Kết luận
Tóm lại, so với BLTTHS 2003 thì
BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi quan trọng
về chứng cứ và chứng minh, giúp cho quá trình
tố tụng được diễn ra nhanh chóng, khách quan
và toàn diện hơn. Trong đó, việc bổ sung một
số nguồn chứng cứ mới là một bước tiến vượt
bậc, phù hợp với tình hình tội phạm trong thực
tiễn và vấn đề hợp tác quốc tế. Tuy nhiên,
những quy định về quá trình chứng minh tội
phạm bao gồm thu thập chứng cứ, kiểm tra và
đánh giá chứng cứ vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế, không rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình
áp dụng. Hơn nữa, yếu tố về lập pháp khi xây
dựng các điều luật vẫn chưa được chú trọng,
dẫn đến thiếu tính logic và tính mạch lạc trong
việc sắp xếp các điều luật. Nhưng nhìn chung
thì BLTTHS 2015 nói chung và những quy định
về chứng cứ và chứng minh nói riêng đã thật
sự bảo vệ tốt quyền con người thông qua
những quy định cụ thể, đáp ứng yêu cầu đề ra
của Hiến pháp 2013 và chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số quy định mới về chứng minh và chứng cứ trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
106
MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI VỀ CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
CN. Nguyễn Thị Ngọc Uyển
Phòng Tổ chức Hành chính, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt
Chứng cứ và chứng minh là một vấn đề
quan trọng, là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự (Sau đây viết tắt là
BLTTHS) năm 2003 những quy định liên quan đến
chứng cứ được quy định ở chương V còn nhiều thiếu
sót, bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của thực
tiễn hiện nay. Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10
Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLTTHS năm 2015
với nhiều điểm mới, trong đó giành riêng Chương VI
quy định về “Chứng minh và chứng cứ”. Trong phạm
vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung trình bày quan
điểm về những điểm tiến bộ trong BLTTHS 2015 về
chế định chứng cứ, chứng minh so với BLTTHS 2003
và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa
Chứng minh, chứng cứ
1. Đặt vấn đề
Chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
bao gồm chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử. Trong đó chế định
về chứng cứ và chứng minh là chế định quan
trọng mà ba chức năng cơ bản kể trên dựa vào
đó để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi quan
trọng về chế định về chứng cứ và chứng minh,
vì thế mà sự đối trọng giữa chức năng buộc tội
và chức năng bào chữa ngày càng được nâng
lên giúp cho nguyên tắc tranh tụng được đảm
bảo; chức năng xét xử cũng nhờ đó mà chính
xác và khách quan hơn tránh bỏ lọt tội phạm
hoặc làm oan người vô tội, đảm bảo tốt quyền
lợi của người bị buộc tội nói riêng và quyền con
người nói chung. Bên cạnh đó, một số quy định
về chứng minh và chứng cứ chưa thực sự rõ
ràng, logic và cần nghiên cứu sửa đổi, khắc
phục trong thời gian tới, cụ thể như sau:
2. Những điểm tiến bộ trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015
2.1. Về tên chương
BLTTHS 2003 đã đặt tên chương là
chứng cứ nhưng phạm vi điều chỉnh của
chương lại bao gồm cả các quy định về chứng
minh trong vụ án hình sự, điều này không đơn
thuần chỉ là sự thiếu xót về mặt lập pháp mà
còn gây khó khăn cho cho các nhà nghiên cứu
khoa học pháp lý cũng như những người muốn
tìm hiểu pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
trong nước cũng như nước ngoài. Để khắc phục
những thiếu xót này nhằm tạo sự thống nhất
về mặt lập pháp cũng như tạo sự thuận lợi
trong việc nghiên cứu pháp luật, BLTTHS 2015
đã đổi tên chương thành “chứng minh và chứng
cứ”. Xét thấy việc thay đổi này là phù hợp.
2.2. Về chứng cứ và nguồn chứng cứ
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
107
Về khái niệm chứng cứ và các thuộc
tính của chứng cứ
Khái niệm này được quy định tại Khoản
1 Điều 64 BLTTHS 2003: “Chứng cứ là những
gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định mà cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để
xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội cũng như
những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án”. Trong BLTTHS 2015 đã
bỏ các chủ thể sử dụng chứng cứ để xác định
sự thật vụ án bao gồm Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án ra khỏi quy định khái niệm
về chứng cứ. Cụ thể Điều 86 BLTTHS 2015 đã
khẳng định: “Chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định, được dùng làm căn cứ để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết
khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
Có thể thấy khái niệm này đã gián tiếp thừa
nhận việc xác định sự thật vụ án hay chứng
minh tội phạm thuộc về trách nhiệm của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do đó
không chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới có
quyền chứng minh tội phạm mà trách nhiệm
chứng minh tội phạm còn thuộc về các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra như các cơ quan của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển, Kiểm ngư, các cơ quan của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là
một điểm tiến bộ, không chỉ tạo sự thống nhất
về mặt lập pháp (Thống nhất các quy định tại
Điều 15, tên chương II, Điều 34, 35 BLTTHS
2015) mà còn mở rộng trách nhiệm chứng
minh vụ án của một số chủ thể khác, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc để các chủ thể được quy
định thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong
việc làm rõ sự thật vụ án.
