Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
(1/2011) thực hiện “triển khai đồng bộ,
toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối
ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc
tế”. Đại hội XI cũng xác định phương
châm công tác đối ngoại là: Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới
trong phương châm đối ngoại của Đại hội
XI là “hội nhập quốc tế” và là “thành viên
có trách nhiệm”.
Như vậy, quá trình thực hiện nền
kinh tế mở với đường lối đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến
nay có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần
đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh
tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam có
bước phát triển mới; thế và lực của Việt
Nam được nâng cao trên thương trường
và chính trường quốc tế. Các thành tựu
đối ngoại trong gần 30 năm qua đã
chứng minh việc thực hiện nền kinh tế
mở của Đảng và NN ta trong thời kỳ đổi
mới là đúng đắn và sáng tạo, góp phần
đưa đất nước vững bước trên con đường
đi lên CNXH.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số tư tưởng kinh tế Việt Nam hiện đại (kỳ 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
45
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(Kỳ 2)
ThS. Lê Thị Mến
Khoa Lý luận Chính trị, Trường ĐHXD Miền Trung
Tóm tắt
Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu quan trọng trên
nhiều lĩnh vực và ngày càng khẳng định vị thế
của mình trên trường quốc tế. Thực tiễn đó cho
thấy những chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng đã đi vào cuộc sống và được hiện
thực hóa trên con đường đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Bài viết phân tích về một số tư
tưởng kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam
trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
Từ khóa
Việt Nam (VN), Chủ nghĩa xã hội (CNXH), Nhà
nước (NN), Kinh tế thị trường (KTTT), Đảng
cộng sản, Đại hội Đảng toàn quốc, thành phần
kinh tế (TPKT).
I. TƯ TƯỞNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỞNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT
NAM
1. Bối cảnh xuất hiện tư tưởng KTTT
định hướng XHCN
Từ những năm 1986 trở về trước, VN
ủng hộ tư tưởng điều tiết nền kinh tế theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Theo tư
tưởng này, nền kinh tế phát triển theo
một kế hoạch thống nhất từ Trung ương
đến địa phương. NN phân bố nguồn lực và
sản phẩm làm ra bằng một hệ thống các
chỉ tiêu pháp lệnh và chi phối hầu hết các
hoạt động của nền kinh tế. Các ngành,
các doanh nghiệp hoạt động theo chỉ tiêu,
kế hoạch của NN, với kiểu “lỗ NN bù, lãi
NN thu”. Giá cả sản phẩm được hình
thành theo kế hoạch NN quy định. Kế
hoạch là công cụ quan trọng trong quản lý
kinh tế nhưng bó hẹp trong phạm vi kinh
tế và ngân sách NN, chỉ chú trọng phát
triển kinh tế quốc doanh, còn các TPKT
khác không được coi trọng và do đó, cũng
không bao quát toàn bộ nền kinh tế.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung trên
đã có những tác động tích cực đối với nền
kinh tế nước ta, đặc biệt trong thời gian
chiến tranh. Nó góp phần tập trung nguồn
lực cho các mục tiêu ưu tiên của đất nước,
đồng thời cũng có tác động tích cực cho
việc khôi phục và phát triển kinh tế trong
giai đoạn từ chiến tranh chuyển sang hòa
bình. Tuy vậy, cơ chế kế hoạch hóa tập
trung dần trở nên xơ cứng, không phù hợp
với sự phát triển của đất nước trong điều
kiện hòa bình, nhất là trong điều kiện hội
nhập và cạnh tranh kinh tế diễn ra trên
phạm vi toàn thế giới.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại
cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
46
chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm
nay không tạo được động lực phát triển,
làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn
chế việc sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm
giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây
rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ
ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”.
Như vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị trường xuất phát từ nhu
cầu của nền kinh tế nước ta, từ vị trí, vai
trò, ý nghĩa của cơ chế trị trường và xu
hướng phát triển của thời đại. Đó là:
Thứ nhất, do những hạn chế của cơ
chế hế hoạch hóa tập trung đã làm cho
nền kinh tế VN bị xơ cứng, năng suất hiệu
quả quá thấp, tăng trưởng kinh tế chậm,
sản xuất không đủ đáp ứng yêu cầu, tiêu
dùng, không có tích lũy. Trong khi đó,
thực hiện phát triển kinh tế ở các nước có
nền kinh tế thị trường chỉ rõ những ưu
việt của nền kinh tế này là thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, là
một nền kinh tế năng động với nhiều sản
phẩm, dịch vụ.
