Tóm lại, để ứng phó hiệu quả từ tác động của các xu thế lớn trên thế giới
đối với quản lý SHTT nói chung và SHCN nói riêng, cơ quan quản lý về
SHTT cần tiến hành những nghiên cứu phân tích những tác động cụ thể của
các xu thế lớn trên thế giới đối với quản lý SHTT ở Việt Nam; đánh giá
thực trạng của hệ thống SHTT trước các yêu cầu mới về hoạt động SHTT
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ
thống quản lý SHTT nói chung và SHCN nói riêng nhằm khai thác được
những lợi thế mà các xu thế này mang lại, đồng thời ứng phó được các
thách thức mới đặt ra.
Để khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập quyền SHCN ở Việt Nam
cần tiến hành những nghiên cứu phân tích các nguyên nhân tác động, các xu
thế lớn trên thế giới đối với hoạt động này. Từ đó, đề xuất các giải pháp phù
hợp nhằm khắc phục, nâng cao hiệu quả của hoạt động xác lập quyền
SHCN. Các giải pháp nên trên cần thực hiện đồng bộ, trong đó đặc biệt ưu
tiên thực hiện giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; sửa đổi
và ban hành quy chế thẩm định đơn SHCN; đẩy mạnh hoạt động khai thác
về thông tin SHCN./.
14 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64
MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
TRONG XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Khổng Quốc Minh1
Cục Sở hữu trí tuệ
Tóm tắt:
Sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và sở hữu công nghiệp (SHCN) nói riêng là một công cụ
đắc lực để phát triển kinh tế-xã hội. Độc quyền là nội dung mấu chốt của pháp luật bảo hộ
SHCN, nó tạo lợi thế cạnh tranh to lớn, đồng thời khuyến khích thúc đẩy các chủ thể trong
xã hội không ngừng sáng tạo ra các đối tượng SHCN mới để được bảo hộ độc quyền. Tuy
nhiên, thời hạn thẩm định đơn yêu cầu xác lập quyền SHCN ở Việt Nam hiện nay kéo dài,
chất lượng đơn thấp làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Phần
đầu tiên đề cập đến vai trò của xác lập quyền SHCN trong phát triển kinh tế-xã hội. Phần
tiếp theo phân tích và nêu một số tồn tại của hoạt động xác lập quyền SHCN và nguyên
nhân tác động; xu hướng phát triển hoạt động xác lập quyền SHCN trên thế giới. Phần
cuối là một số giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao hoạt động xác lập quyền SHCN ở
Việt Nam. Bài viết này là kết quả nghiên cứu của tác giả thông qua phân tích tài liệu, các
cuộc phỏng vấn sâu các chuyên gia làm việc tại cơ quan chuyên môn, quản lý và doanh
nghiệp. Phạm vi đơn SHCN được đề cập trong bài viết này là đơn nhãn hiệu quốc gia
(NHQG), sáng chế, giải pháp hữu ích (GPHI), kiểu dáng công nghiệp (KDCN).
Từ khóa: Sở hữu trí tuệ; Sở hữu công nghiệp; Xác lập quyền Sở hữu công nghiệp.
Mã số: 18051401
1. Vai trò của xác lập quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh
tế-xã hội
Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, KDCN, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý,
bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh (Điều 4.4, Luật Sở hữu trí tuệ). Theo nghĩa rộng,
quyền SHCN là các quyền hợp pháp đối với sáng chế, KDCN, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật
kinh doanh. Theo nghĩa hẹp, quyền SHCN là một dạng độc quyền được xác
lập thông qua yêu cầu của chủ thể nhất định, được thực hiện bởi Cục Sở
hữu trí tuệ và dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật về SHCN
như các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới hạn quyền SHCN,
1 Liên hệ tác giả: minhtrm.noip@gmail.com
65
thời hạn bảo hộ quyền SHCN, quá trình xác lập này được gọi là xác lập
quyền SHCN.
Xác lập quyền SHCN bao gồm các hoạt động như: tiếp nhận yêu cầu (nhận
đơn SHCN); thẩm định hình thức (TĐHT); công bố trên công báo SHCN;
thẩm định nội dung (TĐND); cấp văn bằng bảo hộ (VBBH); đăng bạ
SHCN; và xử lý các thủ tục khác liên quan đến đơn SHCN, như sửa đổi
đơn, chuyển giao đơn, phản đối đơn, khiếu nại liên quan đến đơn.
Xác lập quyền là một nội dung quản lý nhà nước về SHCN. Việc xác lập
quyền SHCN có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội nói
chung và đặc biệt đối với doanh nghiệp nói riêng, cụ thể:
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho chủ thể quyền trong việc sử dụng, khai
thác, mua bán các đối tượng SHCN đã được bảo hộ, đảm bảo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và công bằng, bảo vệ quyền lợi nhà đầu
tư, nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ, người tiêu dùng.
Thứ hai, tạo lợi thế cạnh tranh cho các chủ thể quyền (nhất là sáng chế),
đồng thời thúc đẩy không ngừng việc tạo lợi thế cạnh tranh mới cho chính
các chủ thể quyền và cho các đối thủ cạnh tranh khác. Độc quyền SHCN
nhằm khuyến khích phát triển kinh tế thông qua thúc đẩy cạnh tranh về
công nghệ và kinh doanh (Kamil Idris, 2003; Hisamitsu Azai, 1999).
Thứ ba, khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo (nhất là sáng chế), thúc
đẩy bản thân chủ thể quyền, các cá nhân, tổ chức liên quan trong xã hội
không ngừng sáng tạo ra các đối tượng SHCN mới để được bảo hộ độc
quyền, qua đó thúc đẩy tạo ra các sản phẩm mới, quy trình mới, ngành công
nghiệp mới có triển vọng về lợi ích kinh tế, điều này hình thành chu trình
sáng tạo SHCN (Shahid Alikhan, 2000). Đối với người nắm giữ quyền
SHCN (nhất là sáng chế), họ tạo ra lợi thế cạnh tranh và luôn chạy đua để
cải tiến sáng chế và tạo ra sáng chế mới, họ thu được lợi nhuận từ sáng chế
ban đầu. Do đó, tồn tại một chu trình từ một sáng chế ban đầu, đến một
sáng chế được cải tiến hoặc sáng chế mới, các sáng chế sau lại là cơ sở cho
sự cải tiến tiếp theo. Đối với đối thủ cạnh tranh, họ sẽ tìm cách tạo ra những
sáng chế mới khác với các yêu cầu bảo hộ sáng chế đã biết của người khác.