Để một loại nguồn chứng cứ được xem
là chứng cứ thì nó phải đảm bảo ba thuộc tính
là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp. Nếu BLTTHS 2003 chỉ quy định gián tiếp
ba thuộc tính này thông qua khái niệm chứng
cứ, thì BLTTHS 2015 đã khẳng định lại một lần
nữa tầm quan trọng ba thuộc tính của chứng cứ
thông qua quy định về kiểm tra, đánh giá chứng
cứ. Theo đó, “Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra,
đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và
liên quan đến vụ án”. Quy định này đã tạo cơ sở
pháp lý để hoạt động kiểm tra, đánh giá được
chính xác, khách quan và toàn diện.
Về nguồn chứng cứ: Trước tiên là về
mặt lập pháp, BLTTHS 2015 đã tách quy định
nguồn chứng cứ thành một điều luật riêng
(Điều 87 BLTTHS), như vậy thì chứng cứ và
nguồn chứng cứ đã có sự phân định rõ ràng
về vấn đề khái niệm, không còn gây ra sự
tranh cãi. Thứ hai, BLTTHS 2015 đã bổ sung
vào hệ thống nguồn chứng cứ các loại nguồn
như lời khai của người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú;
lời khai của người chứng kiến; dữ liệu điện
tử; kết luận định giá tài sản; kết quả thực
hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác.
Việc bổ sung các loại nguồn chứng cứ này
cũng đã đồng thời mở rộng khả năng thu thập
chứng cứ của các chủ thể có thẩm quyền,
giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh
chóng, khách quan và toàn diện.
Thứ nhất, BLTTHS 2015 đã bổ sung
thêm lời khai của người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú
trở thành những nguồn chứng cứ. Quy định này
được xem là một điểm tiến bộ vượt bật so với
quy định của BLTTHS 2003 vì không chỉ lời khai
của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo mới được xem là một nguồn chứng cứ mà
lời khai của người sau khi bị tố giác, bị kiến
nghị khởi tố hay sau khi tự thú, đầu thú cũng
được xem là những nguồn chứng cứ. Trên thực
tế việc mâu thuẫn lời khai của người bị buộc tội
trong các giai đoạn tố tụng sau so với chứng cứ
được thu thập theo đúng quy định của pháp
luật thường xuyên xảy ra nên đòi hỏi cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có những
nguồn chứng cứ khác xảy ra ở các giai đoạn
trước để đối chiếu, tìm ra nguyên nhân mâu
thuẫn và xác định đâu là sự thật của vụ án.
Thứ hai, lời khai của người chứng kiến
cũng được xác định là một nguồn chứng cứ,
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
108
đây cũng là một quy định tiến bộ. Theo quy
định tại Điều 176 BLTTHS 2015 thì “Người
chứng kiến được triệu tập để chứng kiến hoạt
động điều tra trong các trường hợp do Bộ luật
này quy định. Người chứng kiến có trách nhiệm
xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành
trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá
nhân. Ý kiến này phải được ghi vào biên bản”.
Như vậy, lời khai của người chứng kiến là vô
cùng quan trọng trong việc xác định có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn
điều tra hay không để từ đó người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có thể ra những quyết
định phù hợp.
Thứ ba, dữ liệu điện tử; kết luận định
giá tài sản; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp
và hợp tác quốc tế khác là những nguồn chứng
cứ hoàn toàn mới, lần đầu được công nhận
trong BLTTHS. Quy định này đã cụ thể hóa các
quy định của Hiến pháp 2013, tháo gỡ những
vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, phù hợp với
sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại
và yêu cầu hội nhập quốc tế. Mặt khác, sự thừa
nhận các nguồn chứng cứ mới này đã hợp pháp
hóa các chứng cứ được rút ra từ những nguồn
trên, những nguồn đã từ lâu tồn tại trên thực
tiễn và thường được đem ra tranh cãi về tính
hợp pháp của nó.