Thứ hai, xu hướng của các nước trên
thế giới là hướng nền kinh tế vào phát
triển theo cơ chế thị trường, mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế, vừa hợp tác vừa
cạnh tranh mạnh mẽ.
Chính vì vậy, việc chuyển nền kinh
tế nước ta sang vận hành theo cơ chế thị
trường là sự cần thiết khách quan.
2. Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
hội có mâu thuẫn hay không?
Cho đến những năm 90 của thế kỷ
XX, ở VN nhiều người vẫn còn chưa hiểu
rõ KTTT là gì, liệu có thể sử dụng KTTT để
phát triển nền kinh tế nước ta theo định
hướng XHCN hay không?
Thực chất, KTTT chỉ là một công
nghệ, một phương pháp, một phương tiện
để phát triển kinh tế có hiệu quả nhất mà
thôi. Bởi lẽ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng
hóa hay KTTT có nghĩa là nói tới các kiểu
tổ chức kinh tế - xã hội khác nhau, các cơ
chế điều hành nền kinh tế khác nhau mà
con người có thể sử dụng để tiến hành tổ
chức nền sản xuất xã hội. Điều đó có
nghĩa là chúng ta không thể đồng nhất
KTTT với chủ nghĩa tư bản, kinh tế tự
nhiên với xã hội cộng sản nguyên thủy,
hay kinh tế hàng hóa giản đơn với xã hội
chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến.
Sở dĩ người ta phạm phải sai lầm khi
đồng nhất KTTT với chủ nghĩa tư bản, vì
quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản
đơn sang KTTT diễn ra trong thời kỳ quá
độ từ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản.
Và sự phát triển của nó càng mạnh mẽ
hơn dưới thời kỳ chủ nghĩa tư bản. Trong
khi đó, mô hình phát triển kinh tế mà các
nước XHCN áp dụng vào những năm 20
của thế kỷ XX là nền kinh tế chỉ huy (nền
kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung). Từ đó, người ta thường
cho rằng, nền kinh tế chỉ huy là đặc trưng
riêng có của XHCN, còn nền KTTT là đặc
trưng riêng có của chủ nghĩa tư bản. Tư
tưởng này tồn tại trong các bài viết, giáo
trình, giáo khoa và thấm nhuần vào tư
tưởng của các nhà quản lý và mặc nhiên,
người ta coi nó như là chân lý tuyệt đối.
Những năm gần đây, sau khi mô
hình kinh tế chỉ huy bị đỗ vỡ, phạm vi
phát triển của KTTT được mở rộng ra
không chỉ trong từng nước, từng khu vực
mà còn phát triển trên toàn thế giới đã
chứng minh rằng: không một nước nào
không áp dụng công nghệ KTTT để phát
triển nền kinh tế của nước mình. Điều đó
càng chứng tỏ rằng: KTTT không phải là
cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, phát
triển KTTT không phải là phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa.
