Ngoài những yếu tố đã nêu ở trên, một số yếu tố
không thể loại trừ và đã được các nhà khoa học trong
nước và thế giới quan tâm nghiên cứu và ghi nhận đó
là:
+ Do các cơn bão - gió bão đã cuốn theo rầy môi
giới, mang theo vi-rút, lan truyền bệnh từ những vùng
bị bệnh hoặc bị bệnh nặng tới các vùng khác - có thể
là lân cận, có thể rất xa, thậm chí vượt đại dương
(Otuka et al., 2008; Hoang et al., 2011; Otuka, 2013).
Năm 2009, tại đảo Hải Nam của Trung Quốc, dịch
LSĐ-PN đã bùng phát giữ dội vào vụ Xuân. Đến vụ Hè
thu, Mùa thì tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung của
Việt Nam bệnh xuất hiện và lần đầu tiên bùng phát dịch.
Khi lúa Hè Thu, Mùa xuống giống thì đã có một số cơn
bão vào Việt Nam. Bão có thể là một nguyên nhân liên
quan đến dịch bệnh LSĐ-PN ở Việt Nam năm 2009
(Ngô Vĩnh Viễn và cs., 2011; Hoang et al., 2011).
Năm 2009, lúc ban đầu thì "dường như" khu vực
ven biển bị bệnh trước. Nhưng cũng chỉ do ngẫu
nhiên, thông báo về bệnh đầu tiên do Nghệ An và
mẫu cũng được gửi đi sớm nhất. Tuy nhiên, Chi cục
nằm ở TP. Vinh, gần biển, nên biết trước ở khu vực
này là dễ hiểu và cũng chỉ là ngẫu nhiên.
+ Nguồn bệnh sẵn có (như lập luận ở trên), khi
gặp điều thuận lợi cho rầy môi giới phát triển thì bệnh
được nhân lên về số lượng và có thể bùng phát thành
dịch.
Nhiều chưa chắc đã phải là trước,
Phát hiện muộn không phải là do thời gian ủ bệnh
kéo dài hơn (Hội nghị về bệnh VL&LXL tại Tiền
Giang, tháng 6/2017, Chi cục TT&BVTV Đồng Tháp
đã ghi nhận về vấn đè này) mà là do lúc đầu vụ bệnh có
tỷ lệ quá thấp, thấp tới mức không thấy, hoặc do điều tra
chưa kỹ. cũng có thể là 1 lý do. Năm trước chưa bị thì
chẳng có lý do gì phải điều tra thật kỹ trong năm nay –
tâm lý bình thường.
+ Giống lúa: giống lúa cũng là 1 yếu tố không nên
loại bỏ mặc dù tại mỗi tỉnh có ghi nhận bệnh thì
giống nào cũng bị, bị ít hay bị nhiều, khác nhau
không đáng kể.
Tại các Hội thảo năm 2010 về bệnh LSD-PN (tại
Viện BVTV , hay tại Trung Quốc), các nhà khoa học
Trung Quốc đã nêu: “.bệnh LSD-PN xuất hiện, phát
triển và bùng phát dịch. đi theo cuộc cách mạng lúa
lai ở Trung Quốc.”.
