Một số thách thức về lồng ghép giới trong xây dựng luật pháp chính sách trong thời gian qua

Khuyến nghị  Từ thực tiễn công tác LGG trong xây dựng luật pháp chính sách thời gian qua cho thấy cần thiết phải có những giải pháp nhằm tháo gỡ những bất cập, vướng mắc để việc thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp chính sách được thực sự hiệu quả, thúc đẩy bình đẳng giới từ đó góp phần thiết thực bảo đảm công bằng xã hội. Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội trên tinh thần trách nhiện chung vì mục tiêu bình đẳng giới cũng là mục tiêu của bình đẳng xã hội Thông qua các hoạt động tuyên truyền (tập huấn, hội thảo, trao đổi các kiến thức về giới và LGG ) một cách thường xuyên cho các đối tượng xã hội trong đó tập trung chủ yếu vào đội ngũ cán bộ công chức liên quan đến vấn đề phân tích chính sách, soạn thảo văn bản pháp luật, các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật cũng như hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức về giới và năng lực, kỹ năng thực hiện LGG. Từ đó tạo nền tảng giới trong nhận thức của cán bộ cũng như trong các hoạt động chuyên môn.  Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức giới (phân tích giới, LGG ) nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác chuyên gia, phản biện giới  Đẩy mạnh thực hiện các khóa đào tạo chuyên sâu về giới và LGG đối với đội ngũ cán bộ cán bộ làm công tác tham vấn, phản biện khi xây dựng các chính sách pháp luật mà trong đó có liên quan đến bình đẳng giới. Xây dựng cơ chế chính sách thu hút, tạo ra mạng lưới các chuyên gia cao cấp tư vấn về giới tham gia các ý kiến, tham vấn, phản biện trong cả quá trình xây dựng văn bản pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới, tạo điều kiện để Hội LHPNVN thực thi đầy đủ và hiệu quả vai trò phản biện xã hội của mình; nâng cao nhận thức về giới, năng lực, kỹ năng thực hiện LGG. Hoàn thiện pháp luật về LGG trong đó nhấn mạnh việc xây dựng hướng dẫn LGG trong xây dựng luật pháp chính sách. kể cả quy trình xem xét, thông qua luật, bảo đảm các báo cáo thẩm tra Lồng ghép giới được Quốc hội xem xét, thảo luận

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số thách thức về lồng ghép giới trong xây dựng luật pháp chính sách trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 12 MỘT SỐ THÁCH THỨC VỀ LỒNG GHÉP GIỚI TRONG XÂY DỰNG LUẬT PHÁP CHÍNH SÁCH TRONG THỜI GIAN QUA Ths. Nguyễn Khắc Tuấn TT Nghiên cứu Lao động nữ và giới Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng lồng ghép giới (LGG) trong xây dựng luật pháp chính ở nước ta kể từ khi Luật Bình đẳng giới (BĐG) có hiệu lực (2006) trên cơ sở tham khảo một số tài liệu có liên quan và ý kiến của chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, chính sách. Các phân tích cho thấy các qui định chưa thực sự nhất quán, thống nhất giữa Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật (2008) và Luật BĐG (2006) về LGG, cũng như sự chưa rõ ràng, thiếu qui định hướng dẫn về LGG trong quá trình xây dựng/ban hành luật pháp chính sách. Bên cạnh đó, vấn đề giới và công tác LGG chưa được quan tâm và nhìn nhận đúng mức trong thực tiễn từng giai đoạn của quá trình xây dựng luật pháp/chính sách trong thời gian qua. Bài viết cũng đưa ra một số giải pháp khuyến nghị nhằm góp phần cải thiện tình trạng bất cập, hạn chế của việc thực hiện LGG trong quá trình xây dựng Luật pháp/chính sách. Từ khóa: lồng ghép giới, bình đẳng giới Abstract: The paper analyzes the situation of integrating gender issues into the development of legal policies in Vietnam since the Law on Gender equality has taken its effect in 2006, basing on some related literature reviews and experts' comments in the