Sự cạnh tranh này tạo ra những cách thức mới thường có hiệu quả hơn hoặc
thuận lợi hơn để sản xuất những sản phẩm tương tự hoặc tính năng, công
dụng tương tự (Hisamitsu Azai, 1999).
Thứ tư, thúc đẩy các hoạt động thương mại (nhất là nhãn hiệu), khuyến
khích doanh nghiệp đầu tư vào việc phát triển, cung cấp hàng hóa, dịch vụ
với chất lượng mà người tiêu dùng mong muốn nhằm duy trì hoặc tăng sự
lựa chọn của người tiêu dùng. Doanh nghiệp không ngừng ĐMST nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, tính năng, sự hấp dẫn của hàng hóa để uy
66
tín của sản phẩm, dịch vụ ngày càng tăng cao. Để cạnh tranh, các nhà sản
xuất, cung ứng dịch vụ khác cũng phải đổi mới sáng tạo, tạo ra các hàng
hóa cùng loại, hoặc thay thế với sự thỏa mãn cao hơn cho người tiêu dùng
(Wiliam M Lander & Richard A. Posner, 1988).
Thứ năm, thúc đẩy việc tiêu dùng các sản phẩm tại một vùng địa lý cụ thể
(nhất là chỉ dẫn địa lý), đó là các sản phẩm với những tính năng nhất định
(chất lượng, danh tiếng hoặc những đặc tính khác của sản phẩm) mà chỉ ở
vùng địa lý đó mới có. Do đó, có thể dùng chỉ dẫn địa lý để thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội của vùng miền và quốc gia thông qua việc sử dụng chỉ
dẫn địa lý ở quy mô chiến lược để xúc tiến sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý ra
nước ngoài (Kamil Idris, 2003).
Thứ sáu, phát huy tối ưu lợi thế của quá trình kinh doanh thông qua việc tạo
điều kiện cho chuyển giao công nghệ và thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài; kích thích nghiên cứu và triển khai tại các trường đại học, cơ sở
nghiên cứu; xúc tác cho công nghệ mới, và kinh doanh mới; hỗ trợ cách
thức doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa tích lũy TSTT
và tham gia giao dịch, thương mại hóa trên cơ sở các đối tượng quyền
SHCN đó (Kamil Idris, 2003).
Mặc dù việc xác lập quyền SHCN có vai trò quan trọng như phân tích ở
trên, nhưng nó chỉ được thể hiện tốt nhất khi hoạt động xác lập quyền
SHCN được thực hiện một cách có hiệu quả. Chính vì vậy, hoạt động xác
lập quyền SHCN cần được thường xuyên rà soát, phát hiện những tồn tại và
làm rõ nguyên nhân để đề ra những giải pháp khắc phục; cũng như xác định
những thách thức đặt ra trong bối cảnh mới của hội nhập quốc tế để ứng
phó, là yêu cầu quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về SHCN.
2. Một số tồn tại trong hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở
Việt Nam hiện nay
Năm 2005, Luật SHTT được ban hành và có hiệu lực từ năm 2006, nhờ đó
công tác quản lý SHTT đã được tăng cường. Các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật cũng như việc tổ chức các hoạt động SHTT nói chung, quản lý
SHCN nói riêng từng bước được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy các hoạt
động SHTT, trong đó có công tác xác lập quyền SHCN. Sau 10 năm thi
hành Luật SHTT, cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nhu
cầu về bảo hộ SHCN cũng không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm của đơn NHQG, sáng chế, GPHI và KDCN tương ứng là:
8,02%, 9,31%, 5,49% và 6,61%; Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
của VBBH đối với NHQG, sáng chế, GPHI, KDCN lần lượt là: 9,01%,
8,73%, 7,31%, 12,16% (Bảng 1):
67
Bảng 1. Đối tượng sở hữu công nghiệp giai đoạn 2006-2017
NHQG Sáng chế GPHI KDCN
Số lượng đơn SHCN và VBBH:
- Đơn SHCN 380.645 46.603 3.963 25.166
- VBBH 224.738 12.783 1.101 16.636
Tăng trưởng bình quân hàng năm (%):
- Đơn SHCN 8,02 9,31 5,49 6,61
- VBBH 9,01 8,73 7,31 12,16
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016;và
tổng hợp, tính toán của tác giả
Theo quy định tại Điều 119 Luật SHTT, trong trường hợp không phát sinh
các thủ tục khác liên quan đến đơn, thời hạn có kết quả TĐND lần đầu đối
với nhãn hiệu không quá 09 tháng, kể từ ngày công bố đơn; đối với KDCN
không quá 07 tháng, kể từ ngày công bố đơn; đối với sáng chế, GPHI
không quá 18 tháng, kể từ ngày công bố đơn nếu yêu cầu TĐND được nộp
trước ngày công bố đơn hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu TĐND nếu yêu
cầu đó được nộp sau ngày công bố đơn. Bảng 2 cho thấy, tổng lượng đơn
NHQG, sáng chế, GPHI, KDCN chưa kết thúc TĐND tích lũy hàng năm
(đơn SHCN chưa kết thúc TĐND, bao gồm đơn đang được TĐND dở dang,
đơn đến thời hạn nhưng chưa được TĐND và đơn chưa đến thời hạn
TĐND) tăng lên. Tính đến hết năm 2017, đơn NHQG, sáng chế, GPHI,
KDCN chưa kết thúc TĐND lần lượt là 93.591 - 22.815 - 917 - 2.924 đơn.
