Một số tư tưởng kinh tế Việt Nam hiện đại (Kỳ 1)

kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các TPKT hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN. Ngày nay, từ kết quả gần 30 năm đổi mới, chúng ta lại có một bước tiến quan trọng trong quá trình nhận thức bằng việc khẳng định vai trò của các TPKT qua sự đóng góp đối với quá trình tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số tư tưởng kinh tế Việt Nam hiện đại (Kỳ 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 37 MỘT SỐ TƢ TƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (KỲ 1) ThS. Lê Thị Mến Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực và ngày càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Thực tiễn đó cho thấy những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã đi vào cuộc sống và được hiện thực hóa trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết phân tích về một số tư tưởng kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Từ khoá: Việt Nam (VN), Xã hội chủ nghĩa (XHCN), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), Đảng cộng sản, Đại hội Đảng toàn quốc, thành phần kinh tế (TPKT).. 1. Tƣ tƣởng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc Tư tưởng CNH, HĐH xuyên suốt trong các tư tưởng kinh tế VN hiện đại. Xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậu, muốn xây dựng một nền kinh tế sản xuất lớn, hiện đại thì con đường tất yếu là phải CNH, HĐH đất nước. Ngay từ đại hội III (09/1960) của Đảng đã xác định: CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Tư tưởng đó được quán triệt trong các kỳ đại hội Đảng toàn quốc tiếp theo. Đại hội III xác định, điểm mấu chốt trong CNH là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, vì đó là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Có ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mới có thể tranh thủ được những tư liệu sản xuất cho công nghiệp, nông nghiệp, đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng, phát triển cao độ nền kinh tế quốc dân, cải thiện không ngừng đời sống nhân dân. Nhìn chung, tư tưởng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là nhằm HĐH đất nước. Tư tưởng đó là đúng đắn. Tuy nhiên, phương pháp, bước đi về phát triển CNH, HĐH như thế nào lại là vấn đề phức tạp. Trong nhiều năm, VN tập trung nguồn lực vào đầu tư phát triển lĩnh vực công nghiệp như: điện lực, luyện kim, chế tạo cơ khí,Song, do chủ quan nóng vội đã đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất nên nhiều mục tiêu CNH không được thực hiện, lại góp phần làm sâu sắc những khó khăn về kinh tế-xã hội của đất nước. Vì vậy, đại hội V (03/1982) Đảng ta khẳng định tiếp tục đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN là: đẩy mạnh CNH XHCN nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công-nông nghiệp. Đồng thời đã cụ thể hóa cách đi của CNH trong những năm 1981-1985 là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 38 Đến đại hội VI (12/1986), tư tưởng CNH, HĐH được gắn với việc thực hiện 3 chương trình về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đó là cụ thể hóa nội dung chính của CNH XHCN trong chặng đường đầu tiên ở nước ta. Đến đại hội VII (06/1991), tư tưởng về CNH có một bước phát triển mới. Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (7/1994) viết: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ sử dụng thủ công là chính sang sử dụng lao động một cách phổ biến cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, HĐH dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Về mục tiêu lâu dài của CNH, HĐH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chức, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu trước mắt đến năm 2000 là đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, ổn định tình hình kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Trong những năm đổi mới, các nhà kinh tế học VN đưa ra khái niệm CNH theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Nội dung cơ bản của tư tưởng này là hướng sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong nước vào việc sản xuất hàng hóa nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước; đồng thời tăng cường sản xuất những hàng hóa mà đất nước có khả năng sản xuất và nhập khẩu những hàng hóa công nghệ nhằm phục vụ sản xuất hàng nhập khẩu. Về thực chất, đây là một phương pháp, cách đi của CNH nhằm HĐH đất nước, thúc đẩy nhanh sự phát triển khoa học, công nghệ góp phần vào tăng trưởng và phát triển của đất nước. Đến đại hội IX (04/2001) của Đảng cộng sản VN, một tư tưởng đặc biệt chú ý là đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020 đưa VN cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện đường lối chiến lược đó, con đường CNH, HĐH của VN là cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhày vọt. Đại hội IX cũng chỉ ra, cần phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều, càng cao và phổ biến hơn những thành tựu mới về công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người VN; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH. Tư tưởng tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của VN để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế trí thức, coi kinh tế trí thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của CNH, HĐH được đại hội X (04/2006) của Đảng cộng sản VN tiếp tục khẳng định. Đại hội lần thứ XI (01/2011) khẳng định: Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 39 gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường‖. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do tiến bộ khoa học-công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn gắn với phát triển kinh tế trí thức. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 nhận mạnh: tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng XHCN. Nhìn chung, CNH, HĐH là xuyên suốt trong các tư tưởng kinh tế VN hiện đại. Quá trình phát triển tư tưởng này là quá trình từng bước hoàn thiện về nội dung, phương pháp, cách đi của CNH, HĐH đất nước không ngoài mục tiêu xây dựng một đất nước VN: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. II. Tƣ tƣởng về phát triển kinh tế nhiều thành phần Tư tưởng kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trải qua một số giai đoạn phát triển: Giai đoạn đầu từ sau năm 1954, nhất là từ sau đại hội III (9/1960) của Đảng, VN chủ trương xây dựng nền kinh tế XHCN trên cơ sở sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Để thực hiện tư tưởng đó, Việt Nam đã tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân và xây dựng các doanh nghiệp quốc doanh, hình thành nên các xí nghiệp thuộc sở hữu toàn dân trong các lĩnh vực kinh tế. Đồng thời, thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, tiểu thương, tiểu thủ công để chuyển sở hữu tư nhân sản xuất nhỏ thành sở hữu tập thể trong nông nghiệp, thương nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp. Kết quả là, sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể chiếm tỷ trọng lớn hơn trong nền kinh tế quốc dân. Sở hữu tư nhân sản xuất nhỏ chiếm một tỷ trọng không đáng kể. Trong nền kinh tế, không còn sở hữu tư bản. Sự thống trị của sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể trong nền kinh tế Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hòa bình, thì những hình thức sở hữu này tỏ ra không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp kém. Vì vậy, hiệu quả của nền kinh tế bị giảm sút nghiêm trọng, xuất hiện xu thướng đa dạng hóa sở hữu trong nền kinh tế. Thêm vào đó, sự suy giảm mô hình và sự thống trị của sở hữu tập thể ở các nước XHCN, sự mở rộng mô hình kinh tế hàng hóa, thị trường ở các nước trên thể giới làm tăng xu hướng đa dạng hóa trong nền kinh tế VN. Vì vậy, từ những năm 1986, tư tưởng của Đảng cộng sản VN là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần XHCN, bao gồm khu vực quốc doanh, khu vực kinh tế tập thể và các TPKT khác (gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức). Đại hội VII (6/1991) của Đảng cộng sản VN khẳng định, trong nền kinh Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 40 tế VN có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Tư tưởng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ngày càng hoàn thiện trong quá trình đổi mới kinh tế ở VN, thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng cộng sản VN lần thứ VIII, IX, X và XI. Văn kiện đại hội IX của Đảng cộng sản VN đã chỉ ra, ở VN hiện nay có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân; từ đó hình thành nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng và đan xen. Đồng thời khẳng đinh, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các TPKT kinh doanh theo pháp luật và đều là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đến đại hội X (4/2006) nêu rõ, ở VN có ba chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, với nhiều hình thức sở hữu và nhiều TPKT: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các TPKT hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng pháp triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các TPKT cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, Đại hội XI (01/2011) của Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều TPKT, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng ta nêu đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các TPKT, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ nhấn mạnh: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều TPKT, hình thức tổ chức kinh doanh, còn số lượng các hình thức sử hữu, các TPKT và theo đó là bao nhiêu loại hình doanh nghiệp là do nhu cầu khách quan của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất quyết định. Đây là một bước tiến nhằm tạo một không gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hoạt động, để có thể tránh giáo điều chủ quan. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 41 kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các TPKT hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN. Ngày nay, từ kết quả gần 30 năm đổi mới, chúng ta lại có một bước tiến quan trọng trong quá trình nhận thức bằng việc khẳng định vai trò của các TPKT qua sự đóng góp đối với quá trình tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI; VII; VIII; IX; X; XI của Đảng cộng sản VN. [2] Nguyễn Viết Thông: Tìm hiểu nội dung các văn kiện Đại hội XI của Đảng. lyluanchinhtri.vnu.edu.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_tu_tuong_kinh_te_viet_nam_hien_dai_ky_1.pdf
Tài liệu liên quan