field of law and policies development. The analysis have shown that the regulations have not only been inconsistent between the Law on promulgation of legal documents (2008) and the Law on Gender equality (2006), but also unclear and lacking of guidance on integrating gender issues in the process of developing/promulgating law and policies. Besides, gender issues and its activities have not been receiving the desired amount of attention throughout the different stages of law and policies development over the past years. The paper also provides some recommendations to improve the drawbacks of integrating gender issues in the process of law and policies development. Key words: integration of gender issues, gender equality Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 13 1. Đặt vấn đề Lồng ghép giới (LGG) là một biện pháp mang tính chiến lược nhằm thúc đẩy Bình đẳng giới được cộng đồng quốc tế công nhận chính thức tại Hội nghị thế giới lần thứ 4 của Liên Hiệp Quốc về phụ nữ. Hiện nay LGG là một chiến lược được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu để thúc đẩy bình đẳng giới, LGG bản thân nó không phải là một mục tiêu mà là một chiến lược, một cách tiếp cận, một cách thức để đạt được mục tiêu Bình đẳng giới3. LGG đòi hỏi bảo đảm rằng các triển vọng và quan tâm về giới đối với mục tiêu Bình đẳng giới là trung tâm của tất cả các hoạt động như phát triển chính sách, nghiên cứu, vận động ủng hộ, đối thoại pháp luật, phân bố nguồn lực và lập kế hoạch, thực hiện và giám sát chương trình dự án. Ở Việt nam LGG được hiểu là phương pháp tiếp cận4, hay một biện pháp mang tính chiến lược nhằm đạt được bình đẳng giới trên diện rộng trong xã hội - bằng cách đưa yếu tố giới vào mọi thiết chế cũng như các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Kể từ khi Luật Bình đẳng giới được ban hành (2006), LGG ở nước ta mới thực sự được xem xét thực hiện trong các 3 Tài liệu Hướng dẫn LGG, ILO và Bộ LĐTBXH (2011) 4 Hướng dẫn LGG trong hoạch định và thực thi chính sách , NXBPN (2004) lĩnh vực của đời sống xã hội, và một trong những lĩnh vực tiên phong thực hiện LGG đó là lĩnh vực xây dựng luật pháp chính sách mà cụ thể là công tác xây dựng văn bản qui phạm pháp luật. Thực tiễn, việc thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp những năm qua bên cạnh những mặt đã đạt được, còn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập cần phải xem xét, nghiên cứu hoàn thiện để việc thực hiện LGG ngày càng đạt hiệu quả cao hơn đáp ứng yêu cầu mục tiêu Bình đẳng giới. Theo qui định của pháp luật về Ban hành văn bản qui phạm pháp luật (BHVBQPPL), có thể khái quát qui trình xây dựng văn bản qui phạm pháp luật thường phải được thực hiện theo một số bước (công đoạn) chủ yếu như sau: từ soạn thảo của cơ quan soạn thảo; thẩm định của Bộ Tư pháp; thẩm tra của UB các vấn đề xã hội của quốc hội và trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, chỉnh lý, tiếp thu và thông qua dự án5. Theo qui định của pháp luật về LGG thì việc thực hiện LGG được thực hiện theo những mức độ khác nhau trong tất cả các giai đoạn của qui trình xây dựng văn bản qui phạm pháp luật như vừa nêu. Sau khi Luật bình đẳng giới được ban hành (2006), Hệ thống pháp luật Bình đẳng giới đã từng bước được thiết lập ngày càng hoàn chỉnh, tạo nền tảng pháp lý quan trọng hình thành hệ thống quy 5 Chương III, Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật, (2008) Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 14 phạm pháp luật về LGG để thực hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Trong lĩnh vực xây dựng văn bản pháp luật, pháp luật LGG điều chỉnh một cách khá toàn diện tới nội