Từ so sánh đơn SHCN chưa kết thúc TĐND với đơn SHCN đã kết thúc
TĐND cho thấy với giả định số lượng đơn SHCN đã kết thúc TĐND hàng
năm (sau năm 2017) bằng năm 2017 và các điều kiện khác không thay đổi
thì để TĐND xong các đơn SHCN chưa kết thúc TĐND đối với NHQG cần
3,48 năm, sáng chế cần 6,63 năm, GPHI cần 2,38 năm, KDCN cần 1,11
năm. Nói theo cách khác, đối với đơn SHCN nộp sau năm 2017, thời gian
chờ đợi từ khi đơn SHCN được tiếp nhận cho đến khi đơn SHCN đó được
TĐND đối với NHQG là 3,48 năm, sáng chế là 6,63 năm, GPHI là 2,38
năm, KDCN là 1,11 năm. Thời hạn này có xu hướng kéo dài khi mà số
lượng đơn SHCN được nộp mới hàng năm đang tăng lên. Số lượng đơn
SHCN chưa kết thúc TĐND có xu hướng ngày càng tăng trong nhiều năm,
nếu không làm rõ các nguyên nhân và có giải pháp hữu hiệu, quyết liệt thì
tình trạng này sẽ ngày càng trầm trọng, khó giải quyết.
68
Bảng 2: Tình trạng thẩm định đơn nội dung hàng năm
Năm
Sáng chế GPHI KDCN NHQG
Đơn
đã
kết
thúc
TĐND
Đơn
chưa
kết
thúc
TĐND
Tỷ lệ
đơn
giữa
2 cột
(2)/
(1)
(lần)
Đơn đã
kết
thúc
TĐND
Đơn
chưa
kết
thúc
TĐ
ND
Tỷ lệ
đơn
giữa 2
cột
(5)/(4)
(lần)
Đơn
đã
kết
thúc
TĐND
Đơn
chưa
kết
thúc
TĐND
Tỷ lệ
đơn
giữa 2
cột
(8)/(7)
(lần)
Đơn đã
kết
thúc
TĐND
Đơn
chưa
kết
thúc
TĐND
Tỷ lệ
đơn
giữa 2
cột
(11)/
(10)
(lần)
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12)
Trước
2006
2.337 251 1014 21255
2006 934 3.542 3,79 102 348 3,41 1.581 984 0,62 10.560 41.236 3,90
2007 952 4.946 5,20 132 394 2,98 1.429 1.278 0,89 18.951 47.725 2,52
2008 961 6.786 7,06 121 485 4,01 1.861 1.098 0,59 30.075 46.141 1,53
2009 1.286 8.339 6,48 108 566 5,24 1.467 1.367 0,93 29.368 45.036 1,53
2010 1.295 10.177 7,86 94 664 7,06 1.461 1.488 1,02 23.311 48.825 2,09
2011 1.795 12.088 6,73 157 763 4,86 1.493 1.737 1,16 30.460 46.663 1,53
2012 2.098 14.003 6,67 203 787 3,88 1.544 1.997 1,29 29.363 46.049 1,57
2013 2.495 15.495 6,21 252 777 3,08 1.715 2.317 1,35 26.849 49.155 1,83
2014 2.867 16.860 5,88 224 817 3,65 2.185 2.313 1,06 27.801 53.273 1,92
2015 2.588 19.172 7,41 243 904 3,72 1.620 2.672 1,65 25.561 63.894 2,50
2016 3.209 21.016 6,55 320 988 3,09 2.288 2.986 1,31 26.821 77.140 2,88
2017 3.440 22.815 6,63 385 917 2,38 2.646 2.924 1,11 26.882 93.591 3,48
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016;và
tổng hợp, tính toán của tác giả
Một tồn tại cơ bản khác, đó là tình trạng chất lượng đơn còn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu. Bảng 3 cho thấy chất lượng đơn SHCN, bao gồm cả chất
lượng hình thức đơn2 và chất lượng nội dung đơn3 còn thấp: so với đơn yêu
cầu đăng ký, tỷ lệ đơn có thông báo thiếu sót cao, nhất là đơn KDCN
(50,19%), GPHI (40,83%), sáng chế (42,83%); tỷ lệ đơn dự định từ chối
bảo hộ cũng cao, nhất là đơn sáng chế (67,19%); tỷ lệ văn bằng được cấp
thấp, nhất là đơn sáng chế (27,43%), đơn GPHI (27,78%).
2 Chất lượng hình thức đơn là mức độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu về hình thức đơn theo quy định của pháp luật.
3 Chất lượng nội dung đơn là mức độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu về điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật.