Trong sản xuất lúa của Việt Nam, các giống lúa
gieo cấy hiện nay ở các tỉnh phía Bắc (miền Bắc và
miền Trung) hầu hết có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc
là lúa lai của Trung Quốc. Trong khi đó, các tỉnh phía
Nam chủ yếu gieo cấy các giống lúa có nguồn gốc từ
IRRI hoặc là các giống lúa của IRRI. Vì vậy, đây cũng
có thể là một lý do về sự phân bố khá đặc hữu của bệnh
vi-rút lúa ở Việt Nam: Bệnh VL&LXL hiện diện và gây
hại chủ yếu ở các tỉnh phía Nam - từ Khánh Hòa trở
vào, trong khi bệnh LSĐ-PN hiện diện và gây hại chủ
yếu ở các tỉnh phía Bắc - Từ Phú Yên trở ra (Ngô Vĩnh
Viễn và cs., 2011; Hoang et al., 2011).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số trao đổi về hiện trạng bệnh vi-rút lúa lùn sọc đen phương Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ TRAO ĐỔI
VỀ HIỆN TRẠNG BỆNH VI-RÚT LÚA LÙN SỌC ĐEN PHƢƠNG NAM
Viện Bảo vệ thực vật
Hiện nay, bệnh vi-rút lúa đang diễn biến phức
tạp và nghiêm trọng tại nhiều địa phương trên địa
bàn cả nước, đặc biệt là bệnh lùn sọc đen phương
Nam (LSĐ-PN) – một bệnh vi-rut hại lúa đã từng
xuất hiện, bùng phát dịch và gây hại nghiêm trọng
tại 34 tỉnh/thành phố trong năm 2009. Căn cứ kết
quả giám định dương tính với bệnh của mẫu lúa
thu tại một số tỉnh miền Bắc của Viện Bảo vệ thực
vật (BVTV) trong thời gian vừa qua, căn cứ vào
kết quả nghiên cứu khoa học của đề tài “Nghiên
cứu nguyên nhân và biện pháp phòng chống bệnh
lùn lụi hại lúa ở miền Bắc” và căn cứ vào thông
tin về hiện trạng của bệnh LSĐ-PN hiện nay ở các
tỉnh thuộc nước ta và tại Trung Quốc, Viện BVTV
có một số trao đổi như sau:
1. Về quá trình xác định tác nhân gây bệnh
trong năm 2009 của Viện BVTV
Năm 2009, bệnh LSĐ-PN lần đầu tiên xuất
hiện và bùng phát dữ dội tại Việt Nam, trong đó
các tỉnh Nghệ An, Thái Bình, Quảng Ninh và
Nam Định là các tỉnh đầu tiên ghi nhận và thông
báo về sự hiện diện của bệnh.
Ngày 21 tháng 8 năm 2009, tại Hội nghị bàn
về các biện pháp ứng phó đối với bệnh dịch
“mới” xuất hiện, các nhà khoa học tại các cơ
quan phía Nam đã nhận định một cách chủ quan
rằng đây là bệnh “vàng lùn và lùn xoắn lá” cùng
lây nhiễm và gây hại trên cùng 1 cây lúa. Trong
khi đó, các chuyên gia của Viện BVTV dựa trên
quan sát và phân tích các đặc điểm triệu chứng
bệnh trên cây lúa nhiễm bệnh thu tại nhiều ruộng
lúa ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau và mức
độ nhiễm bệnh khác nhau đã nhận định đó không
phải là bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, là „tác nhân
gì” thì cần nghiên cứu.
Các kết quả giám định bằng RT-PCR của Viện
BVTV sử dụng các cặp mồi đặc hiệu với vi-rút
gây bệnh vàng lùn (RGSV)và lùn xoắn lá (RRSV)
do Viện BVTV thực hiện đều âm tính mặc dù
được thực hiện và lặp lại nhiều lần, trên nhiều mẫu
với các triệu chứng đặc trưng và điển hình.
Ý kiến của các nhà khoa học Viện BVTV lúc
bấy giờ khẳng định “tác nhân gây bệnh không
phải là RGSV và RRSV” và để trả lời chính xác
thì cần phải đợi khi hoàn thành và có kết quả xác
đáng các bước thực hiện “chu trình Koch” – là
qui trình căn bản và bắt buộc khi xác định tác
nhân gây bệnh mới.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 + H M
600bp
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 + H M
1800bp
500bp
1000bp
1600bp
2000bp
RBSDV-S10F2/R2(600bp) RBSDV-S10F1/R1(1800bp)
Hình 1. Kết quả giám định (25/9/2009) 12 mẫu lúa bệnh thu tại Nghệ An, Quảng Ninh và Nam
Định sử dụng cặp mồi RBSDV-S10-F1/R1, 600 bp (Trái) và RBSDV-S10-F2/R2, 1.800 bp (Phải).