Vậy, CNXH có thể sử dụng được
KTTT để phát triển hay không? KTTT và
nền kinh tế định hướng XHCN có thể song
hành phát triển được hay không? Thật ra,
không có công nghệ nào lại không có mặt
tích cực và hạn chế. Mặt tích cực của công
nghệ KTTT là nền kinh tế có năng suất lao
động cao hơn, phát triển nhanh hơn, phồn
thịnh và văn minh hơn. Nhưng mặt tiêu
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
47
cực của nó là làm cho sự phân hóa, bất
bình đẳng có cơ sở để nảy sinh sâu sắc
hơn. Nghĩa là, sử dụng công nghệ KTTT,
chúng ta đạt được mục tiêu dân giàu,
nước mạnh và có cơ sở tiến tới một xã hội
văn minh; song chúng ta lại vấp phải giới
hạn của sự bình đẳng trong xã hội. Giới
hạn đó chính là khuyết tật của KTTT. Vậy,
chúng ta hoàn toàn có thể và cần phải sử
dụng KTTT với tư cách là một công nghệ
hiện đại để phát triển nền kinh tế theo
định hướng XHCN. Vấn đề còn lại là phải
khắc phục những khuyết tật của KTTT. Để
làm được điều đó, sự quyết định là phải
dựa vào NN. Với đặc điểm là NN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản thì NN VN có
vai trò quyết định trong việc giải quyết
vấn đề bình đẳng trong xã hội. Sự phát
triển của nền kinh tế nước ta có đúng
hướng hay chệch hướng hoàn toàn phụ
thuộc vào vai trò quản lý, điều tiết của
NN. Thông qua việc sử dụng các công cụ
chính sách vĩ mô, hệ thống pháp luật thì
NN ta hoàn toàn có thể điều hành một
nền kinh tế theo định hướng XHCN, phù
hợp với những nguyên tắc của KTTT, tạo
điều kiện tốt nhất để phát huy những tác
dụng tích cực của công nghệ phát triển
kinh tế hiện đại này; vừa khắc phục
những khuyết tật của nó, đảm bảo sự
bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội cho
mọi công dân.
3. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tư tưởng về thể chế KTTT định
hướng XHCN được hình thành trong quá
trình chuyển sang nền KTTT.
Mầm móng của tư tưởng này có từ
Đại hội VI (12/1986), nó tiếp tục phát
triển qua các kỳ Đại hội lần VII, VIII, dần
hoàn thiện ở Đại hội IX, X, XI.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) chủ trương “kiên quyết xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thiết
lập hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch
hóa theo phương thức hoạch toán kinh
doanh XHCN”. Cơ chế mới lấy kế hoạch
hóa làm trung tâm, sử dụng dụng đúng
đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quản lý
bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
(6/1991) xác định nền kinh tế của ta là
“nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước”. Đây là chủ trương chiến lược, là
con đường đi lên CNXH của VN. Đại hội
cũng nêu quan điểm về thể chế kinh tế
mới được thể hiện rõ ràng hơn “cơ chế vận
hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN lên cơ chế thị
trường, có sự quản lý của NN bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ
kinh tế khác”.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX (4/2001), tư tưởng này được thể hiện
thông qua chủ trương tạo lập đồng bộ các
loại thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu
lực quản lý kinh tế của NN.
Theo tinh thần của văn kiện Đại hội
IX, bên cạnh đẩy mạnh sự phát triển của
thị trường hàng hóa dịch vụ, cần thúc đẩy
sự hình thành, phát triển và từng bước
hoàn thiện các loại thị trường theo định
hướng XHCN; đặc biệt quan tâm đến các
loại thị trường quan trọng nhưng hiện
chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường
lao động, thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản,
Nhà nước tạo môi trường pháp lý
thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát
triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và chính sách, kết hợp với sử
dụng lực lượng vật chất của NN để định
hướng phát triển kinh tế-xã hội, khai
thác hợp lý nguồn lực của đất nước, bảo
đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết
thu nhập, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra
mọi hoạt động kinh doanh theo quy định
của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng
giả, gian lận thương mại.
Lần đầu tiên, văn kiện Đại hội X
(4/2006) chính thức thừa nhận thuật ngữ
thể chế KTTT. Văn kiện ghi rõ: hoàn thiện
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
48
thể chế KTTT định hướng XHCN phải chú ý
đến 2 nội dung:
Một là, nắm vững định hướng XHCN
trong nền KTTT ở VN. Theo đó, phải:
+ Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng
phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo,
khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng; giúp đỡ người khác thoát nghèo
và từng bước khá giả hơn.
+ Phát triển nền kinh tế nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế NN cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,...
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người.
+ Phát huy quyền làm chủ xã hội
của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý
điều tiết nền kinh tế của NN pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, nâng cao vai trò và hiệu lực
quản lý của NN. NN có các chức năng chủ
yếu sau:
+ Định hướng sự phát triển bằng các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế
chính sách trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc của thị trường.