dung, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm LGG của các chủ thể liên quan. Việc thực hiện các quy định về Lồng ghép giới trong mỗi giai đoạn của qui trình xây dựng luật pháp là có sự khác nhau. Qua thực tiễn LGG nhiều năm thực hiện trong lĩnh vực này cho thấy, việc thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp chính sách nói chung và trong từng giai đoạn nói riêng vẫn chưa được thực sự quan tâm, nhìn nhận một cách thấu đáo theo đúng tinh thần của pháp luật về LGG, cụ thể trên các khía cạnh sau: 2. Qui định của pháp luật về LGG Chưa thực sự nhất quán về các qui định LGG trong các văn bản pháp lý gốc, cụ thể giữa Luật ban hành VBQPPL (2008) và Luật BĐG (2006), Luật ban hành VBQPPL chỉ dành 1 quy phạm duy nhất để qui định thẩm quyền và trách nhiệm thẩm tra LGG trong xây dựng pháp luật của Ủy ban về các vấn đề xã hội (Điều 47 Luật ban hành VBQPPL). Trong khi đó, Nghị định 48/2009/NĐ-CP (ngày 19/5/2009) quy định chi tiết thi hành Luật BĐG về các biện pháp bảo đảm BĐG đã dành riêng Chương III (6 điều) để quy định khá đầy đủ và cụ thể các vấn đề chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện LGG trong tất cả các khâu của quá trình xây dựng luật pháp. Điều này dễ dẫn đến tình trạng vấn đề LGG trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật chỉ được kiểm soát chặt chẽ ở khâu thẩm tra do UB các VĐXH của Quốc hội thực hiện còn các khâu trước thẩm tra vấn đề LGG được coi nhẹ, thiếu sự kiểm tra sát xao, phụ thuộc nhiều vào ý thức, thái độ cũng như hiểu biết LGG của các cơ quan được phân công chịu trách nhiệm tại mỗi khâu. Chưa qui định rõ ràng, cụ thể về cách thức thực hiện LGG. Lý thuyết về LGG có đưa ra chu trình chính sách có trách nhiệm giới bao gồm các bước6 chủ yếu như sau: Xác định vấn đề; thu thập thông tin; xây dựng chính sách; thẩm định chính sách; phê duyệt và ban hành; phân bố nguồn lực; thực hiện chính sách; giám sát; đánh giá .và việc vận dụng, lồng ghép các qui định này ở những mức độ khác nhau vào từng giai đoạn khác nhau trong quá trình xây dựng luật pháp chính sách là những đòi hỏi bắt buộc để bảo đảm việc LGG được thành công. Tuy nhiên, cho đến nay pháp luật về LGG chưa có một hướng dẫn cụ thể nào về cách thức vận dụng các bước LGG vào từng giai đoạn khác nhau của quá trình xây dựng luật pháp chính sách. cụ thể: LGG ở giai đoạn nào nhiều, giai đoạn nào ít, cũng như trong mỗi giai đoạn xây dựng luật pháp khác nhau thì 6 Hướng dẫn LGG trong hoạch định và thực thi chính sách, NXBPN (2004) Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 15 đòi hỏi các nguyên liệu về giới là gì, kỹ năng ra sao tất cả cần phải qui chuẩn bằng một hướng dẫn cụ thể để tránh tình trạng như thực tế trong thời gian qua có rất nhiều bất cập, gây lung túng cho các cơ quan thực hiện ở tất cả các giai đoạn xây dựng luật pháp, ví dụ như: việc lập báo cáo LGG là báo cáo chung hay báo cáo riêng và có đưa chung hay không vào tờ trình dự án xây dựng luật trong hồ sơ trình cấp có thẩm quyền xem xét thuộc các khâu từ soạn thảo, thẩm định đến thẩm tracủa qui trình xây dựng văn bản qui phạm pháp luật. 3. Thực tiễn LGG trong các giai đoạn xây dựng luật pháp, chính sách Theo qui định của pháp luật về LGG, việc tích hợp yêu cầu LGG vào các khâu của quy trình lập pháp đồng nghĩa với việc đòi hỏi về trách nhiệm giới của tất cả các chủ thể liên quan đến quá trình xây dựng pháp luật (XDPL), việc LGG vào quá trình XDPL chỉ thực sự có hiệu quả khi các chủ thể tham gia XDPL có được sự nhận thức thống nhất, đầy đủ, sâu sắc trách nhiệm, thực hiện đúng và đủ thủ tục, trình tự LGG theo các quy định hiện hành. Tuy nhiên, trên thực tế việc bảo đảm thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp chính sách nói chung và