây: Loại DN Quy mô lao động Tổng Từ 1-10 lao động Từ 11-50 lao động Từ 51-100 lao động > 100 lao động DN tư nhân Hộ ngành nghề 52,7 98,74 37,2 1,2 4,64 0,6 4,51 _ 100 100 Bảng 1: Cơ cấu DNV&N ở nông thôn năm 1997 theo quy mô lao động Sự phát triển của các DNV&N khu vực nông thôn có tác dụng chính trong việc tạo thêm cơ hội việc làm cho các hộ gia đình vì các doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào lao động hộ gia đình. Trong số các DNV&N nông thôn do Bộ lao động thương binh và xã hội điều tra thì có hơn 1/3 số lao động là lao động làm công ăn lương. Các doanh nghiệp hộ gia đình nông thôn hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào lao động hộ gia đình. Chỉ có 8,1% số doanh nghiệp thuê lao động có trả lương và trung bình số lao động làm thuê chỉ chiếm 6,1% tổng số lao động. Doanh nghiệp tư nhân ở khu vực nông thôn cũng như vậy, phụ thuộc phần lớn vào lao động gia đình, chiêm 43,6% tổng lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động làm công ăn lương lớn nhất trong các doanh nghiệp sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp. Mặc dù chủ yếu dựa vào lao động gia đình nhưng phần lớn công nhân trong các doanh nghiệp nông thôn làm việc đủ thời gian, trong các doanh nghiệp tư nhân 84,3% lao động làm đủ thời gian. Đối với các hộ gia đình, chủ yếu là lao động không ổn định và lao động thời vụ. Khoảng 41,3% lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình và 28,9% trong các doanh nghiệp tư nhân là nữ. Trong các DNV&N khu vực nông thôn, độ tuổi trung bình của mỗi lao động là 31,5 tuổi. So với doanh nghiệp tư nhân độ tuổi trung bình của doanh nghiệp hộ gia đình cao hơn gần 4 tuổi do ở đó tỷ lệ lao động trên 40 nhiều hơn. 2.2.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm Các DNV&N khu vực nông thôn có hai loại thị trường chính: một loại chủ yếu để bán cho thị trường địa phương, một loại chủ yếu để bán trên thị trường các thành phố lớn. Khoảng 1/3 các doanh nghiệp chỉ bán sản phẩm của mình trên thị trường địa phương, 18% số doanh nghiệp hộ gia đình và 14% số doanh nghiệp tư nhân bán toàn bộ sản phẩm ở các thành phố lớn. Như vậy, trên 70% số sản phẩm của các doanh nghiệp được tiêu thụ tại địa phương. Việc tiêu thụ hàng hoá phụ thuộc chủ yếu vào mạng lưới phân phối cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân không chính thức ở địa phương. Còn DNV&N ở nông thôn hầu như chưa đủ năng lực để tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường nên hầu hết các sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tại thị trường trong nước, bên cạnh đó lại luôn bị sức ép cạnh tranh lớn của các sản phẩm nhập ngoại, của các sản phẩm cùng loại do các doanh nghiệp lớn sản xuất. Khoảng 80% doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ đáp ứng 50-60% nhu cầu nguyên liệu dùng vào sản xuất. Giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã kiểu dáng chậm được cải thiện, khả năng cạnh tranh trên thị trường kém là những thách thức lớn đối với các DNV&N ở nông thôn mong muốn xuất khẩu, đến nay mới chỉ có khoảng 7-10% các sản phẩm của các DNV&N nông thôn và khoảng 1% sản phẩm các hộ ngành nghề được xuất khẩu ra thị trường quốc tế, trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu 21% sản lượng. Mối quan hệ giữa các DNV&N khu vực nông thôn với khách hàng dường như ít mật thiết hơn so với hệ thông các DNV&N trong nền kinh tế nói chung. Các doanh nghiệp nông thôn dường như có nhiều khách hàng hơn, ít khi sản phẩm theo đơn đặt hàng trước và hiếm có các hợp đồng phụ. Sự khác nhau giữa các DNV&N khu vực nông thôn với các DNV&N ở chỗ các DNV&N khu vực nông thôn có mối quan hệ không được chặt chẽ với khu vực nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chỉ cung ứng dưới 10% đầu vào cho doanh nghiệp nông thôn và mua sản phẩm với tỷ lệ ít hơn 10%. 2.2.3. Trình độ công nghệ và năng suất lao động 2.2.3.1. Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị sản xuất Máy móc thiết bị còn lạc hậu, chắp vá, những thay đổi công nghệ diễn ra chậm. Trình độ máy móc thiết bị và công nghệ rất đa dạng ( thủ công, bán cơ khí, tự động) song phần lớn là thủ công và cơ khí ( mặc dù đã giảm từ 64% năm 1991 xuống còn 5,2% năm 2001). Phần lớn trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp kém, lạc hậu từ 3-4 thế hệ, việc đổi mới công nghệ chưa chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường và an toàn lao động, có tới 90% số doanh nghiệp công nghiệp có thiết bị xử lý chất thải, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước, môi trường do nước thải, chất thải đã đến mức báo động. Mặt bằng sản xuất – kinh doanh thiếu, không phù hợp đang là cản trở trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Việc thiết mặt bằng không chỉ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh mà còn tạo nên tình trạng ô nhiểm môi trường. 2.2.3.2. Năng suất lao động, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp chưa cao Năng suất lao động bình quân của doanh nghiệp tư nhân tăng từ 14triệu đồng/người năm 1990 lên 53triệu đồng/người năm 2001; của hộ ngành nghề tăng từ 6triệu đồng /người năm 1990 lên 25triệu đồng/ người năm 2001. Năm 2000, năng suất trung bình của các DNV&N nông thôn chỉ bằng 1/3 năng suất lao động của các doanh nghiệp Nhà nước và 1/6 năng suất lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng doanh thu trung bình của các DNV&N nông thôn đạt trên 860triệu đồng/năm, chưa bằng 2/3 doanh thu của doanh nghiệp thành thị. Trung bình các doanh nghiệp nông thôn đạt giá trị tăng thêm bình quân 1 năm là 216triệu đồng ( bằng 50% các doanh nghiệp thành thị ), có tới một nửa số doanh nghiệp nông thôn được khảo sát không đạt được mức 115 triệu đồng. 2.2.4. Các hình thức tổ chức và trình độ quản lý 2.2.4.1. Đa dạng về sở hữu, hình thức tổ chức và ngành nghề kinh doanh Các DNV&N nông thôn có mặt ở tất cả các loại hình doanh nghiệp và mọi hình thức sở hữu khác nhau, tuy nhiên tập trung nhiều nhất ở khu vực kinh tế tư nhân hay hộ ngành nghề. Lĩnh vực hoạt động của các DNV&N nông thôn rất đa dạng và phong phú, song tập trung chủ yếu ở các ngành công nghiệp chế biến và có xu hướng ngày càng gia tăng. Tỷ trọng các DNV&N hoạt động trong lỉnh vực chế biến tăng từ 93% năm 1995 lên 95,4% năm 2000. Xu hướng phát triển các DNV&N là chỉ tập trung vào những ngành phục vụ nhu cầu tiêu dùng với thị trường lớn. Năng lực của hầu hết các doanh nghiệp còn yếu, phát triển chậm chưa đáp ứng yêu cầu chế biến nông sản. 2.2.4.2. Trình độ quản lý của chủ dn và trình độ tay nghề của người lao động thấp Trình độ văn hoá của lao động trong các DNV&N Việt Nam còn thấp, gần 65% chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Lực lượng lao động ít được đào tạo nghề chính quy mà chủ yếu được truyền nghề trong quá trình làm việc. Trong các doanh nghiệp tư nhân lao động có trình độ nghệ nhân chỉ có 0,06%, trình độ trung cấp 9,8% và qua đào tạo nghề 55%. Trong các hộ ngành nghề tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân. Trong các doanh nghiệp tư nhân, tỷ lệ chủ doanh nghiệp có trình độ tốt nghiệp đại học, cao đẳng là 13%, tố nghiệp trung học chuyên nghiệp và dạy nghề là 38% và 52% chưa qua đào tạo. Theo kết quả điều tra, có khoảng 78% chủ doanh nghiệp có kinh nghiệm sản xuất các sản phẩm tương tự, 34% chủ doanh nghiệp dựa vào yếu tố truyền thống để thành lập doanh nghiệp. 2.2.5. Phát triển không đồng đều giữa các vùng nông thôn Mặc dù số lượng các DNV&N nhiều song quy mô lại nhỏ và phân tán trên diện rộng, phát triển không đồng đều giữa các vùng và ngay trong một vùng. Phần lớn các DNV&N mới chỉ tập trung ở những địa phương có nghề truyền thống như Bắc Ninh và Hà Tây, các vùng ven đô, đầu mối giao thông và một số vùng nguyên liệu. 2.3. Một số ưu điểm, nhược điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.3.1.