+ Tạo môi trường pháp lý và cơ chế,
chính sách thuận lợi để phát huy các
nguồn lực xã hội cho phát triển, các chủ
thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch,
có trật tự, kỷ cương.
+ Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
+ Đảm bảo tính bền vững và tích
cực của các cân đối vĩ mô, hạn chế các rủi
ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường.
+ Tác động đến thị trường chủ yếu
thông qua cơ chế, chính sách và các công
cụ kinh tế.
+ Thực hiện quản lý NN bằng hệ
thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp
hành chính vào hoạt động của thị trường
và doanh nghiệp.
+ Tiếp tục đổi mới chính sách tài
chính và tiền tệ, đảm bảo tính ổn định và
sự phát triển bền vững của nền tài chính
quốc gia.
+ Phân định rõ chức năng, mối quan
hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ
ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương trong quản lý NN
về kinh tế - xã hội.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI (1/2011), xác định nền KTTT của nước
ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của NN, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản”. Mục tiêu cơ bản là làm
cho thể chế KTTT định hướng XHCN ở
nước ta phù hợp với những nguyên tắc cơ
bản của KTTT, thúc đẩy phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc
tế thành công, giữ vững định hướng
XHCN, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc VN XHCN. Mục tiêu này yêu cầu
phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.
Đại hội XI nhấn mạnh: “Tiếp tục
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá
trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô
hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là
một trong ba đột phá chiến lược trong 10
năm tới”.
Đại hội XI cũng nêu ra mục tiêu cụ
thể những năm tới:
+ Một là, từng bước xây dựng đồng
bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền
KTTT định hướng XHCN phát triển thuận
lợi;
+ Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ
chức, phương thức hoạt động của đơn vị
sự nghiệp công.
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
49
+ Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng
các loại thị trường cơ bản thống nhất
trong cả nước, từng bước liên thông với
thị trường khu vực và thế giới.
+ Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường.
+ Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của NN và phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội và nhân dân trong quản lý,
phát triển kinh tế - xã hội.
II. TƯ TƯỞNG VỀ NỀN KINH TẾ MỞ Ở
VIỆT NAM
1. Nền kinh tế đóng và nền kinh tế mở
Nền kinh tế đóng (kinh tế khép kín,
kinh tế tự cung tự cấp) là kiểu kinh tế của
một nước biệt lập với nền kinh tế thế giới,
không tính đến những nhân tố bên ngoài,
đối lập với xu hướng kinh tế hóa đời sống
kinh tế. Kiểu kinh tế này thích hợp với nền
kinh tế tự nhiên. Sản xuất của nền kinh tế
này chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên và thuần túy mang tính tự cấp tự
túc với kỹ thuật canh tác lạc hậu, phân
công lao động và sản xuất hàng hóa kém
phát triển.
Nền kinh tế mở là kiểu kinh tế của
một nước gắn liền với nền kinh tế thế giới.
Trong các nước tổ chức kinh tế theo
hướng kinh tế mở hình thành trên một thị
trường quốc gia đồng bộ thông suốt và
gắn bó với nền kinh tế thế giới. Ở trong
nước, các nền kinh tế mở thực hiện chính
sách tự do hóa thương mại, tự do hóa
kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật NN.
Trong quan hệ kinh tế với các nước khác
thực hiện giảm thiểu những khó khăn, trở
ngại để đẩy mạnh giao lưu thương mại,
kinh tế, khoa học, công nghệ; từng bước
thực hiện gắn thị trường trong nước với thị
trường khu vực và quốc tế, vừa hợp tác
vừa cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế
mở phán ánh xu thế quốc tế hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế, phù hợp với nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường.
2. Quá trình phát triển tư tưởng nền
kinh tế mở ở Việt Nam
Quá trình phát triển tư tưởng nền
kinh tế mở ở Việt Nam gắn liền với cải
cách, đổi mới các chính sách và cơ chế
quản lý kinh tế đối ngoại, thương mại
quốc tế ở VN.