Tất cả các mẫu đều dƣơng tính với cả 2 cặp mồi, riêng mẫu 4 dƣơng tính rõ với cặp RBSDV-
S10-F2/R2 nhƣng dƣơng tính yếu với cặp RBSDV-S10-F1/R1. Mẫu đối chứng dƣơng (+) sử dụng
RNA của lúa lùn xoắn lá và cặp mồi RRSVs3/as3 (885 bp). Mẫu đối chứng âm (H) sử dụng RNA
của cây lúa khỏe với các cặp mồi tƣơng ứng (RBSDV-S10-F1/R1 và RBSDV-S10-F2/R2). M là 1
Kb (Invitrogen).
Tên gọi của bệnh tạm thời lúc bấy giờ ban đầu
là “lùn lụi” - do cây lúa nhiễm bệnh bị lùn và và
chết lụi đi. Sau này bệnh được gọi là “vàng lùn
và lùn xoắn lá”.
Ngày 25 tháng 10 năm 2009, kết quả RT-PCR
dương tính đầu tiên và rõ nét đã được ghi nhận
trên 12/12 mẫu giám định khi sử dụng 2 cặp mồi
RBSDV-S10-F1/R1 và RBSDV-S10-F2/R2 được
thiết kế tại vùng bảo thủ gene trên RNA-10 của
các chủng vi-rút lúa lùn sọc đen (SBSDV) và các
thành viên trong họ Reoviridae gây bệnh trên lúa
và trên ngô (Hình 1).
Ngày 27 tháng 9 năm 2009, 12 mẫu lúa bệnh
và mẫu rầy lưng trắng thu tại ruộng bệnh cùng 2
cặp mồi RBSDV-S10-F1/R1 và RBSDV-S10-
F2/R2 được mang sang Trung Quốc. Các mẫu
lúa và mẫu rầy (cả rầy nâu và rầy lưng trắng) đã
được giám định tại phòng thí nghiệm Vi-rút của
Viện Khoa học Nông nghiệp Triết Giang
(ZAAS, Hàng Châu, Trung Quốc) sử dụng cả 2
cặp mồi được mang theo và cặp mồi RBSDV-2-
S3-16/18 do nhóm tác giả tại Hàng Châu đề xuất
– đây là cặp mồi đặc hiệu của bệnh mới, mà
nhóm tác giả lúc đó gọi là lúa lùn sọc đen dòng
2 (RBSDV-2, Zhang et al., 2008), sau này cùng
thống nhất với nhóm tác giả tại Đại Học Hoa
Nam - gọi tên bệnh là lùn sọc đen phương Nam
(SRBSDV, Zhou et al., 2008), gọi tên bệnh là
lùn sọc đen phương Nam (SRBSDV, Wang et
al., 2010). Kết quả giám định cho thấy cả mẫu
lúa và mẫu rầy lưng trắng đều dương tính với cả
3 cặp mồi. Kết quả chụp ảnh bằng hiển vi điện
tử cũng ghi nhận các tiểu thể vi-rút hình cầu đa
diện - như những ghi nhận trước đây của các
nhà khoa học Trung Quốc.
RBSDV-2S3-16/18 (529 bp)
500bp
M H + 1 2 3 4
529 bp
Hình 2. Kết quả giám định (28/9/2009, tại
Trung Quốc) 3 mẫu lúa bệnh thu tại Nghệ An,
Thái Bình và Nam Định (1,2 và 3) và mẫu rầy
lƣng trắng thu tại ruộng bệnh ở Nghệ An, sử
dụng cặp mồi RBSDV-2S3-16/18, 592 bp. Tất
cả các mẫu đều dƣơng tính rõ nét. Mẫu đối
chứng dƣơng (+) sử dụng RNA của lúa nhiễm
RBSDV-2 (Trung Quốc). Mẫu đối chứng âm
(H) sử dụng RNA của cây lúa khỏe. M là
marker 100bp (Invitrogen).
Kết quả giám định tại Hàng Châu cho thấy: cả
mẫu lúa và mẫu rầy lưng trắng đều dương tính
với cả 3 cặp mồi. Kết quả chụp ảnh bằng hiển vi
điện tử cũng ghi nhận các tiểu thể vi-rút hình cầu
đa diện - như những ghi nhận trước đây của các
nhà khoa học Trung Quốc.