69
Bảng 3. Đánh giá chất lượng đơn SHCN theo tiến trình thẩm định giai đoạn
2006-2017
Đối tượng NHQG
Sáng
chế
GPHI KDCN
A. Tỉ lệ đơn thẩm định hình thức so với đơn yêu cầu đăng ký (%):
- Tỉ lệ đơn bị từ chối về hình thức 1,03 2,64 10,14 4,42
- Tỉ lệ đơn có thông báo thiếu sót 14,84 40,76 40,83 50,19
B. Tỉ lệ đơn thẩm định nội dung đơn so với đơn yêu cầu đăng ký (%):
- Tỉ lệ đơn có quyết định từ chối 16,73 13,11 23,32 13,85
- Tỉ lệ đơn dự định từ chối 23,08 67,19 42,32 22,65
C. Tỉ lệ văn bằng bảo hộ (%):
- So với đơn yêu cầu đăng ký 59,04 27,43 27,78 66,11
- So với đơn đã kết thúc TĐND 73,44 53,44 47,03 78,14
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016; và
tổng hợp, tính toán của tác giả
Để làm rõ nguyên nhân của các tồn tại trên, tác giả đã tiến hành phỏng vấn
sâu, trao đổi với các cán bộ trực tiếp làm việc tại các đơn vị chức năng
thuộc Cục SHTT, các chuyên gia bên ngoài Cục và các doanh nghiệp. Tổng
hợp và phân tích các ý kiến phỏng vấn cho thấy có một số nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
2.1. Nguyên nhân tác động tới việc đơn SHCN chưa kết thúc TĐND tích
lũy hàng năm tăng lên, dẫn đến đơn SHCN không được TĐND đúng thời
hạn
Có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc đơn SHCN chưa kết thúc TĐND tích
lũy hàng năm tăng lên, đó là những nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân
gián tiếp. Dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu:
(i) Quy chế thẩm định đơn SHCN chưa được cập nhật, sửa đổi, bổ sung các
tiêu chuẩn và điều kiện thẩm định để phù hợp với yêu cầu mới của thực
tiễn:
Cục SHTT đã ban hành các quy chế thẩm định đơn SHCN nhằm mục đích
sử dụng nội bộ cho các thẩm định viên (TĐV), như: Quy chế thẩm định đơn
KDCN (ban hành theo Quyết định số 2381/QĐ-SHTT ngày 08/12/2009),
Quy chế thẩm định đơn sáng chế (ban hành theo Quyết định số 487/QĐ-
SHTT ngày 31/03/2010), Quy chế thẩm định đơn nhãn hiệu (ban hành theo
Quyết định số 709/QĐ-SHTT ngày 29/04/2010). Tuy nhiên, các quy chế
này mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn chung về nghiệp vụ thẩm định mà
70
chưa đi sâu vào việc hướng dẫn thẩm định các trường hợp cụ thể hoặc điển
hình hoặc ngoại lệ. Các quy chế này cũng không được cập nhật sửa đổi, bổ
sung các tiêu chuẩn và điều kiện thẩm định đang được áp dụng. Việc quy
chế thẩm định đơn SHCN chưa hoàn thiện đã làm cho các TĐV khó khăn
trong việc áp dụng, vận dụng, đồng thời gây ra sự không thống nhất trong
thẩm định, dẫn đến kéo dài thời gian trong quy trình thẩm định.
(ii) Đối với đơn NHQG, hệ thống phân loại hàng hóa và dịch vụ dùng để
đăng ký nhãn hiệu chưa được hoàn thiện, gây khó khăn và thiếu chuẩn xác
trong TĐHT đơn nhãn hiệu, làm tăng thời gian TĐHT đơn nhãn hiệu. Qua
đó, gián tiếp làm giảm thời gian của TĐV dành cho việc TĐND đơn: Việt
Nam áp dụng và cập nhật hàng năm bảng phân loại quốc tế về hàng hóa,
dịch vụ (phân loại Ni-xơ). Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam chưa xây dựng
bảng phân loại cho hàng hóa, dịch vụ đặc thù tại Việt Nam, nghĩa là chưa
có bảng danh mục hàng hóa, dịch vụ Ni-xơ mở rộng bao gồm danh mục
hàng hóa, dịch vụ theo phân loại Ni-xơ và danh mục theo đặc thù của Việt
Nam. Hệ thống nộp đơn điện tử cũng chưa được hỗ trợ tính năng chiết xuất
danh mục hàng hóa, dịch vụ từ mã tương ứng. Hiện nay, cũng chưa có quy
định nào bắt buộc người nộp đơn phải khai hàng hóa, dịch vụ trùng với mã
đã công bố trong phân loại Ni-xơ. Do đó, khi người nộp đơn đăng ký hàng
hóa, dịch vụ không khai báo theo mã công bố trong phân loại Ni-xơ hoặc
không có trong phân loại Ni-xơ làm cho TĐV mất thời gian thẩm tra trong
quá trình TĐHT đơn, qua đó gián tiếp làm giảm thời gian của TĐV dành
cho việc TĐND đơn NHQG.
(iii) Cơ sở dữ liệu SHCN tăng nhanh theo hàng năm, trong khi khả năng
ứng dụng công nghệ thông tin chưa được cải thiện: cơ sở dữ liệu thông tin
SHCN tăng cơ học một phần do số lượng đơn SHCN tăng, một phần do dữ
liệu thông tin SHCN được cập nhật, bổ sung và chỉnh lý hàng năm, nhất là
bản mô tả sáng chế/GPHI của nước ngoài, ví dụ cùng một câu lệnh tra cứu,
số lượng kết quả hiển thị cũng tăng lên theo thời gian và điều này làm tăng
thời gian để thẩm định một đơn vị đơn. Ngoài ra, đối với nhãn hiệu, việc bổ
sung quá nhiều từ khóa tra cứu không cần thiết cũng làm gây nhiễu cơ sở
dữ liệu, làm tăng số lượng đối chứng cần xem xét, theo đó làm tăng thời
gian để thẩm định một đơn vị đơn nhãn hiệu.
(iv) Hệ thống quản trị đơn SHCN (IPAS) không đáp ứng được yêu cầu hiện
tại; hoạt động xác lập quyền SHCN và thực hiện các thủ tục khác liên quan
chưa được minh bạch, công khai; hệ thống tra cứu dữ liệu SHCN phục vụ
TĐND và chương trình tra cứu còn chậm, chưa thông minh:
Nhiều tiện ích của IPAS còn thiếu, như chưa cập nhật đủ tình trạng đơn,
nhất là các sự vụ liên quan như sửa đổi, chuyển giao, chuyển nhượng, nhiều
công việc thẩm định không được mặc định trên IPAS, tiến trình và kết quả
của các công việc này không được cập nhật vào hệ thống. Các hoạt động
thẩm định còn thực hiện trên hồ sơ giấy, chưa được tin học hóa. Do đó, hiệu
quả của hoạt động xác lập quyền SHCN và thực hiện các thủ tục khác liên
71
quan còn thấp và chưa được minh bạch, công khai.