Ưu điểm Do quy mô nhỏ nên các DNV&N rất cơ động, linh hoạt, dể chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Những ưu thế nổi bật của các doanh nghiệp này là: + Dể thành lập doanh nghiệp vì đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản. + Nhạy cảm với những thay đổi của thị trường. + Sẳn sàng đầu tư vào các lỉnh vực mới, lỉnh vực có mức độ rủi ro cao. + Dể dàng đổi mới trang thiết bị, máy móc, đổi mới công nghệ. + Có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng tốt ngay cả khi điều kiện sản xuất, kinh doanh có nhiều hạn chế. 2.3.2. Hạn chế Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên củng có nhiều bất lợi, hạn chế: +Khó khăn trong đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường. + Có nhiều hạn chế về đào tạo công nhân và chủ dn đầu tư cho nghiên cứu, phát triển... do đó khó nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. + Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị. + Khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với các đối tác nước ngoài... Ngoài ra, do nền kinh tế nước ta còn phát triển, đặc biệt là giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, do trình độ quản lý nhà nước còn hạn chế, nên các dn còn bộc lộ những khiếm khuyết của nó trong hợt động sản xuất - kinh doanh, như: + Trốn thuế + Một số doanh nghiệp còn không đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng như đăng ký + Chất lượng sản phẩm kém + Hoạt động của các dn phân tán khó quản lý Chương 3 Một số định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. 3.1. Một số định hướng phát triển DNV&N ở nông thôn Để phát huy lợi thế của DNV&N trong tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 trên địa bàn nông thôn một cách vững chắc, có hiệu quả cần chú trọng một số định hướng sau: - Phát triển DNV&N là một nội cung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước trong quá trình CNH, HĐH nông thôn. Phát triển DNV&N không chỉ góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế như tạo ra sản phẩm cho xã hội, tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, huy động nguồn lưc trong dân đầu tư phát triển sản xuất mà còn có vai trò to lớn để thực hiện mục tiêu xã hội như tạo nên việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, góp phần tạo sự phát triển bền vững ở nông thôn. 3.1.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trên cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn DNV&N phát triển sẽ làm tăng thêm nhu cầu sử dụng nguyên liệu từ nông nghiệp, khuyến khích hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, hình thành các mô hình sản xuất liên hoàn từ gieo giống, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch và chế biến. Và ngược lại, sự hình thành và phát triển với tốc độ nhanh các trang trại, các vùng nguyên liệu tập trung ở một số địa phương đã thúc đẩy sự hình thành và các doanh nghiệp chế biến với quy mô vừa và nhỏ. Như vậy, giữa các doanh nghiệp công nghiệp chế biến với các trang trại, các vùng nguyên liệu hình thành các mối quan hệ thúc đẩy và hỗ trợ nhau phát triển. Phát triển DNV&N ở nông thôn, đặc biệt là hộ ngành nghề phù hợp với điệu kiện và tiềm năng của từng địa phương được coi là con đường cơ bản để giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông nghiệp, chuyển sản xuất tự cấp tự túc ở nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập. Phát triển DNV&N nông thôn cũng chính là quá trình đô thị hoá nông thôn, phát triển các thị trấn, thị tứ, phát triển thị trường nông thôn, hạn chế dòng di chuyển tự do lao động nông thôn vào các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung. 3.1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với lợi thế và tiềm năng của từng vùng Phát triển DNV&N nông thôn trước hết phải tập trung vào các ngành có nhiều tiềm năng, có lợi thế so sánh nhằm thu hút nhiều và nhanh lực lượng lao động từ nông nghiệp chuyển sang. Những tiềm năng và lợi thế so sánh đó là: Nguyên vật liệu tại chỗ, nghề truyền thống và nghề mới, lao động dồi dào và giá nhân công hạ, thị trường tiêu thụ tiềm năng lớn và yêu cầu không cao. Mỗi địa phương theo đặc điểm của mình, trong từng thời kỳ nhất định cần đề ra mục tiêu, giải pháp thích hợp. Phát triển DNV&N nông thôn phải gắn liền với những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế – xã hội và cơ sở hạ tầng của địa phương và không chỉ nhằm mục tiêu duy nhất về kinh tế, xã hội mà còn góp phần bảo tồn và duy trì những di sản văn hóa truyền thống của địa phương. 