Sản phẩm PCR đã được giải trình tự và phân
tích phả hệ của các mẫu lúa bệnh thu tại Việt
Nam trên cả 2 đoạn gene S3 và S10 (hình 3) đều
đưa đến những nhận định rằng hiện tượng “lùn
lụi” trên lúa ở Việt Nam vụ hè thu, mùa năm
2009, là do cùng 1 tác nhân gây gây nên bệnh vi-
rút mới ở Trung Quốc, được gọi là lùn sọc đen
dòng 2 (RBSDV-2, Zhang et al., 2008) hay lùn
sọc đen phương Nam (SRBSDV, Zhou et al.,
2008).
AF459813 Ch zhjs
AY050488 Ch zhjw
AY050489 Ch zhjr
NC 003733 Ch Zhejiang
AF227206 Ch Hubei rice
AF227208 Ch Shanxi meize
AY039835 Ch Jiangsu
AY147041 Ch Henan
AF227207 Ch Henan
AF367478 Ch Sd m
AF227205 Ch Hubei meize
RBSDV
SRBSDV S10 600 QN 29
SRBSDV S10 600 ND 35
SRBSDV sg10 (EU523360):
SRBSDV S10 600 TB 26
SRBSDV S10 600 NA 33
RBSDV-2 sg10 (EU784840):
RBSDV-2 (Vn+Cn)
4 1
4 2
9 3
1 0 0
9 4
6 2
8 1
2 8
8 6
3 2
3 5
7 8
1 0 0
0.01
China isolate
Hai Nam
China isolate
Quang Chau
RBSDV-2 sg3 (Vn)
RBSDV-2 Sg3 (Ch)
RBSDV sg3 Ch (NC 003728)
RBSDV sg3 Ch (AF432355)
RRSV sg3 Ph (AY512585)
9 8
9 4
0.1
Hình 3. Kết quả phân tích phả hệ bằng phần mềm MEGA5 theo phƣơng pháp Neighbour-
Joining,mô hình Kimura-2 tham số, sử dụng đoạn trình tự gene trên RNA-10 (Trái) và RNA-3
(Phải) của các mẫu thu tại Việt Nam đều nằm chung 1 nhánh với các trình tự của bệnh mới tại
Trung Quốc do cả 2 nhóm tác giả Trung Quốc đã thực hiện và lƣu trữ tại GenBank.
Ngày 04 tháng 10 năm 2009, những triệu
chứng điển hình và rõ nét đầu tiên đã được ghi
nhận tại nhà lưới của Viện BVTV trên các cây lúa
TN-1 đã được lây nhiễm nhân tạo sử dụng rầy
lưng trắng (hình 4). Những cây lúa biểu hiện triệu
chứng cùng rầy tương ứng đã được giám định
bằng RT-PCR để kiểm chứng, kết quả đều dương
tính với các cặp mồi đặc hiệu của SRBSDV.
Hình 4. Các triệu chứng điển hình trên cây lúa TN-1 sau lây nhiễm nhân tạo 14 ngày bằng rầy
lƣng trắng, sử dụng nguồn bệnh thu tại Nghệ An. Các triệu chứng bao gồm: cây thấp lùn, lá
xanh đậm, xoắn lá, xoắn đầu lá, rách mép lá và đặc biệt là sự xuất hiện các u sáp nổi gồ rõ nét ở
mặt sau lá dọc theo gân lá.