Hệ thống tra cứu dữ liệu SHCN phục vụ TĐND còn chậm, chương trình tra
cứu như Ez-Search (tra cứu nhãn hiệu), K-Search (tra cứu kiểu dáng), P-
Search (tra cứu sáng chế/GPHI), IPSE@ (tra cứu nhãn hiệu, KDCN, sáng
chế/GPHI) chưa được tích hợp vào một cơ sở dữ liệu thống nhất, chưa có
nhiều tiện ích giúp các TĐV lấy các đối chứng và so sánh các phương án
liên quan. Ví dụ: chương trình tra cứu nhãn hiệu chưa thực hiện được việc
hiển thị ưu tiên đối chứng theo tiêu chí trùng, tương tự với dấu hiệu được
đưa vào tra cứu; chưa nhận diện được dấu hiệu hình được đưa vào tra cứu.
2.2. Nguyên nhân tác động tới chất lượng đơn sở hữu công nghiệp
Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng đơn SHCN thấp, đó là mức
độ hiểu biết về SHCN của người nộp đơn4; và nguyên nhân thiếu các dịch
vụ cung cấp tra cứu, đánh giá đối tượng quyền SHCN phục vụ tạo lập tài
sản trí tuệ và xác lập quyền SHCN, cụ thể:
a) Mức độ hiểu biết về SHCN của người nộp đơn còn rất hạn chế, gây
nhiều thiếu sót:
Mức độ hiểu biết về thủ tục đăng ký và đơn SHCN: Chất lượng hình thức
đơn nhãn hiệu phụ thuộc nhiều về sự am hiểu bảng phân loại hàng hóa, dịch
vụ; Chất lượng của bản mô tả KDCN, sáng chế, GPHI phụ thuộc nhiều vào
sự am hiểu kỹ thuật về chính KDCN, sáng chế, GPHI đó và kỹ năng lập bản
mô tả của người nộp đơn. Nên nếu mức độ hiểu biết về thủ tục đăng ký đơn
SHCN của người nộp đơn thấp dẫn đến phát sinh nhiều thiếu sót làm ảnh
hưởng đến tính hợp lệ của đơn. Ví dụ: (i) Đối với đơn nhãn hiệu, các thiếu
sót thường gặp là ở danh mục hàng hóa, dịch vụ yêu cầu đăng ký. Khi
người lập hồ sơ đơn liệt kê hàng hóa, dịch vụ đăng ký không trùng theo mã
đã công bố sẽ gây khó khăn cho TĐV khi thẩm định danh mục hàng hóa,
dịch vụ; (ii) Đối với đơn KDCN, các thiếu sót thường gặp là ở bản mô tả
KDCN và bộ hình ảnh của kiểu dáng yêu cầu đăng ký; (iii) Đối với đơn
sáng chế, GPHI, các thiếu sót thường xảy ra trong việc mô tả sáng chế,
GPHI, chủ yếu là cách diễn đạt, cách trình bày, mô tả liên quan đến tên
sáng chế, lĩnh vực kỹ thuật được đề cập, tình trạng kỹ thuật, bản chất kỹ
thuật, phương thức thực hiện sáng chế.
Mức độ hiểu biết về điều kiện bảo hộ SHCN, kỹ năng sử dụng mạng thông
tin quốc gia về SHCN, chuyên môn tra cứu đánh giá dữ liệu SHCN thu thập
được cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng nội dung đơn
SHCN. Các thiếu sót thường gặp là: (i) Đối với đơn nhãn hiệu, mẫu nhãn
hiệu đăng ký sử dụng các dấu hiệu không được bảo hộ dưới danh nghĩa
nhãn hiệu, các dấu hiệu không có khả năng phân biệt sẽ không đáp ứng điều
4 Mức độ hiểu biết về SHCN của người nộp đơn là mức độ hiểu biết về: thủ tục đăng ký đơn SHCN; điều kiện
bảo hộ SHCN; khả năng sử dụng mạng thông tin quốc gia về SHCN; khả năng tra cứu, đánh giá dữ liệu SHCN
thu thập được phục vụ cho việc tạo lập tài sản trí tuệ và thủ tục xác lập quyền SHCN.
72
kiện bảo hộ; (ii) Đối với đơn sáng chế, KDCN, GPHI, đối tượng bảo hộ
không có tính mới, không có khả năng áp dụng công nghiệp, không có trình
độ sáng tạo (đối với sáng chế), không có tính sáng tạo (đối với KDCN),
hoặc bị mất tính mới cũng không đáp ứng điều kiện bảo hộ. Như vậy, nếu
người nộp đơn được tiếp cận thuận lợi thông tin về điều kiện bảo hộ SHCN,
có kỹ năng sử dụng mạng thông tin quốc gia về SHCN, có chuyên môn tra
cứu đánh giá dữ liệu SHCN sẽ giảm thiểu được các dấu hiệu không được
bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu, không làm mất tính mới, thu thập được
các đối chứng cần thiết để đánh giá được khả năng trùng lắp, tương tự nhãn
hiệu, KDCN của người khác; đáp ứng được yêu cầu về trình độ sáng tạo,
tính sáng tạo, nhờ đó làm tăng chất lượng nội dung đơn SHCN.
Những thiếu sót trên đây thường rơi vào người nộp đơn không chuyên
nghiệp, thiếu kiến thức về SHCN, thường là những người nộp đơn tự do
(nộp đơn không thông qua đại diện SHCN).
b) Thiếu các dịch vụ cung cấp tra cứu, đánh giá đối tượng SHCN phục vụ
tạo lập tài sản trí tuệ và xác lập quyền SHCN:
Việc tra cứu, đánh giá đối tượng SHCN là một yếu tố rất quan trọng trong
hoạt động ĐMST để hỗ trợ tạo ra TSTT, giúp định hướng nghiên cứu hoặc
đánh giá tình trạng kỹ thuật hiện tại của đối tượng SHCN, hoặc dự báo khả
năng bảo hộ trước khi tiến hành nộp đơn xác lập quyền SHCN. Để có thể
tra cứu, đánh giá đối tượng SHCN với chất lượng cao thì người thực hiện
phải có hiểu biết sâu về SHCN, đó là những chuyên gia, những TĐV có
kinh nghiệm trong hoạt động xác lập quyền SHCN, cũng như các tổ chức
cung cấp dịch vụ tra cứu, đánh giá đối tượng SHCN. Do hiện tại chưa có
dịch vụ tra cứu, đánh giá đối tượng SHCN nên chất lượng nội dung đơn
SHCN còn nhiều hạn chế.