Ngoài những loại nguồn chứng cứ mới
được bổ sung thì Khoản 2 Điều 87 BLTTHS
2015 cũng đã bổ sung quy định về loại trừ
chứng cứ, theo đó: “Những thông tin được thu
thập từ các nguồn chứng cứ nhưng vi phạm
quy định của Bộ luật này thì không có giá trị
pháp lý và không được sử dụng làm căn cứ để
giải quyết vụ án hình sự”. Đây được xem là một
quy định mới, tiến bộ trong việc gián tiếp thể
hiện các yêu cầu của chứng cứ về tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
2.3. Về thu thập chứng cứ
BLTTHS 2015 đã có một bước tiến quan
trọng trong việc cho phép người bào chữa được
quyền thu thập chứng cứ thông qua quyền gặp
người mà mình bào chữa, bị hại, người làm
chứng và những người khác biết về vụ án để
hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên
quan đến vụ án. Trong khi tại BLTTHS 2003,
người bào chữa cũng có quyền gặp những chủ
thể trên nhưng không được quyền thu thập
chứng cứ mà chỉ được quyền thu thập nguồn
chứng cứ là các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan đến việc bào chữa của mình. Hơn nữa,
quyền của người bào chữa còn được nâng lên
khi ngoài việc tự mình được quyền thu thập
chứng cứ thì theo quy định tại điểm k khoản 1
Điều 73 BLTTHS 2015 còn cho phép người bào
chữa được quyền đề nghị cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ.
Đây rõ ràng là những quy định vô cùng tiến bộ,
mở rộng gần như tối đa thẩm quyền thu thập
chứng cứ của người bào chữa, giúp họ có đầy
đủ quyền hạn để thực hiện tốt nhất trách
nhiệm của mình với vai trò là một bên trong
quá trình tranh tụng, góp phần đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử; góp phần nâng cao sự đối
trọng, tạo cơ chế bình đẳng giữa hai chức năng
cơ bản của tố tụng hình sự là chức năng buộc
tội và chức năng bào chữa.
2.4. Về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử
Đứng trước tình hình tội phạm công
nghệ thông tin đang diễn biến phức tạp,
BLTTHS 2015 đã bổ sung “dữ liệu điện tử” là
một nguồn chứng cứ hoàn toàn mới và có
giá trị như các nguồn chứng cứ khác để làm
cơ sở xác định hành vi phạm tội và xử lý tội
phạm. Hơn nữa, quy định này cũng hoàn
toàn phù hợp với các công ước quốc tế của
Hội đồng Châu Âu về tội phạm mạng đã được
ký tại Budapest ngày 23/11/2011 và pháp
luật Việt Nam (BLHS 2015 đã quy định 10
tội phạm từ Điều 285 đến Điều 294 trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông). BLTTHS 2015 đã dành riêng Điều 99
để định nghĩa về dữ liệu điện tử, về các
nguồn chứa dữ liệu điện tử và yêu cầu về giá
trị chứng cứ của dữ liệu điện tử cũng như
Điều 107 để quy định về thu thập phương
tiện điện tử, dữ liệu điện tử.
Về thu thập, thu giữ chứng cứ là dữ liệu
điện tử, BLTTHS 2015 đã đưa thêm dữ liệu điện
tử vào nội dung của hoạt động thu thập chứng
cứ của hai nhóm chủ thể bao gồm cơ quan có
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
109
thẩm quyền tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ
chức hoặc bất cứ cá nhân nào. Theo đó thì
những chủ thể trên có quyền thu thập chứng
cứ là dữ liệu điện tử để phục vụ cho quá trình
chứng minh vụ án. Một điểm hoàn toàn mới
nữa đã được bổ sung vào BLTTHS 2015 là
việc quy định cho người bào chữa quyền được
đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến
việc bào chữa. Quy định này góp phần mở
rộng phạm vi thẩm quyền của người bào
chữa trong việc thu thập chứng cứ, tạo cơ hội
cho họ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị buộc tội, tránh oan sai.
Về bảo quản chứng cứ là dữ liệu điện
tử, BLTTHS 2015 quy định phương tiện điện tử,
dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng.