3.1.3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành lựa chọn Trước hết, cần ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường các ngành công nghiệp chế biến nông – lâm – thuỷ hải sản sau thu hoạch, chế biến lương thực thực phẩm và một số ngành thích hợp với điều kiện phân tán ở nông thôn, gắn với nguồn tài nguyên tự nhiên, sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động tại chỗ nhưng không đòi hỏi trình độ tay nghề cao như các ngành bảo quản, dệt may, thủ công mỹ nghệ, sản xuất vật liệu xây dựng, lắp ráp máy móc ...; đồng thời phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp phục vụ cho nông nghiệp như sản xuất vật tư, thiết bị máy móc phục vụ nông nghiệp, thiết bị và nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, chế tạo và sửa chữa phục vụ nhu cầu tại chỗ như gia công cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa điện dân dụng. 3.1.4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được khuyến khích phát triển trong một số ngành mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia Trước hết cần phát triển có chọn lọc các doanh nghiệp thuộc một số ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp: công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí sửa chữa, xây dựng nông thôn... Đặc biệt chú trọng công nghiệp chế biến nông lâm hải sản bởi lẽ đây là ngành có quan hệ trực tiếp và có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Gắn việc chế biến với sản xuất nguyên vật liệu, gắn sơ chế ở nông thôn với tinh chế ở thành thị, đa dạng hoá ngành nghề và sản phẩm chế biến. Đưa công nghiệp chế biến nông lâm hải sản từ chỗ sơ chế là chủ yếu tiến lên tinh chế là chủ yếu và từng bước thực hiện tổng hợp sử dụng nguyên vật liệu, áp dụng công nghệ chế biến hiện đại phù hợp với quy mô nhỏ và vừa của các doanh nghiệp. 3.1.5. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau, với doanh nghiệp lớn và với thành thị Các doanh nghiệp đều coi những doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh của mình trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu cũng như trong tiêu thụ sản phẩm. Chính sự thiếu tin cậy giữa các doanh nghiệp bị hạn chế khả năng phát triển chuyên sâu của doanh nghiệp, hạn chế cơ hội để doanh nghiệp đổi mới và phát triển. Để khắc phục tình trạng này các doanh nghiệp cần phải coi hợp tác, phối hợp và hoặc chuyển giao lợi thế giữa các doanh nghiệp có liên quan và sự hỗ trợ lẫn nhau sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh; coi đây như một cơ chế giúp cho việc nâng cấp và cải thiện sự phát triển của chính doanh nghiệp. Sự liên kết giữa DNV&N với doanh nghiệp với doanh nghiệp lớn được thực hiện thông qua việc hình thành sự phân công theo chuyên môn hoá giữa doanh nghiệp lớn với DNV&N, DNV&N vừa có chức năng cung cấp đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn; doanh nghiệp lớn hỗ trợ DNV&N trong hoạt động đào tạo, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ ...; giao thầu lại cho DNV&N một số phần việc, biến các DNV&N thành những vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu góp phần làm tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu của các DNV&N. Mối quan hệ giữa DNV&N nông thôn với thị trường tiêu thụ khu vực thành thị ngày càng phát triển. Một mặt, do các doanh nghiệp liên tục tiến hành đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng ,cải tiến mẫu mã. 