3. Xu hướng phát triển hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp
trên thế giới
Để có thể đề xuất giải pháp khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập
quyền SHCN một cách hữu hiệu, ngoài việc làm rõ những tồn tại và nguyên
nhân trong hoạt động SHCN, cần phân tích được các xu thế quốc tế tác
động đến hoạt động này của Việt Nam.
Với sự phát triển bùng nổ và nhanh chóng của KH&CN, như: Sự ra đời các
hệ thống vật lý trong không gian ảo; mạng lưới internet kết nối vạn vật
(IoT); internet kết nối dịch vụ (IoS); cùng với sự tích hợp của các công
nghệ này và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, và
sinh học đã tạo ra một bước ngoặt lớn cho nhân loại và thế giới đang bước
vào cuộc cách mạng công nghiệp lần tư với những đột phá mới về
KH&CN. Nhiều phát hiện mới được công bố, nhiều sản phẩm mới được ra
đời, dẫn đến xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới như internet kết nối
vạn vật, phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ thần kinh, vệ
73
tinh nano/micro, vật liệu nano, chế tạo đắp dần (in 3D), sinh học tổng hợp,
công nghệ Blockchain. Do đó, các nguyên tắc bảo hộ cho các đối tượng
mới được tạo lập hoặc điều chỉnh và linh hoạt (OECD, 2016; Roland
Berger, 2014; Klaus Schwab, 2016).
Hoạt động xác lập quyền SHCN có xu hướng ngày càng nhanh chóng và
hiệu quả hơn (Lester C. Thurow, 1997). Thủ tục nộp đơn SHCN ngày càng
linh hoạt và ít tốn kém, nhất là ở cấp độ quốc tế (OECD, 2004). Hệ thống
nộp đơn điện tử đang được áp dụng và thay thế hệ thống cũ; xu hướng ứng
dụng mạng lưới internet kết nối vạn vật, internet kết nối dịch vụ trong quản
trị SHCN ngày càng tăng, sử dụng trí tuệ nhân tạo trong tra cứu, thẩm định
đơn SHCN cũng đang được nghiên cứu áp dụng. Đặc biệt, xu hướng hợp
tác giữa các cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia trong việc chia sẻ thông tin kết
quả tra cứu và thẩm định sáng chế nhằm hài hòa hệ thống thẩm định đơn
sáng chế, rút ngắn thời gian và tăng hiệu quả thẩm định (OECD, 2004; The
Patent Cooperation Treaty, 2009, 2010).
Xác lập quyền SHCN ngày càng trở nên toàn cầu hóa với các tiêu chuẩn
thống nhất, với mức độ bảo vệ cao hơn (National Research Council, 1993).
Các nước phát triển tin tưởng rằng họ có lợi ích về mặt kinh tế từ các quyền
SHCN và thông qua các hiệp định thương mại tự do, các nước phát triển
luôn gây sức ép, áp lực cho các nước đang phát triển nhằm tăng cường
quyền SHCN, buộc các nước đang phát triển phải có khả năng xác lập
quyền SHCN cho tất cả các đối tượng SHCN với tiêu chuẩn cao, nhanh
chóng và hiệu quả (Barton, J. H. et all, 2007).
Những phân tích trên đây cho thấy những tác động của các xu thế lớn trên
thế giới đang đặt ra những thách thức mới đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải
có những thích ứng linh hoạt và hiệu quả trong quản lý SHTT nói chung
cũng như SHCN nói riêng.
4. Một số giải pháp khắc phục tồn tại hoạt động xác lập quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam
Từ những phân tích về tồn tại, làm rõ những nguyên nhân và tác động của
các xu thế lớn trên thế giới đến hoạt động SHCN, tác giả đề xuất một số
giải pháp nhằm khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập quyền SHCN
ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến xác lập quyền
SHCN trên nguyên tắc xác lập quyền SHCN theo yêu cầu của xã hội. Do
đó, cần sửa đổi, bổ sung các các tiêu chuẩn bảo hộ mới cho các đối tượng
quyền SHCN đang có; bổ sung các đối tượng mới được xem xét bảo hộ
dưới dạng quyền SHCN (nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi, cách thức sử
dụng nhãn hiệu mới) cùng tiêu chuẩn bảo hộ tương ứng (điều kiện bảo hộ,
nội dung và giới hạn quyền SHCN, thời hạn bảo hộ tương ứng).
74
Thứ hai, sửa đổi và ban hành quy chế thẩm định đơn SHCN: hoàn thiện lại
quy chế thẩm định đơn nhãn hiệu, sáng chế, KDCN, CDĐL theo các tiêu
chuẩn và điều kiện thẩm định đang được áp dụng, sao cho các quy chế này
được sử dụng như một cẩm nang thẩm định, một công cụ đào tạo thiết thực
cho các TĐV, tạo sự thống nhất trong thẩm định và như một tài liệu tham
khảo cho các chuyên gia tư vấn SHCN và các đại diện SHCN. Các quy chế
này không chỉ hướng dẫn chung về nghiệp vụ thẩm định mà còn đi sâu vào
việc hướng dẫn thẩm định các trường hợp cụ thể hoặc điển hình. Các quy
chế này cần được thường xuyên rà soát để cập nhật sửa đổi, bổ sung các
tiêu chuẩn và điều kiện thẩm định, và bổ sung các trường hợp điển hình
mới đang được áp dụng.