Căn cứ vào Điều 107 và Điều 196 BLTTHS, hai
điều luật quy định về thu thập và thu giữ
phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. Theo đó
thì khi không thể thu giữ được phương tiện lưu
trữ dữ liệu điện tử thì phải sao lưu vào phương
tiện điện tử và ngược lại, sau đó thì tiến hành
bảo quản như đối với vật chứng. Nghĩa là
phương tiện điện tử, phương tiện lưu trữ dữ liệu
điện tử sau khi được thu giữ phải được niêm
phong theo đúng quy định của pháp luật và
phải đảm bảo tính nguyên vẹn, sau đó đưa về
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cơ
quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản
trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi
hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản trong
giai đoạn xét xử và thi hành án. Còn phương
tiện điện tử, phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử
gốc mà đã không thể đưa về cơ quan tiến hành
tố tụng để bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng giao cho chủ sở hữu, người
quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người
thân thích của họ hoặc chính quyền địa
phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo
quản. Nhìn chung những quy định về việc bảo
quản phương tiện điện tử, phương tiện lưu trữ
dữ liệu điện tử chứa nguồn chứng cứ là dữ liệu
điện tử được quy định khá đầy đủ, tạo cơ sở
pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng ra những
quyết định phù hợp, đồng thời cũng thể hiện
được tính chất quan trọng của hoạt động này
khi đối chiếu với Phụ lục Công ước của Hội đồng
Châu Âu về tội phạm mạng (ngày
23/11/2001).
Về căn cứ khám xét dữ liệu điện tử,
BLTTHS 2015 đã bổ sung những căn cứ để có
thể tiến hành khám xét dữ liệu điện tử. Theo
đó thì khi có căn cứ nhận định trong dữ liệu
điện tử có công cụ, phương tiện phạm tội, tài
liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể tiến
hành khám xét dữ liệu điện tử đó. Bởi trong
nhiều vụ án, để thu được dữ liệu điện tử làm
chứng cứ, phải khám xét cả phương tiện điện
tử, dữ liệu điện tử như máy tính, máy điện
thoại di động, thiết bị lưu dữ liệu điện tử như
đĩa quang, USB, ổ cứng di động, email, tài
khoản quản trị, dữ liệu lưu trên điện toán đám
mây, cơ sở dữ liệu lưu trên máy chủ nước ngoài
(chỉ có thể truy cập từ xa) Vì vậy việc bổ
sung quy định này là cần thiết để có căn cứ
pháp lý thực hiện hoạt động tố tụng trong
những trường hợp trên.
Về khám nghiệm hiện trường, Điều 201
BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm quyền thu giữ
dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ án như là
một thẩm quyền mới của Điều tra viên khi tiến
hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện
tội phạm mà phát hiện các dữ liệu điện tử này
mang dấu vết của tội phạm. Quy định này như
một sự hợp thức hóa việc thu giữ dữ liệu điện
tử khi khám nghiệm hiện trường, giúp cho hoạt
động bảo quản phương tiện điện tử, phương
tiện lưu trữ dữ liệu điện tử sau khi thu giữ được
diễn ra liền mạch theo đúng quy định của pháp
luật, giúp cơ quan có thẩm quyền không phải
lúng túng khi thực hiện nhiệm vụ.
2.5. Về những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự
Ngoài những vấn đề phải chứng minh
đã được quy định trong BLTTHS 2003 thì
BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm hai vấn đề mới
mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
cần phải chứng minh để xác định sự thật vụ án.
Thứ nhất là nguyên nhân và điều kiện phạm
tội, có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan hoặc
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
110
khách quan, khi chứng minh được vấn đề này
sẽ góp phần xác định được khung hình phạt
phù hợp được áp dụng cũng như xác định được
những căn cứ để tăng nặng hay giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo. Thứ hai,
một vấn đề cần phải được chứng minh nữa là
những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt. BLHS 1999 đã có quy định về
các căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt nhưng BLTTHS 2003 lại không quy
định việc chứng minh các căn cứ này để làm cơ
sở cho cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Vì
vậy, để khắc phục những thiếu xót này,
BLTTHS 2015 đã quy định việc chứng minh các
căn cứ này để tạo sự thống nhất trong hệ thống
pháp luật, góp phần nâng cao ý thức của các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
việc chứng minh tội phạm.
3. Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện
- Về khái niệm chứng cứ
Khi quy định khái niệm của chứng cứ,
Điều 86 BLTTHS 2015 đã gián tiếp quy định
đầy đủ ba thuộc tính của chứng cứ là tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Tuy nhiên khi xét về tính hợp pháp, Điều 86
BTTHS chỉ quy định chứng cứ “được thu thập
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”,
trong khi Điều 87 BLTTHS đã khẳng định thêm
chứng cứ được xem là có tính hợp pháp khi
“chứng cứ được thu thập, xác định từ các
nguồn”. Như vậy có thể thấy quy định tại
Điều 86 vẫn chưa bao quát được hết tính hợp
pháp của chứng cứ, thiết nghĩ nên bổ sung vào
khái niệm chứng cứ đặc tính đã được quy định
tại Điều 87, cụ thể: “chứng cứ là những gì có
thật, được thu thập từ nguồn chứng cứ theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.