trong từng giai đoạn của qui trình xây dựng luật nói riêng vẫn là vấn đề còn rất nhiều hạn chế, điều này được thể hiện trong thực tế có không ít hiện tượng các văn bản được xác định là có vấn đề giới và cần phải thực hiện LGG nhưng đã không được phân tích giới, không xác định vấn đề giới nên không có đánh giá tác động cũng như đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề giới đặt ra trong các giai đoạn xây dựng dự án và thẩm định dự án, xin khái quát như sau:  Giai đoạn soạn thảo luật Từ khi Luật BĐG có hiệu lực đến nay, nhiều cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực chuyên môn mà nội dung văn bản sẽ điều chỉnh để thực hiện việc soạn thảo, chưa thật sự quan tâm đến việc thực hiện các quy định về LGG, chưa thực sự coi vấn đề giới như một nội dung bắt buộc cần được xem xét, lồng ghép trong giai đoạn soạn thảo. Có không ít hiện tượng văn bản được xác định là có vấn đề giới, tuy nhiên trong quá trình soạn thảo cũng không thủ nghiêm túc trình tự, thủ tục LGG (thu thập, phân tích giới, đánh giá vai trò giới) trong giai đoạn soạn thảo. Trong số rất ít hồ sơ các dự án luật, pháp lệnh có báo cáo Lồng ghép giới nhưng thông tin về giới cũng khá nghèo nàn, không được phân tích mổ sẻ một cách nghiêm túc, khách quan theo góc độ giới, hoặc trong tờ trình có nội dung báo cáo Lồng ghép giới song không có đánh giá tác động cũng như không đưa ra được các biện pháp xử lý vấn đề giới; cá biệt có nội dung nhiều văn bản khi trình sang Quốc hội chưa thể hiện sự Lồng ghép Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 16 giới mặc dù trong nội dung văn bản có vấn đề giới7. Thực tế cũng cho thấy, soạn thảo là một trong những giai đoạn quan trọng nhất của quá trình xây dựng luật pháp chính sách (nền tảng ra đời của một luật pháp chính sách), song ngay từ việc xác định đối tượng điều chỉnh của nhiều văn bản được các cơ quan soạn thảo xác định theo cách truyền thống, qui định “trung tính giới” không phân biệt nam, nữ; không chỉ ra được nhu cầu, nguyện vọng và khả năng thực hiện khác nhau của nam và nữ dẫn đến việc không thấy được sự khác biệt giới trong đối tượng điều chỉnh ngay từ khi soạn thảo luật. Điều đó đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết cho vấn đề LGG ngay từ những khâu đầu tiên của quá trình xây dựng luật pháp chính sách.  Giai đoạn thẩm định Bộ tư pháp với vai trò thực hiện thẩm định các dự án luật trong nhiều năm qua cho thấy, việc LGG trong giai đoạn thẩm định văn bản qui phạm pháp luật ngày càng được chú trọng. Theo qui định của pháp luật về LGG, việc thẩm định thực hiện LGG bao gồm nội dung8 chủ yếu sau: Xác định vấn đề giới trong dự án luật; xem xét việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về BĐG trong dự án luật; xem 7 Nguyễn Thùy Anh, Phó chủ nhiệm UBCVĐXH, Quốc hội khóa XIII, (2011) 8 Khoản 3 điều 21 Luật Bình đẳng giới (2006) xét tính khả thi của các biện pháp giải quyết vấn đề về giới được điều chỉnh trong dự án luật và việc tuân thủ quy trình, thủ tục LGG trong xây dựng dự án luật của các cơ quan chủ trì soạn thảo. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc thẩm định về LGG mới chủ yếu tập trung vào việc phát hiện những nội dung thể hiện sự bất bình đẳng giới, xác định vấn đề giới trong dự án luật để từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Các nội dung khác của LGG chưa được chú trọng quan tâm nhiều. Nguyên nhân của tình trạng9 này chủ yếu là: Pháp luật về LGG trong việc xây dựng pháp luật chưa thật cụ thể, gây lúng túng trong quá trình thực hiện. Nhận thức của người làm công tác xây dựng pháp luật về giới chưa đầy đủ, chưa nắm chắc các quy định về LGG trong xây dựng pháp luật, kỹ năng phân tích, lồng ghép giới còn hạn chế. Thiếu nguồn thông tin, thiếu cơ chế phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện, đầu tư chưa tương xứng cho việc thực hiện lồng ghép bình đẳng giới.  