RT-PCR
DƯƠNG
ELISA + RT-PCR
ÂM ÂM
RGSV RRSV
RBSDV SRBSDV
LÙN LỤI
ELISA/RT-PCR
HIỂN ĐIỆN TỬ
SEQUENCE
S10
RBSDV-2 sg3 (Vn)
RBSDV-2 Sg3 (Ch)
RBSDV sg3 Ch (NC 003728)
RBSDV sg3 Ch (AF432355)
RRSV sg3 Ph (AY512585)
9 8
9 4
0.1
S3
LÂY BỆNH
NHÂN TẠO
RẦY NÂU NHỎ
RẦY NÂU
RẦY LƯNG TRẮNG
ÂM TÍNH
DƯƠNG TÍNH
CÂY KHỎE
RT-PCR
RT-PCR
SEQUENCE
TRIỆU CHỨNG
Hình 5. Sơ đồ mô phỏng quá trình xác định tác nhân gây hiện tƣợng “lùn lụi” trên lúa tại tác
tỉnh phía Bắc vụ Hè Thu, Mùa năm 2009 tuân theo chu trình Koch. Kết quả đã xác định chính
xác tác nhân gây bệnh là do 1 loại vi-rút mới, đƣợc tạm gọi là lùn sọc đen phƣơng nam (Zhou et
al., 2008) hay lùn sọc đen dòng 2 (Zhang et al., 2008), rầy lƣng trắng là môi giới truyền bệnh
Ngày 28 tháng 12 năm 2010, Viện BVTV đã có
báo cáo chính thức trình Bộ Nông nghiệp và PTNT
về kết quả xác định tác nhân gây hiện tượng “lùn lụi”
lúa ở các tỉnh phía Bắc vụ Hè Thu, Mùa năm 2009, là
do vi-rút có tên Lùn sọc đen phương Nam, tên tiếng
Anh là Southern rice black-streaed dwarf virus
(SRBSDV), thuộc phân nhóm Fijivurus-2, nhóm
Fijivirus, họ Reoviridae, rầy lưng trắng là môi giới
truyền bệnh và truyền bệnh theo kiểu bền vững.
2. Về tên gọi của bệnh
Năm 2008 có 2 nhóm tác giả Trung Quốc lần lượt
công bố về kết quả xác định tác nhân gây bệnh mới
trên lúa ở Trung Quốc. Nhóm tác giả tại Viện KHNN
Triết Giang, do TS Heingmu Zhang đại diện, gọi tên
bệnh là lùn sọc đen dòng 2 (Zhang et al., 2008);
nhóm tác giả tại Đại học Hoa Nam (Quảng Đông), do
TS Guohui Zhou đại diện, gọi tên bệnh là lùn sọc đen
phương Nam (Zhou et al., 2008). Cả 2 nhóm tác giả
cùng xác định rầy lưng trắng là môi giới truyền bệnh.
Năm 2009, tại Việt Nam tạm gọi bệnh là lùn sọc
đen phương nam, và thống nhất gọi tắt là lùn sọc đen,
rầy lưng trắng là môi giới truyền bệnh.
Năm 2010, TS Qiang Wang thuộc Đại Học Hoa
Nam với kết quả nghiên cứu của mình, so sánh với
các kết quả công bố năm 2008 và đã hợp nhất 2 tên
gọi lùn sọc đen phương nam và lùn sọc đen dòng 2 là
lùn sọc đen phương nam. Lúc này, tên gọi Southern
rice black-streaked dwarf virus là chưa chính thức và
phải viết “đứng” (Wang et al., 2010).
Cùng khoảng thời gian này, các kết quả nghiên
cứu của Viện BVTV cũng như ghi nhận của Viện đều
khẳng định: rầy lưng trắng là môi giới truyền bệnh
duy nhất, chưa ghi nhận khả năng truyền bệnh này
của rầy nâu nhỏ, trong khi đó, một số nhà khoa học
trung Quốc cho rằng rầy nâu nhỏ có tham gia truyền
bệnh LSĐ-PN nhưng tỷ lệ truyền bệnh rất thấp.
Năm 2012, Pu và công sự trong nghiên cứu của
mình về khả năng truyền bệnh LSD-PN của 3 loài
rầy: rầy nâu (Nilaparvata lugens), rầy lưng trắng
(Sogatella furcifera) và rầy nâu nhỏ (Laodelphax
striatellus), đã khẳng định và đưa ra những minh
chứng khoa học xác đáng rằng duy nhất chỉ có rầy
lưng trắng (Sogatella furcifera) là môi giới truyền
bệnh LSD-PN (Pu et al., 2012).
Cũng trong năm 2012, Hiệp hội phân loại vi-rút
Quốc tế (International Commitee on Taxonomy of
Viruses, ICTV), sau cuộc họp định kỳ đã chính thức
công nhận Southern rice black-streaed dwarf virus
(SRBSDV) là tên chính thức của bệnh, từ thời điểm
đó tên bệnh bằng tiếng Anh sẽ được viết nghiêng.