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.2.1. Xây dựng chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển DNV&N nông thôn phải gắn với chiến lược phát triển công nghiệp nông thôn, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương, từng vùng. Chiến lược, quy hoạch phát triển DNV&N phải xác định được mục tiêu, nguyên tắc và địa bàn ưu tiên , khuyến khích các DNV&N phát triển; đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa phát triển doanh nghiệp lớn với DNV&N , giữa doanh nghiệp thành thị với doanh nghiệp nông thôn, xác định bước đi phù hợp theo thời gian và với đặc thù của từng địa phương. Việc quy hoạch phát triển DNV&N phải thực hiện đồng bộ với việc quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, các trang trại nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối giữa khả năng cung cấp ổn định nguyên liệu cả về số lượng và chất lượng với năng lực chế biến của các doanh nghiệp và ngược lại. Quy hoạch phát triển DNV&N phải gắn với việc bảo vệ môi trường, gắn vấn đề môi trường với chính sách khuyến khích phát triển sản xuất. Quy hoạch phát triển các cụm, khu công nghiệp tập trung, đa nghề cho các DNV&N góp phần thực hiện phi tập trung hoá công nghiệp, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất, tăng thu nhập và cơ hội việc làm cho mọi tầng lớp dân cư; thực hiện quá trình đô thị hoá một cách phân tán, khắc phục tình trạng tập trung dân về các thành phố lớn; tạo điều kiện để huy động và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn trong và ngoài nước để phát triển các vùng nông thôn. Phát triển DNV&N ở nông thôn theo chiến lược và quy hoạch sẽ giúp cho việc đẩy nhanh tiến độ phát triển doanh nghiệp ở những vùng có ngành nghề truyền thống, khuyến khích hình thành những cụm công nghiệp, khắc phục được tình trạng phát triển tự phát và tình trạng ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp gây ra..., hướng dẫn phát triển DN phù hợp với đặc khu và yêu cầu từng vùng. 3.2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng Để phát triển doanh nghiệp cần làm cho các vùng nông thôn, các thị trấn trở nên hấp dẫn hơn đối với người dân và đối với doanh nghiệp. Cụ thể là phải khẩn trương tiến hành cải thiện cơ sở hạ tầng, làm cho đường sá tốt hơn, thuận lợi hơn, cung cấp điện nước và hệ thống thông tin liên lạc thuận tiện và đầy đủ hơn với giá thành hợp lý. Cải thiện cơ sở hạ tầng ở nông thôn vừa tạo cơ hội phát triển mới cho doanh nghiệp, vừa tăng khả năng khả năng tiếp cận của doanh nghiệp đến các thị trường, tạo thuận lợi cho sự liên kết giữa nông thôn và thành thị, dẫn đến chuyên môn hoá lao động, thúc đẩy thương mại, giảm chi phí tiếp thị, phát triển hệ thông phân phối , hình thức hợp đồng phụ, kết nối hoạt động nông nghiệp với công nghiệp, nông thôn với thành thị. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hợp lý sẽ tăng tính liên kết và tạo sự phát triển lan toả. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ có tác động rộng và nhanh đối với DNV&N cả trong thời gian trước mắt và lâu dài. Nhưng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi chi phí lớn, chậm thu hồi vốn, ít sinh lãi và thường vượt quá khả năng đầu tư của tư nhân. Do đó, rất cần sự hỗ trợ của nhà nước. Trong các yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng ở nông thôn thì điện và giao thông cần được ưu tiên trước hết. Việc phát triển cơ sở hạ tầng sẽ được thực hiện theo phương thức xã hội hoá. 3.2.3. Hoàn thiện một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích DNV&N Để hỗ trợ các DNV&N phát triển và có được “sân chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trước hết phải tập trung hoàn thiện và sửa đổi chính sách thuộc một số lĩnh vực chủ yếu sau: 3.2.3.1 Hoàn thiện chính sách đất Việc sử dụng đất vào mục tiêu phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn còn nhiều vướng mắc và đang là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp khi muốn mở rộng mặt bằng sản xuất kinh doanh. Vì thế, cần thiết phải sửa đổi và nới lỏng dần các quy định hạn chế việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục đích khác. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao việc sử dụng đất, khuyến khích việc sử dụng đất có hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn. Đẩy mạnh việc hoàn tất các thủ tục đăng ký, kéo dài thời gian quyền sử dụng đất nhằm tăng khả năng dùng quyền sử dụng đất làm thế chấp. Cho phép các doanh nghiệp tư nhân dùng quyền sử dụng đất góp vốn cổ phần vào các liên doanh với nước ngoài. Đồng thời cũng cần thống nhất, hợp lý hoá việc đăng ký đối với đất đai và các công trình xây dựng; làm rõ các thủ tục cấp quyền sử dụng đất... Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng cơ sở hạ tầng để cho thuê mặt bằng nhà xưởng với giá ưu đãi. 3.2.3.2. Hoàn thiên chính sách tài chính, tín dụng Tình trạng khó khăn về tài chính của các DNV&N là vấn đề phổ biến. Để khuyến khích tích tụ vốn nhanh cần thiết phải áp dụng chính sách miễn giảm thuế theo sản phẩm và theo địa bàn hoạt động. Khuyến khích các ngân hàng cho các DNV&N vay vốn trong tổng dư tín dụng của ngân hàng với mức lãi suất ưu đãi, tạo chủ động cho các ngân hàng trong việc thay đổi hạn ngạch tín dụng. Sửa đổi, ban hành các văn bản và những quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại, tạo điều kiện cho người vay bắt buộc thực hiện cầm cố và thế chấp bằng cách: mở rộng phạm vi tài sản có giá trị để thế chấp, quy định rõ ràng về cầm cố và thế chấp tài sản có được trong tương lai; tạo ra tính mềm dẻo và an toàn cho người vay và người đi vay bằng việc cho phép sử dụng tài sản cầm cố và thế chấp để đảm bảo các nghĩa vụ hiện tại và tương lai; quy định quyền hạn của các ngân hàng và những nhà cho vay có bảo đảm khác trong việc phát mại các tài sản cầm cố và thế chấp. Giảm bớt phiền hà cho doanh nghiệp trong việc vay vốn; giảm bớt thủ tục, mở rộng mang lưới cho vay và hình thưc huy động. Sớm đưa quỹ hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng cho DNV&N đi vào hoạt động. Đây được coi là công cụ chính sách quan trọng và cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của DNV&N. Cần khắc phục phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mà chủ yếu là DNV&N trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức từ ngân hàng thương mại. Tạo sự bình đẳng để các doanh nghiệp, trong đó có DNV&N tuân thủ những thể lệ tín dụng như nhau và được hưỡng những ưu đãi và thuận lợi tín dụng như nhau của nhà nước 3.2.3.3. Chính sách thuế Các DNV&N được hưỡng các ưu đãi về thuế khi mới thành lập theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi 1998), không có sự phân biệt thành phần kinh tế. Trong đó các DNV&N có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư được miễn, giãm tiền sử dụng đất từ 50 – 100%; miễn, giảm tiền thuê đất từ 3 năm đến suốt thời gian thực hiện dự án; miễn, giảm thuế sử dụng đất từ 50 -100% trong suốt thời gian thực hiện dự án. Về thuế thu nhập doanh nghiệp các DNV&N có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn ưu đãi được hưỡng thuế suốt ưu đãi từ 15 -25%; thời hạn miễn thuế thu nhập từ 2 -4 năm và giảm 50% số thuế trong thời hạn từ 2 – 9 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế. Ngoài ra, theo luật khuyến khích đầu tư trong nước, các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh hang xuất khẩu còn được hưởng thêm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp với mức giảm từ 20 – 50% hoặc miễn toàn bộ số thuế thu nhập phải nộp theo quy định từng trường hợp. Về thuế xuất nhập khẩu các DNV&N có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn ưu đãi cũng được miễn thuế đối với nhập khẩu máy móc, thiết bị tạo thành TSCĐ mà trong nước chưa sản xuất được. Bên cạnh đó, các DNV&N cũng được phép dành một phần vốn để đầu tư phát triển khoa học công nghệ và được hoạch toán vào giá thành sản phẩm; được lập quỹ phát triển khoa học công nghệ, nguồn vốn của quỹ này được hình thành từ lợi nhuận trước thuế và các nguồn khác nếu có; được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật đối với các hoạt động khoa học công nghệ như: thực hiện các hợp đồng NCKH, các sản phẩm đang sản xuất thử nghiệm sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu, các hoạt động tư vấn chuyển giao khoa học công nghệ, các hoạt động dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ... 