Giai đoạn thẩm tra Với việc phân công Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội chịu trách nhiệm trong việc thẩm tra việc LGG trong các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo 7.Kết quả Hội thảo “Tham vấn về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”, Bộ Tư pháp, 7/ 2013. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 17 Nghị quyết10, việc thẩm tra Lồng ghép giới trong các dự án xây dựng luật đã được quan tâm, đẩy mạnh. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn thấp, chỉ tính riêng trong 5 năm từ 2007 – 2012 với vai trò thẩm tra việc lồng ghép giới trong các các văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban Về các vấn đề xã hội chỉ tiến hành thẩm tra lồng ghép giới được khoảng 30% luật tương ứng với 24/80 luật được Quốc hội thông qua hoặc cho ý kiến. Quá trình thẩm tra cho thấy, kết quả thực hiện các quy định về lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật còn hạn chế, còn chưa tuân thủ nghiêm túc các quy trình, thủ tục lồng ghép giới. Điều này cho thấy, không chỉ việc phản biện, tham vấn chính sách pháp luật liên quan đến bình đẳng giới chưa được thực hiện đầy đủ, mà việc lồng ghép giới trong tất cả các khâu của quá trình xây dựng luật chưa thực sự hiệu quả. Trong giai đoạn thẩm tra của quá trình xây dựng luật pháp, có sự tham gia của nhiều Ủy ban của Quốc hội trong đó Ủy ban về các vấn đề xã hội được phân công phụ trách thẩm tra lĩnh vực giới, thẩm tra Lồng ghép giới. Tuy nhiên, mức độ quan tâm của các Ủy ban khác của Quốc hội đối với nội dung này còn hạn chế. Do đó vấn đề Lồng ghép giới còn ít được thể hiện trong các Báo cáo thẩm tra 10 Điều 47 Luật BHVBQPPL (2008) của Ủy ban chủ trì thẩm tra11 (theo quy trình xem xét, thông qua Luật thì chỉ Ủy ban chủ trì thẩm tra đọc báo cáo Thẩm tra trước Quốc hội; quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quy định về trường hợp ý kiến khác nhau giữa Ủy ban chủ trì thẩm tra và Ủy ban tham gia thẩm tra thì Ủy ban tham gia thẩm tra có thể có báo cáo riêng, nhưng trong quy trình lại không có cơ chế trình báo cáo riêng này trước Quốc hội).  Giai đoạn Quốc hội xem xét, thảo luận Qua nhiều kỳ họp Quốc hội cũng như việc xem xét thông qua các dự án Luật đã diễn ra trong nhiều năm qua cho thấy, khía cạnh Bình đẳng giới cũng như LGG trong các dự án luật được đề cập còn khá sơ sài, chủ yếu thông qua phát biểu của một vài đại biểu mà chưa dành được nhiều sự quan tâm, thảo luận, trao đổi của các Đại biểu Quốc hội khác. Thực tế nhiều năm qua cũng cho thấy, nhiều văn bản đã được Quốc hội thông qua đã có sự Lồng ghép giới thì trong nhiều trường hợp, việc Lồng ghép giới còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao. Một số tình trạng có thể nhận thấy trong hoạt động Lồng ghép giới là tình trạng ý thức tầm quan trọng của việc cần thiết bảo đảm Bình đẳng giới là chưa cao. 11 Nguyễn Mạnh Cường, Ủy viên TT UBTP của QH (2012) Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 18 4. Công tác tham vấn và phản biện về lồng ghép giới trong quá trình xây dựng, hoạch định chính sách Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, việc tham vấn, phản biện về LGG trong quá trình xây dựng, hoạch định chính sách vẫn còn khá nhiều bất cập thách thức, chưa được coi trọng đúng với tinh thần pháp luật về LGG. Theo qui định của Luật Bình đẳng giới, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (LHPNVN) là cơ quan có trách nhiệm12 thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2010, sau gần 04 năm Luật Bình đẳng