Để thống nhất với qui ước Quốc tế, tại Việt Nam
chúng ta cũng nên dùng tên “Lùn sọc đen phương
Nam” là tên gọi của bệnh và tên của vi-rút gây bệnh.
3. Về công tác chỉ đạo và các văn bản hƣớng
dẫn
Năm 2010, Bộ Nông ngiệp và PTNT ra Thông tư
số 58/2010/TT-BNNPTNT ngày 5/10/2010 qui định
biện pháp phòng, trừ bệnh lùn sọc đen hại lúa. Thông
tư này do thời điểm ban hành mang tính cấp bách và
tức thời, đề tài nghiên cứu của Viện BVTV cũng đang
ở giai đoạn bắt đầu, do đó về tính chính xác về mặt
khoa học là chưa đầy đủ.
Năm 2011, sau khi nghiệm thu đề tài nghiên cứu
về bệnh LSĐ-PN, do Viện BVTV chủ trì, một trong
những sản phẩm của đề tài là qui trình PTTH rầy
lưng trắng và bệnh lùn sọc đen phương Nam ở các
tỉnh phía Bắc đã được Cục BVTV công nhận là tiến
bộ KHKT (năm 2011).
Tuy nhiên tại thời điểm hiện nay, các văn bản
hướng dẫn trong việc phòng, trừ bệnh LSĐ-PN cũng
mới chỉ được nêu đến Thông tư 58, còn Qui trình
“PTTH rầy lưng trắng và bệnh lùn sọc đen phương
Nam ở các tỉnh phía Bắc” của Viện BVTV lại không
được đề cập tới. Vì vậy, Viện BVTV đề nghi các cơ
quan quan lý và chỉ đạo các cấp cần phải đưa Quy
trình này vào trong các văn bản hướng dẫn phòng trừ
bệnh LSĐ-PN để người sản xuất áp dụng.
4. Về các ý kiến giải đáp cho các câu hỏi về
bệnh LSD-PN vụ Hè Thu, Mùa 2017
Trong rất nhiều câu hỏi từ nhiều cơ quan, cán bộ
và nông dân trực tiếp sản xuất lúa thì câu hỏi được
đặt ra nhiều nhất là “Tại sao bệnh LSD-PN tỏ ra bị
nặng hơn ở các khu vực ven biển?”. Lý giải về vấn
đề này, Viện BVTV có những ý kiến và bằng chứng
khoa học minh chứng kèm theo như sau:
Theo số liệu thống kê của Viện BVTV (Ngô Vĩnh
Viễn và cs., 2011) và Cục BVTV thì đợt dịch năm
2009-2010 bệnh LSĐ-PN xuất hiện và gây hại ở cả
các khu vực đồng bằng và miền núi. Khi bệnh mới
xuất hiện thì Nghệ An, Thái Bình và Nam Định là
những tỉnh ghi nhận và thông báo sớm nhất về sự
hiện diện và gây hại của bệnh. Những điều tra sau đó
đều ghi nhận bệnh xuất hiện và gây hại cả ở những
vùng sâu trong đất liền của các tỉnh có bờ biển và cả
những tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc như
Điện Biên, Sơn La, Lai Châu...
Năm nay, vụ Hè Thu, Mùa 2017, bệnh LSĐ-PN
tái bùng phát, sau 8 năm kể từ 2009. Viện BVTV đã
ghi nhận sự hiện diện của bệnh qua một số mẫu lúa
nhiễm bệnh do cán bộ của Viện và của các Chi cục
Trồng trọt và Bảo vệ thực vật các tỉnh gửi về, đã ghi
nhận bệnh đã xuất hiện tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Hải Phòng, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình,
Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Tỉnh Thái Bình đã công bố
dịch, tỉnh Nghệ An đang chờ quyết định chính thức
để công bố dịch. Như vậy, cả các tỉnh đồng bằng, ven
biển và trung du đã có mẫu dương tính với bệnh. Rất
có thể các tỉnh miền núi cũng đã xuất hiện nhưng
Viện BVTV chưa nhận được mẫu để giám định.