- Về sự sắp xếp các điều luật
Thứ tự sắp xếp các điều luật trong BLTTHS
2015 có nhiều điểm bất hợp lý, gây khó hiểu
và khó khăn trong quá trình nghiên cứu pháp
luật, thiết nghĩ sau quy định về nguồn chứng
cứ (Điều 87), thu thập chứng cứ (Điều 88) nên
quy định về nội dung của các nguồn chứng cứ
cụ thể theo thứ tự tại các Điều 89, 91, 92, 93,
94, 95, 96, 97, 98, 99, 100, 101, 102, 103,
104. Còn các quy định về bảo quản vật chứng
(Điều 90), thu thập vật chứng (Điều 105), xử
lý vật chứng (Điều 106) nên để ngay sau quy
định cụ thể về nguồn chứng cứ là vật chứng
(Điều 86). Tương tự, quy định về thu thập
phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử nên để sau
quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu
điện tử (Điều 99). Và quy định về kiểm tra,
đánh giá chứng cứ (Điều 108) ở cuối cùng của
chương VI. Nếu quy định theo thứ tự vừa trình
bày thì thiết nghĩ các vấn đề cần tìm hiểu sẽ
liền mạch và logic hơn.
- Các quy định về kiểm tra, đánh giá
chứng cứ BLTTHS 2015 quy định kiểm tra
chứng cứ và đánh giá chứng cứ ở chung một
điều luật, quy định này là không phù hợp bởi
kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ không
đồng nhất với nhau, mỗi hoạt động đều có
những cách thức khác nhau góp phần vào quá
trình xác định sự thật vụ án. Nếu kiểm tra
chứng cứ là xác định thông tin thu thập được
có đáp ứng đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ
không, có phải là chứng cứ trong vụ án hình sự
không? Thì đánh giá chứng cứ được xem là
hoạt động của những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nhằm làm sáng tỏ bản chất của
chứng cứ một cách sâu sắc, chính xác hơn, đầy
đủ so với giai đoạn nghiên cứu, kiểm tra chứng
cứ trước đó, đồng thời xác định những chứng
cứ thu thập được có đảm bảo đủ để giải quyết
vụ án hình sự hay chưa. Vì vậy cần tách quy
định về kiểm tra, đánh giá chứng cứ thành hai
điều luật riêng và quy định riêng về cách thức
kiểm tra và cách thức đánh giá chứng cứ, tạo
cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền có thể
kiểm tra và đánh giá chứng cứ một cách khách
quan và toàn diện.
4. Kết luận
Tóm lại, so với BLTTHS 2003 thì
BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi quan trọng
về chứng cứ và chứng minh, giúp cho quá trình
tố tụng được diễn ra nhanh chóng, khách quan
và toàn diện hơn. Trong đó, việc bổ sung một
số nguồn chứng cứ mới là một bước tiến vượt
bậc, phù hợp với tình hình tội phạm trong thực
tiễn và vấn đề hợp tác quốc tế. Tuy nhiên,
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
111
những quy định về quá trình chứng minh tội
phạm bao gồm thu thập chứng cứ, kiểm tra và
đánh giá chứng cứ vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế, không rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình
áp dụng. Hơn nữa, yếu tố về lập pháp khi xây
dựng các điều luật vẫn chưa được chú trọng,
dẫn đến thiếu tính logic và tính mạch lạc trong
việc sắp xếp các điều luật. Nhưng nhìn chung
thì BLTTHS 2015 nói chung và những quy định
về chứng cứ và chứng minh nói riêng đã thật
sự bảo vệ tốt quyền con người thông qua
những quy định cụ thể, đáp ứng yêu cầu đề ra
của Hiến pháp 2013 và chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Luật Hình sự 2015.
[2] Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003.
[3] Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[4] Công ước của Hội đồng Châu Âu về tội phạm mạng đã được ký tại Budapest ngày 23/11/2011.
[5] Trần Văn Hòa (2015), “Chứng cứ là dữ liệu điện tử và chứng minh trong dự thảo BLTTHS 2015
(sửa đổi)”, Tạp chí Kiểm sát (số 9).
[6] Trần Quang Tiệp (2008), “Chế định chứng cứ trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, NXB Chính
trị quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_quy_dinh_moi_ve_chung_minh_va_chung_cu_trong_bo_luat.pdf