giới được ban hành Hội LHPNVN chưa thực hiện một phản biện chính thức đối với văn bản quy phạm pháp luật nào13. Nguyên nhân của tình trạng này là do Hội LHPNVN chưa nhận được đề nghị chính thức nào từ phía cơ quan soạn văn bản quy phạm pháp luật mời Hội phản biện dự thảo. Cùng với đó, quy trình phản biện, vai trò và trách nhiệm các bên trong việc phản biện dự thảo chính sách chưa có quy định cụ thể, rõ ràng. Ngoài ra, việc lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo luật thông qua mạng trực tuyến chưa khả thi vì chưa bảo đảm chất lượng phản biện, trình độ tham gia phản biện của cán bộ Hội chưa thật đồng đều, bên cạnh đó là thời gian dành 12 Khoản 5, Điều 30 Luật Bình đẳng giới (2006) 13 Hà Thị Thanh Vân, Phó ban chính sách pháp luật, Hội LHPNVN (2011). cho phản biện quá ngắn cũng là những nguyên nhân góp phần khiến quá trình phản biện không được thực thi đầy đủ. Cũng theo đánh giá của nhiều chuyên gia, việc lấy ý kiến, phản biện về lồng ghép giới trong các văn bản chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong giai đoạn đầu quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Hầu hết các dự thảo luật chỉ được lấy ý kiến khi đến các dự thảo cuối, đã hoàn thiện nên việc nghiên cứu, lấy ý kiến tham gia của các chuyên gia về giới, cũng như Hội LHPNVN còn hạn chế. Việc giải trình, tiếp thu các góp ý, các phản biện và xem xét điều chỉnh các quy định nhiều khi chỉ mang tính hình thức mà không được thực hiện thấu đáo. Mặt khác, từ góc độ nguồn nhân lực có chuyên môn về giới và lồng ghép giới, hiện tại chúng ta còn thiếu vắng đội ngũ các chuyên gia có am hiểu sâu về giới, bên cạnh đội ngũ cán bộ hiện cũng chưa đủ “vốn” về lồng ghép giới trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật. Đáng buồn hơn là việc trao đổi, xin ý kiến của các chuyên gia về giới trong quá trình xây dựng pháp luật chưa được các cơ quan chịu trách nhiệm trong mỗi bước trong qui trình xây dựng luật pháp thực hiện một cách đầy đủ và cũng chưa có cơ chế chính sách để lôi kéo sự tham gia của các chuyên gia về giới vào việc phản biện trong quá trình xây dựng văn bản Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 19 pháp luật14. Điều này tất yếu dẫn đến những khiếm khuyết về giới trong các dự án luật khi áp dụng vào thực tiễn. 5. Khuyến nghị  Từ thực tiễn công tác LGG trong xây dựng luật pháp chính sách thời gian qua cho thấy cần thiết phải có những giải pháp nhằm tháo gỡ những bất cập, vướng mắc để việc thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp chính sách được thực sự hiệu quả, thúc đẩy bình đẳng giới từ đó góp phần thiết thực bảo đảm công bằng xã hội. Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội trên tinh thần trách nhiện chung vì mục tiêu bình đẳng giới cũng là mục tiêu của bình đẳng xã hội Thông qua các hoạt động tuyên truyền (tập huấn, hội thảo, trao đổi các kiến thức về giới và LGG ) một cách thường xuyên cho các đối tượng xã hội trong đó tập trung chủ yếu vào đội ngũ cán bộ công chức liên quan đến vấn đề phân tích chính sách, soạn thảo văn bản pháp luật, các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật cũng như hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức về giới và năng lực, kỹ năng thực hiện LGG. Từ đó tạo nền tảng giới trong nhận thức của cán bộ cũng như trong các hoạt động chuyên môn. 14 Lương Phan Cừ, nguyên PCN Ủy ban CVĐXH của QH (2011)  Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức giới (phân tích giới, LGG) nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác chuyên gia, phản biện giới  Đẩy mạnh thực hiện các khóa đào tạo chuyên sâu về giới và LGG đối với đội ngũ cán bộ cán bộ làm công tác tham vấn, phản biện khi xây dựng các