3.2.3.4. Chính sách thị trường và cạnh tranh Đối với DNV&N thị trường nội địa chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên các chính sách về phát triển thị trường nội địa mới chỉ tập trung vào các biện pháp hành chính như ngăn chặn nạn buôn lậu và gian lận thương mại. Nhà nước cần sớm có biện pháp bảo đảm thị trường thông qua một chính sách chung nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, tránh hiện tượng độc quyền. Cần có sự hỗ trợ thích đáng cho việc giới thiệu quảng cáo, tiếp thị sản phẩm tại các hội chợ qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tạo điều kiện để các DNV&N tham gia đấu thầu thực hiện các dự án của nhà nước bằng cách làm rõ các điều kiện tham gia đấu thầu, công khai hoá các thông tin về kế hoạch xây dựng cơ bản, kế hoạch mua sắm trang thiết bị... đồng thời cũng cần xem xét việc hình thành các chính sách khuyến khích giữa các doanh nghiệp lớn với các DNV&N. Các doanh nghiệp lớn không chỉ đơn thuần hợp tác kinh tế với các DNV&N mà còn hỗ trợ cho DNV&N thông qua việc ký kết các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, gia công, phân phối sản phẩm... Mối quan hệ kinh tế bằng hình thức này có tác dụng bảo đảm thị trường, công ăn việc làm cho doanh nghiệp và người lao động, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện việc chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý... Trong xuất nhập khẩu cần thiết phải có những chính sách phù hợp nhằm tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của các cơ quan, tổ chức làm công tác thị trường ở ngoài. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường. Tổ chức tốt hoạt động thu nhập và phổ biến thông tin thương mại cho các doanh nghiệp. Tổ chức các cuộc hội thảo, thông tin chuyên đề liên quan đến hoạt động thương mại của doanh nghiệp. Thực hiện việc miễn, giảm thuế xuất khẩu đối với từng nguồn hàng, cơ cấu hàng, các loại hàng mới hoăc đang thâm nhập thị trường mới, đặc biệt đối với nguồn hàng sử dụng nhiều lao động trong nước. Hoàn thiện và đơn giản hoá các thủ tục hải quan. Điều chỉnh linh hoạt tỷ giá hối đoái và tạo điều kiện để các DNV&N tiếp cận với thị trường ngoại tệ, với quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu. Sớm hình thành quỹ tín dụng xuất nhập khẩu 3.2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nhân lực Để cải thiện chất lượng lao động nông thôn cung câp cho các ngành kinh tế quốc dân nói chung cung cấp cho các DNV&N noi riêng cần mở rộng qui mô và đẩy nhanh tốc độ phát triển hệ thống dạy nghề ở nông thôn. Cần tổ chức các mô hình, phương thức đào tạo thich hợp với trình độ và điều kiện của lao động nông thôn. Đối với lao động chưa có nghề có thể kết hợp vừa đạo tạo theo kiểu truyền nghề, vừa đào tạo tập trung tại cơ sở dạy nghề. Đối với lao động đã biết nghề, đặc biệt là nghệ nhân, thợ giỏi cần phải được đào tạo bổ sung về trình độ thẩm mỹ và kiên thức xã hội. Việc kiện toàn hệ thống các trường, các cơ sở dạy nghề phải đi đôi với việc ban hành các chính sách hỗ trợ người học, khuyến khích người dạy nghề, tôn vinh nghệ nhân, thợ giỏi...Việc đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nông thôn cần được tổ chức đa dạng linh hoạt tạo điều kiện để người học được tự do lựa chọn cơ sở đào tạo, đẩy mạnh đào tạo hướng nghiệp dựa trên nhu cầu thực tế. Khuyến khích cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo và thúc đẩy sự phát triển cơ sở đào tạo tư nhân. Đồng thời với việc tổ chức các khoá đào tạo chính quy, tập trung cần nghiên cứu thực hiện các khoá đào tạo di động cho phù hợp với đặc thù lao động nông thôn. Khuyến khích mở các khoá đào