Thứ ba, hoàn thiện và ban hành bảng phân loại sản phẩm, dịch vụ dùng để
đăng ký nhãn hiệu: bảng phân loại sản phẩm, dịch vụ này cần được xây
dựng, hoàn thiện theo nguyên tắc lấy bảng phân loại Ni-xơ làm cơ sở và bổ
sung các sản phẩm, dịch vụ đặc thù của Việt Nam. Cục SHTT cần định kì
cập nhật danh mục mới phát sinh và công bố rộng rãi trên hệ thống thông
tin SHCN, đồng thời ban hành quy định về việc sử dụng danh mục sản
phẩm/dịch vụ theo tên/ mã đã được công bố. Đây cũng là cơ sở để việc nộp
đơn điện tử được thuận lợi dựa trên việc mã hóa các danh mục chuẩn đã
công bố (người nộp đơn chỉ việc chọn các mã có sản phẩm, dịch vụ tương
ứng).
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin: một mặt, hỗ trợ hoàn
thiện quy trình thẩm định, rút ngắn thời gian xử lý đơn, tạo điều kiện để xã
hội tiếp cận được thông tin SHTT; đồng thời nâng cao năng lực hội nhập và
hợp tác quốc tế về SHTT. Để ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả cần
chú trọng: phát triển cơ sở dữ liệu SHCN; thiết lập, duy trì, cập nhật mạng
thông tin quốc gia về SHCN; xây dựng công cụ tra cứu SHCN đáp ứng nhu
cầu tra cứu cơ bản của công chúng, đặc biệt phát triển các công cụ tra cứu
chuyên sâu về thông tin SHCN nhằm đáp ứng nhu cầu phức tạp về thẩm
định đơn, nghiên cứu triển khai và khai thác tài sản trí tuệ; Ứng dụng công
nghệ thông tin nhằm quản trị, xây dựng cổng thông tin điện tử về SHCN và
phục vụ thu thập thông tin SHCN. Cục SHTT cần sớm hoàn thiện công cụ
IPAS về phần mềm, phần cứng, quản trị vận hành hệ thống sao cho tất cả
các quá trình xác lập quyền SHCN và liên quan đều được quản lý và thẩm
định mặc định trên hệ thống. Công cụ IPAS mới này cần được phân quyền
theo từng cấp độ quản lý; tiến trình thẩm định phải được truy cập công
khai; phát triển hệ thống quản trị việc nộp đơn điện tử trực tuyến (việc nộp
đơn, thanh toán phí/lệ phí SHCN, trả kết quả và tiếp nhận công văn, tình
trạng đơn SHCN hay tiến trình thẩm định đơn SHCN đều được thực hiện
trực tuyến và công khai). Xây dựng chương trình tra cứu riêng phục vụ việc
thu nhập thông tin SHCN, giúp nâng cao hoạt động thống kê, công bố, cung
cấp các thông tin thống kê SHCN chất lượng.
75
Thứ năm, chủ động tham gia các cơ chế quốc tế về chia sẻ thông tin và
công nhận lẫn nhau: nghiên cứu để tham gia hợp tác quốc tế song phương
và đa phương (khu vực và quốc tế) như: các chương trình chia sẻ kết quả tra
cứu và thẩm định sáng chế như chương trình hợp tác thẩm định đơn sáng
chế Asean (ASPEC), Công cụ tra cứu tập trung của WIPO dành cho sáng
chế (công cụ WIPO CASE), Sáng kiến hợp tác sáng chế “Patent
Prosecution Highway” (PPH), Hệ thống chia sẻ hồ sơ sáng chế toàn cầu
(Global Dossier System). Nghiên cứu khả năng ký kết các thỏa thuận hợp
tác quốc tế về sử dụng và công nhận lẫn nhau kết quả tra cứu và thẩm định
với một số cơ quan sáng chế quốc gia và khu vực.
Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
SHCN: Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về SHCN cần thực hiện
đồng bộ và chủ động ở các địa phương; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan Bộ, ngành khác nhau ở trung ương; năng cao nhận thức của doanh
nghiệp trong việc phát triển và bảo vệ TSTT; ưu tiên việc phổ biến, giáo
dục, pháp luật về SHCN cho nhóm đối tượng là các doanh nghiệp, viện
nghiên cứu, trường đại học. Đồng thời với công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về SHTT, cần đưa kiến thức về SHCN vào chương trình giảng
dạy chính thức trong các trường đại học; khuyến khích thành lập chuyên
ngành đào tạo về SHTT trong các trường đại học công nghệ và kinh tế.
Thứ bảy, phát triển hệ thống hỗ trợ SHCN, nhất là các đại diện SHCN: cần
có chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống hỗ trợ SHCN hiệu quả, nhất là đại
diện SHCN như tăng về số lượng và chất lượng các đại diện SHCN; tăng
cường đào tạo nghiệp vụ đại diện SHCN, quy định kiểm tra nghiệp vụ đại
diện SHCN định kỳ; tổ chức đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho các cá nhân
hành nghề đại diện SHCN. Hệ thống này hoạt động có hiệu quả sẽ giúp cho
các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân thuận lợi trong việc lập hồ sơ đơn
SHCN có chất lượng tốt, đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý.
Thứ tám, đẩy mạnh hoạt động khai thác về thông tin SHCN: để nâng cao
chất lượng nội dung đơn cần thành lập các tổ chức cung cấp dịch vụ tra
cứu, đánh giá thông tin SHCN phục vụ nghiên cứu, đào tạo và triển khai;
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Viện nghiên cứu về SHCN;
tiến tới xã hội hóa dịch vụ thông tin SHCN, đặc biệt là thông tin sáng chế
để đảm bảo khả năng tiếp cận, tra cứu, khai thác nguồn TTSC phục vụ việc
tìm kiếm sáng chế, công nghệ sẵn có để áp dụng trong sản xuất, kinh doanh
và định hướng nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; ưu tiên khai thác
thông tin sáng chế nước ngoài, nhất là các sáng chế/GPHI đang có hiệu lực
bảo hộ nhưng không đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.
Giải quyết dứt điểm tình trạng đơn SHCN chưa kết thúc TĐND tích lũy
hàng năm tăng lên là nhiệm vụ hết sức khó khăn hiện nay, cần được các
cấp lãnh đạo chú trọng, quan tâm và có biện pháp quyết liệt thực hiện.