Năm nay, tính riêng tỉnh Nghệ An, huyện Yên
Thành là một huyện nằm sâu trong đất liền lại bị nặng
nhất, nặng hơn cả về diện tích và mức độ gây hại so với
các khu vực ven biển như Diễn Châu. Ngoài ra bệnh
cũng ghi nhận ở các huyện miền núi của tỉnh như Con
Cuông, Quế Phong... (Báo cáo của Chi cục TT&BVTV
Nghệ An, ngày 30/8/2017).
Do đó, có thể nói phân bố của bệnh là ngẫu nhiên.
Tuy nhiên, cũng có một số yếu tố góp phần vào sự
bùng phát và tái bùng phát của bệnh, sẽ được phân
tích sau đây.
Bệnh không truyền qua trứng rầy, do đó rầy
trưởng thành mang vi-rút chết là bệnh hết, rầy non nở
ra cần có cây bệnh để chích thì sau đó mới truyền cho
cây khác được.
Bệnh không truyền qua hạt, do đó, hạt lúa gieo
xuống ruộng ban đầu là lúa sạch. Để bị bệnh thì cây
lúa phải bị rầy mang vi-rút có khả năng truyền bệnh
(trong quần thể, không phải 100% đều lấy được vi-
rút mặc dù đều chích vào cây bệnh. Trong số rầy
mang vi-rút thì không phải tất cả đều có thể truyền
được bệnh) chích vào và truyền bệnh thì mới bị bệnh.
Chính vì 2 lý do nêu trên, nên để bệnh xuất hiện
được đến ngày hôm nay thì chắc chắn trong tự nhiên
(hay nói cách khác là ngoài thực tiễn đồng ruộng) quá
trình truyền bệnh từ vụ này sang vụ khác vẫn diến ra
với tỷ lệ thấp, thấp đến mức quan sát bình thường
“không thấy được”. Năm nay, gặp điều kiện thuận
lợi, rầy môi giới bộc phát về số lượng quần thể nên
bệnh đã theo đó mà được nhân lên về số lượng.
Thực tế với bệnh VL&LXL trong miền Nam
năm nay, mặc dù bệnh vi-rút xuất hiện với tỷ lệ
bệnh đáng kể ở nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông
Cửu Long nhưng tại những ruộng bị bệnh số lượng
quần thể rầy nâu – môi giới truyền bệnh chung cho
cả 2 vi-rút gây bệnh, đều chỉ ở mức độ thấp, rất
thấp so với đợt dịch năm 2005-2008. Như vậy,
bệnh vi-rút có thể bùng phát hoặc tái bùng phát
dịch nhưng quần thể rầy môi giới không nhất thiết
phải bộc phát thành dịch, mà chỉ phát triển về số
lượng quần thể đến một mức nhất định. Do đó, việc
chỉ đạo áp dụng các biện pháp phòng trừ rầy môi
giới để gián tiếp phòng trừ bệnh vi-rút có hiệu quả
cần phải thực hiện một cách quyết liệt và triệt để
trước hiện trạng các bệnh vi-rút trên lúa như hiện
nay trên địa bàn cả nước.
Ngoài những yếu tố đã nêu ở trên, một số yếu tố
không thể loại trừ và đã được các nhà khoa học trong
nước và thế giới quan tâm nghiên cứu và ghi nhận đó
là:
+ Do các cơn bão - gió bão đã cuốn theo rầy môi
giới, mang theo vi-rút, lan truyền bệnh từ những vùng
bị bệnh hoặc bị bệnh nặng tới các vùng khác - có thể
là lân cận, có thể rất xa, thậm chí vượt đại dương
(Otuka et al., 2008; Hoang et al., 2011; Otuka, 2013).
Năm 2009, tại đảo Hải Nam của Trung Quốc, dịch
LSĐ-PN đã bùng phát giữ dội vào vụ Xuân. Đến vụ Hè
thu, Mùa thì tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung của
Việt Nam bệnh xuất hiện và lần đầu tiên bùng phát dịch.
Khi lúa Hè Thu, Mùa xuống giống thì đã có một số cơn
bão vào Việt Nam. Bão có thể là một nguyên nhân liên
quan đến dịch bệnh LSĐ-PN ở Việt Nam năm 2009
(Ngô Vĩnh Viễn và cs., 2011; Hoang et al., 2011).