tạo ngay tại các làng nghề, các vùng có nhiều doanh nghiệp. Cùng với việc hoàn thiện và phát triển hình thức đào tạo theo kiểu kèm cặp, truyền nghề ngay tại cơ sở sản xuất cần thiết phải hình thành các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp tại các địa bàn nông thôn như thành lập các trung tâm day nghề ngay tại địa phương. Chương trình và nội dung đào tạo phải được biên soạn phù hợp với đặc điểm và trình độ lao động, ngành nghề của từng vùng nông thôn, thậm chí với từng làng nghề. Hệ thống đào tạo nghề phải gắn với sự chỉ đạo của từng địa phương và chỉ phát huy tốt khi các địa phương ủng hộ và tạo điều kiện. 3.2.5. Kiện toàn hệ thống tổ chức, quản lý và hỗ trợ DNV&N Có nhiều cơ quan quy định việc kinh doanh và các hoạt động liên quan của các DNV&N theo những chức năng khác nhau nhưng chưa có cơ quan nào tập trung vào việc phát triển các chính sách, chương trình và phối hợp hoạt động của các bộ, các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương để thúc đẩy và hỗ trợ các DNV&N. Thành lập cơ quan quản lý về mặt nhà nước đối với các DNV&N trong đó có DNV&N ở nông thôn đã được quy định tại nghị định 90/2001/NĐ-CP của chính phủ. Việc nhà nước cho phép thành lập hiệp hội DNV&N ngành nghề nông thôn thể hiện sự quan tâm, nhất quán trong việc khuyến khích phát triển kinh tê nông thôn nói chung, ngành nghề nông thôn noi riêng. Tổ chức này có chức năng phôi hợp hoạt động của các doanh nghiệp giữa các khu vực, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, trao đổi kinh nghiệp, cung cấp thông tin, hỗ trợ nhau vốn công nghệ, tiêu thụ sản phẩm và tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh...Đồng thời còn làm chức năng cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước và mở rộng hợp tác với bên ngoài. Tăng cường và cũng cố các tổ chức hỗ trợ các DNV&N như quỹ khuyến công, quỹ hỗ trợ phát triển DNV&N, quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu từ trung ương đến địa phương đa dạng hoá các hoạt động hỗ trợ của các tổ chức này. Đồng thời với việc hoàn thiện chính sách thành lập và kiện toàn các tổ chức hỗ trợ vừa và nhỏ cần thiết phải tiến hành việc tuyên truyền và giáo dục nhằm thay đổi nhận thức của xã hội nói chung, của các quan chức chính phủ, các nhà lãnh đạo địa phương nói riêng về DNV&N. Đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng bằng cách chuyển từ quản lý điều tiết sang cung cấp các dịch vụ trợ giúp. Kết luận Cùng với việc đóng cho xã hội khối lượng hàng hoá lớn và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, các DNV&N ở khu vực nông thôn còn tạo nên nguồn thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, khai thác các nguồn lực và các tiềm năng tại chổ của các địa phương trên các vùng của đất nước. Đồng thời với việc phát triển các DNV&N đã hình thành nên một đội ngũ các nhà doanh nghiệp năng động, sáng tạo, thúc đẩy sản suất có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, ngày càng gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hổ trợ, bổ sung thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. Với thời gian có hạn, cùng với kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế em mong sự góp ý chân thành của thầy giáo. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam PGS.TS Nguyễn Cúc - NXB chính trị quốc gia 2. Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam GS.TS. Nguyễn Đình Hương - NXB chính trị quốc gia 3. Giáo trình Quản trị Kinh doanh GS.TS Nguyễn Thành Độ - TS. Nguyễn Ngọc Huyền - NXB LĐ - XH 4. Tạp chí kinh tế phát triển Số 11 - 2002 5. Tạp chí lao động xã hội Số 209, 210 - 2003 6. Tạp chí nghiên cứu lý luận Số 1, 1999 7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế Số 297 - 2003 8. Tạp chí phát triển kinh tế Số 133 - 1999, 114 - 2000 9. Tạp chí Tài chính Số 11- 2003 10. Tạp chí Thời báo kinh tế Số 41 - 1999, 67 - 2003 11. Tài liệu khác Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0181.doc
Tài liệu liên quan