Ngoài việc thực hiện những giải pháp nêu trên, cần có giải pháp về tổ chức
và nhân lực, cụ thể cần phân tích, cân đối giữa nhu cầu xã hội và năng lực
76
của các đơn vị chức năng, tăng cường chất lượng và số lượng nhân viên
nghiệp vụ cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về xác lập quyền
SHCN. Đồng thời, xây dựng công tác dự báo đơn SHCN và liên quan như:
xây dựng công tác dự báo đơn SHCN và liên quan như sửa đổi đơn, phản
đối đơn, chuyển giao đơn; dự báo đơn SHCN và liên quan, qua đó dự báo
lượng đơn quy đổi và xác định tổng lượng đơn vị lao động tiêu hao cần
thiết; từ đó xác định được số thẩm định viên cần thiết và số thẩm định viên
mới cần đào tạo hàng năm. Trên cơ sở dự báo tổng lượng đơn SHCN quy
đổi, kết hợp với xác định vị trí việc làm, xem xét lại định mức phù hợp cho
từng vị trí, từng chức danh thẩm định và định mức quy đổi theo từng loại
đơn nhằm xác định tối ưu định mức lao động và định mức quy đổi.
Tóm lại, để ứng phó hiệu quả từ tác động của các xu thế lớn trên thế giới
đối với quản lý SHTT nói chung và SHCN nói riêng, cơ quan quản lý về
SHTT cần tiến hành những nghiên cứu phân tích những tác động cụ thể của
các xu thế lớn trên thế giới đối với quản lý SHTT ở Việt Nam; đánh giá
thực trạng của hệ thống SHTT trước các yêu cầu mới về hoạt động SHTT
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ
thống quản lý SHTT nói chung và SHCN nói riêng nhằm khai thác được
những lợi thế mà các xu thế này mang lại, đồng thời ứng phó được các
thách thức mới đặt ra.
Để khắc phục các tồn tại trong hoạt động xác lập quyền SHCN ở Việt Nam
cần tiến hành những nghiên cứu phân tích các nguyên nhân tác động, các xu
thế lớn trên thế giới đối với hoạt động này. Từ đó, đề xuất các giải pháp phù
hợp nhằm khắc phục, nâng cao hiệu quả của hoạt động xác lập quyền
SHCN. Các giải pháp nên trên cần thực hiện đồng bộ, trong đó đặc biệt ưu
tiên thực hiện giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; sửa đổi
và ban hành quy chế thẩm định đơn SHCN; đẩy mạnh hoạt động khai thác
về thông tin SHCN./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
2. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi số 36/2009/QH12 ngày 19/06/2009.
3. WIPO, 2001. Cẩm nang Sở hữu trí tuệ: Chính sách, Pháp luật và Áp dụng, Cục Sở hữu
trí tuệ biên dịch “Intellectual Property Handbook: Policy, Law and Use” và xuất bản.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ, 2017, “Dự thảo Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật
sở hữu trí tuệ”, Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội ngày
19/05/2017, Hồ Chí Minh ngày 23/05/2017.
5. Cục Sở hữu trí tuệ, 2017. Báo cáo thường niên: Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016, Hà Nội.
77
6. Shahid Alikhan, 2000. Lợi ích kinh tế-xã hội của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ ở các
nước đang phát triển, Cục Sở hữu trí tuệ biên dịch “Socio-economic benefits of
intellectual property protection in developing countries” và xuất bản.
7. Kamil Idris, 2003. Sở hữu trí tuệ - Một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế, Cục Sở
hữu trí tuệ biên dịch “Intellectual Property: A Power Tool for Economic Growth” và
xuất bản.
8. Phạm Tuấn Anh, 2011. Quản lý nhà nước về Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
Tiếng Anh
9. OECD, 2004. Patents and innovation: trends and policy challenges, OECD
Publications, Paris, France.
10. OECD, 2016. OECD Science, Technology and Innovation Outlook 2016, OECD
Publishing, Paris, France.
11. National Research Council, 1993. Global Dimensions of Intellectual Property Rights
in Science and Technology, The National Academies Press, Washington, D.C.
12. Lester C. Thurow, 1997. “Needed: a new system of intellectual property rights”,
Harvard Business Review, September-October 1997, 95-103.
13. Wiliam M Lander & Richard A. Posner, 1988. “The economics of Trademark Law”,
The Trademark Reporter No. 78, May-June 1988, pp. 270-271.
14. Hisamitsu Azai, 1999. Intellectual Property Policies for the Twenty-First Century-
The Japanese Experience in Wealth Creation, WIPO publication, WIPO.
15. Barton, J. H., Abbott, F. M., Correa, C. M., Drexl, J., Foray, D. and Marchant, R.,
2007. Views on the Future of the Intellectual Property System, ICTSD Programme on
Intellectual Property Rights and Sustainable Development, International Centre for
Trade and Sustainable Development, Geneva, Switzerland
16. The Patent Cooperation Treaty, 2009. “Pilot of Patent Prosecution Highway Program
to use PCT Work Products”, PCT Newsletter, No. 12/2009, pp. 1.
17. The Patent Cooperation Treaty, 2010. “The Trilateral Offices commence PCT-Patent
Prosecution Highway Pilot”, PCT Newsletter, No. 02/2010, pp. 2.
18. The Patent Cooperation Treaty, 2010. “Factors to be considered when deciding
whether or not to file a demand for international preliminary examination” (Views of
David Reed), Practical Advice, PCT Newsletter, No. 04/2010, pp. 8ff.
19. Convention Establishing the World Intellectual Property Organization,
Access date 11.06.2014.
20. Roland Berger, 2014. Think Act Industry 4.0: The new industrial revolution How
Europe will succeed, Roland Berger Strategy Consultants,
, Access date
04.10.2017.
21. Klaus Schwab, 2016. The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to
respond, The World Economic Forum,
<https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-
means-and-how-to-respond/>, Access date 01.11.2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_ton_tai_va_giai_phap_khac_phuc_trong_xac_lap_quyen_so.pdf