Sau khi miền Nam được giải phóng,
cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: không
ngừng mở rộng phân công và hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa
học, kỹ thuật; đẩy mạnh các hoạt động
ngoại thương và đòi hỏi khách quan của
thời đại. Đặc biệt đối với nước ta, từ sản
suất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn
XHCN, việc tăng cường quan hệ phân
công, hợp tác tương trợ về kinh tế đối với
các nước XHCN anh em và phát triển các
quan hệ với các nước khác có tầm quan
trọng rất lớn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm
nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng
khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh
mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực
lượng sản xuất, Đảng ta nhận định “xu thế
mở rộng phân công, hợp tác giữa các
nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế -
xã hội khác nhau,cũng là những điều kiện
rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta”. Từ đó Đảng chủ trương
phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và
đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế với các nước ngoài hệ thống
XHCN, với các nước công nghiệp phát
triển, các tổ chức và tư nhân nước ngoài
trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Triển khai chủ trương của Đảng, 12-
1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
được ban hành. Đây là lần đầu tiên NN ta
tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại VN.
Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra nghị
quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình tình mới, khẳng định
mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
50
Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và
giữ vững hoà bình để tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế. Nghị quyết số
13 của Bộ chính trị đánh dấu sự đổi mới
tư duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng
toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta.
Sự chuyển hướng này đã đặt nền móng
hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ quốc tế.
Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ
năm 1989, Đảng chủ trương xoá bỏ tình
trạng độc quyền trong sản xuất và kinh
doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương
của Đại hội V (3/1982) là “Nhà nước độc
quyền ngoại thương và Trung ương thống
nhất quản lý công tác ngoại thương”, thì
đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại của VN.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
(6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị-xã hôi
khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối
ngoại với các đối tác, thực hiện đổi mới
phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả
trên tinh thần bình đẳng.
Các Hội nghị Trung ương (khoá VII)
tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội
VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh
yêu cầu đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa để tiếp thu
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của
nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới,
trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo
vệ tài nguyên, hạn chế đến mức tối thiểu
những mặt tiêu cực phát sinh trong quá
trình mở cửa.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII
(1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ
và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phương
hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư
tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc
lập, thống nhất và CNXH. Đồng thời, phải
rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù
hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của VN cũng như diễn biến của tình
hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc
điểm từng đối tượng.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng
quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với
các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị
khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương
“xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
(4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan
điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, trước hết là độc lập tự chủ về
đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm
lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,
kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất
nước sau 15 năm đổi mới.
Đại hội IX đã phát triển phương
châm của Đại Hội VII là: “Việt Nam muốn
làm bạn với các nước trong cộng đồng thế
giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”. Chủ trương xây dựng
quan hệ đối tác được đề ra ở ĐH IX đánh
dấu bước phát triển về chất tiến trình
quan hệ quốc tế của VN thời kỳ đổi mới.
Tháng 11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2016 No. 1/2016
51
biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
(4/2006) nêu quan điểm: thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đồng thời
đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
(1/2011) thực hiện “triển khai đồng bộ,
toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối
ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc
tế”. Đại hội XI cũng xác định phương
châm công tác đối ngoại là: Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới
trong phương châm đối ngoại của Đại hội
XI là “hội nhập quốc tế” và là “thành viên
có trách nhiệm”.
Như vậy, quá trình thực hiện nền
kinh tế mở với đường lối đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến
nay có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần
đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh
tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam có
bước phát triển mới; thế và lực của Việt
Nam được nâng cao trên thương trường
và chính trường quốc tế. Các thành tựu
đối ngoại trong gần 30 năm qua đã
chứng minh việc thực hiện nền kinh tế
mở của Đảng và NN ta trong thời kỳ đổi
mới là đúng đắn và sáng tạo, góp phần
đưa đất nước vững bước trên con đường
đi lên CNXH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI; VII; VIII; IX; X; XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Nguyễn Viết Thông. Tìm hiểu nội dung các văn kiện Đại hội XI của Đảng.
3. PGS.TS. Đinh Xuân Lý và TS. Phạm Công Nhất, 2008. Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Thương mại, 2004. Tài liệu bồi dưỡng: Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế. Hà Nội.
5. PGS.TS Nguyễn Văn Trình (chủ biên), 2009. Kinh tế đối ngoại Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_tu_tuong_kinh_te_viet_nam_hien_dai_ky_2.pdf