Năm 2009, lúc ban đầu thì "dường như" khu vực
ven biển bị bệnh trước. Nhưng cũng chỉ do ngẫu
nhiên, thông báo về bệnh đầu tiên do Nghệ An và
mẫu cũng được gửi đi sớm nhất. Tuy nhiên, Chi cục
nằm ở TP. Vinh, gần biển, nên biết trước ở khu vực
này là dễ hiểu và cũng chỉ là ngẫu nhiên.
+ Nguồn bệnh sẵn có (như lập luận ở trên), khi
gặp điều thuận lợi cho rầy môi giới phát triển thì bệnh
được nhân lên về số lượng và có thể bùng phát thành
dịch.
Nhiều chưa chắc đã phải là trước,
Phát hiện muộn không phải là do thời gian ủ bệnh
kéo dài hơn (Hội nghị về bệnh VL&LXL tại Tiền
Giang, tháng 6/2017, Chi cục TT&BVTV Đồng Tháp
đã ghi nhận về vấn đè này) mà là do lúc đầu vụ bệnh có
tỷ lệ quá thấp, thấp tới mức không thấy, hoặc do điều tra
chưa kỹ... cũng có thể là 1 lý do. Năm trước chưa bị thì
chẳng có lý do gì phải điều tra thật kỹ trong năm nay –
tâm lý bình thường.
+ Giống lúa: giống lúa cũng là 1 yếu tố không nên
loại bỏ mặc dù tại mỗi tỉnh có ghi nhận bệnh thì
giống nào cũng bị, bị ít hay bị nhiều, khác nhau
không đáng kể.
Tại các Hội thảo năm 2010 về bệnh LSD-PN (tại
Viện BVTV , hay tại Trung Quốc), các nhà khoa học
Trung Quốc đã nêu: “...bệnh LSD-PN xuất hiện, phát
triển và bùng phát dịch... đi theo cuộc cách mạng lúa
lai ở Trung Quốc...”.
Trong sản xuất lúa của Việt Nam, các giống lúa
gieo cấy hiện nay ở các tỉnh phía Bắc (miền Bắc và
miền Trung) hầu hết có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc
là lúa lai của Trung Quốc. Trong khi đó, các tỉnh phía
Nam chủ yếu gieo cấy các giống lúa có nguồn gốc từ
IRRI hoặc là các giống lúa của IRRI. Vì vậy, đây cũng
có thể là một lý do về sự phân bố khá đặc hữu của bệnh
vi-rút lúa ở Việt Nam: Bệnh VL&LXL hiện diện và gây
hại chủ yếu ở các tỉnh phía Nam - từ Khánh Hòa trở
vào, trong khi bệnh LSĐ-PN hiện diện và gây hại chủ
yếu ở các tỉnh phía Bắc - Từ Phú Yên trở ra (Ngô Vĩnh
Viễn và cs., 2011; Hoang et al., 2011).
5. Nhận xét chung
Những ghi nhận hiện nay cho thấy bệnh LSĐ-PN
tỏ ra bị nặng hơn tại các khu vực ven biển là không
chính xác, mà hoàn toàn ngẫu nhiên.
Phân bố và mức độ gây hại của bệnh chủ yếu là do
sự phát triển và gây hại của rầy môi giới đã kéo theo
sự bùng phát của bệnh từ nguồn bệnh sẵn có trở nên
bùng phát thành dịch và gây hại nghiêm trọng hơn.
Sự lan truyền của bệnh có liên quan đến quá trình
phát triển quần thể và di trú của rầy (Outuka et al.,
2008 Otuka, 2013).
Bên cạnh đó, sự phát triển và gây hại của bệnh có
liên quan chặt chẽ đến tính quyết liệc và sự phù hợp của
các biện pháp phòng trừ rầy môi giới để gián tiếp phòng
trừ sự phất triển và gây hại của bệnh vi-rút cũng như sự
lan truyền của chúng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_trao_doi_ve_hien_trang_benh_vi_rut_lua_lun_soc_den_ph.pdf