chính sách pháp luật mà trong đó có liên quan đến bình đẳng giới. Xây dựng cơ chế chính sách thu hút, tạo ra mạng lưới các chuyên gia cao cấp tư vấn về giới tham gia các ý kiến, tham vấn, phản biện trong cả quá trình xây dựng văn bản pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới, tạo điều kiện để Hội LHPNVN thực thi đầy đủ và hiệu quả vai trò phản biện xã hội của mình; nâng cao nhận thức về giới, năng lực, kỹ năng thực hiện LGG. Hoàn thiện pháp luật về LGG trong đó nhấn mạnh việc xây dựng hướng dẫn LGG trong xây dựng luật pháp chính sách. kể cả quy trình xem xét, thông qua luật, bảo đảm các báo cáo thẩm tra Lồng ghép giới được Quốc hội xem xét, thảo luận  Với sức ép của công tác xây dựng pháp luật hiện nay và những hạn chế của công tác LGG trong XDPL đã trình bày trên đây thì việc thực hiện nhận biết vấn đề giới, phân tích giới, LGG trong giai đoạn các cơ quan soạn thảo xây dựng dự án luật là rất cần thiết. Nếu không có “điểm khởi đầu này” thì việc LGG trong giai đoạn tiếp theo: Thẩm định, thẩm tra sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cần sớm Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 36/Quý III - 2013 20 hoàn thiện pháp luật về LGG (tập trung vào việc sớm ban hành hướng dẫn LGG trong xây dựng pháp luật chính sách), từ đó tạo sự thống nhất, đồng bộ nâng cao chất lượng hoạt động LGG trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hữu quan tham gia xây dựng văn bản luật pháp chính sách. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, thống kê số liệu có tách biệt giới theo các lĩnh vực cụ thể Thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp chính sách là rất cần thiết, nhằm mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới, tuy nhiên hiện nay cơ sở đầu vào để thực hiện LGG là rất hạn chế, các dữ liệu đầu vào trên nhiều lĩnh vực thuộc phạm vi xây dựng luật pháp, chính sách chưa được thống kê chia tách theo giới nên việc phân tích, đánh giá lĩnh vực dưới giác độ giới cũng như mức độ bất bình đẳng giới trong những lĩnh vực cần điều chỉnh gặp nhiều khó khăn, khó xác định rõ ràng mức độ, phạm vi bất bình đẳngtừ đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng giới trong luật pháp chính sách sau khi được xây dựng. Nên việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thu thập, xử lý và thống kê số liệu có tách biệt giới theo các lĩnh vực cụ thể là một tất yếu cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, tạo thói quen thống kê số liệu theo giới góp phần quan trọng là đầu vào cho việc thực hiện LGG trong xây dựng luật pháp chính sách. Tài liệu tham khảo 1.Tài liệu Hướng dẫn LGG, ILO và Bộ LĐTBXH (2011) 2. Hướng dẫn LGG trong hoạch định và thực thi chính sách , NXBPN (2004) 3. Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật, (2008)( sửa đổi bổ sung). 4. “Không để văn bản luật tạo “khe hở“ cho bất bình đẳng giới”, Nguyễn Thùy Anh, Phó chủ nhiệm UBCVĐXH, Quốc hội khóa XIII, (2011). 5. Luật Bình đẳng giới (2006) 6. Nghị định 48/2009/NĐ-CP (ngày 19/5/2009) quy định chi tiết thi hành Luật BĐG. 7. Kết quả Hội thảo “Tham vấn về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”, Bộ Tư pháp, 7/ 2013. 8. Bình luận việc thực hiện quy định của pháp luật về lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật. Nguyễn Mạnh Cường, Ủy viên TT UBTP của QH (2012). 9. Phản biện chính sách pháp luật về bình đẳng giới chưa thực chất. Hà Thị Thanh Vân, Phó ban chính sách pháp luật, Hội LHPNVN (2011) 10. “Thưc tiễn Lồng ghép giới trong xây dựng Văn bản qui pham pháp luật”. Lương Phan Cừ, nguyên PCN Ủy ban CVĐXH của QH (2011)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_thach_thuc_ve_long_ghep_gioi_trong_xay_dung_luat_phap.pdf