Điều trị cá thể hóa hay điều trị theo từng cá nhân:
tức là sử dụng các thông tin về kiểu hình gen và sinh
học khối u để đưa ra các chiến lược phòng ngừa, sàng
lọc, điều trị bệnh hiệu quả hơn và ít tác dụng phụ hơn
so với điều trị chuẩn hiện nay. Các chiến lược điều trị
sẽ được điều chỉnh cho phù hợp nhất với từng người
bệnh. Một kế hoạch sàng lọc và điều trị cá thể hóa bao
gồm các nội dung: (1) xác định nguy cơ người bệnh
có khả năng bị ung thư và xây dựng các chiến lược hạ
thấp nguy cơ; (2) đưa ra điều trị phù hợp nhất và (3)
tiên lượng khả năng tái phát.
Gần đây, các nhà khoa học Cuba và Arghentina đã
công bố hai loại vắc xin điều trị ung thư phổi là CIMAvax
EGF và Racotumomab (Vaxira). CIMAvax EGF gồm hai
protein trong đó có EGF (yếu tố phát triển biểu bì), vắc
xin này kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể sinh
ra kháng thể có khả năng nhận ra và bắt lấy EGF làm
giảm EGF trong máu và chậm thời gian phát triển của
khối u. Tuy nhiên, dữ liệu nghiên cứu về hai loại vắc
xin này mới chỉ giới hạn ở Cuba và Arghentina, cần
có thêm kết quả của các nghiên cứu đa trung tâm, đa
quốc gia khác để chứng minh khả năng của hai loại vắc
xin này.
Xạ trị ung thư: giá trị của điều trị tia xạ được tất cả
các nhà khoa học công nhận và là phương pháp điều
trị thiết yếu để đạt được kiểm soát tại chỗ. Sự phát triển
của kỹ thuật giúp nâng xạ trị từ hai chiều (mô phỏng
bằng phim X-quang) lên ba chiều (mô phỏng tái tạo nhờ
CT, mới nhất là mô phỏng với PET/CT) và gần đây là
xạ trị điều biến liều (IMRT). Xạ trị dưới hướng dẫn của
hình ảnh, xạ trị định vị thân, xạ phẫu định vị, xạ trị điều
biến thể tích quay. là một vài tiến bộ trong lĩnh vực xạ
trị mới xuất hiện trong thập kỷ vừa qua. Xạ trị áp sát và
xạ trị trong mổ là những phương thức tiếp cận mới đầy
hứa hẹn, cho phép đưa bức xạ trực tiếp tới khối u trong
thời gian ngắn hay thậm chí là trong quá trình phẫu
thuật, từ đó làm giảm việc mở rộng trường chiếu (giảm
bức xạ lên các cơ quan lành xung quanh) và điều trị tập
trung trong một lần (giảm thời gian điều trị), kết quả là
làm tăng chất lượng sống của bệnh nhân (kiểm soát
bệnh tốt mà ít tác dụng phụ, thời gian nằm viện ngắn,
khả năng phục hồi tốt hơn).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số ứng dụng công nghệ bức xạ trong chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 49
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
Hiện nay, ung thư là căn bệnh có tỉ lệ mắc và tử
vong rất cao trên toàn thế giới. Việc sàng lọc, chẩn
đoán sớm được bệnh ung thư là hết sức quan trọng để
tăng tỉ lệ chữa khỏi, giảm tỉ lệ tử vong, từ đó giảm gánh
nặng cho xã hội. Tiến bộ của các phương tiện ghi hình,
đặc biệt là ghi hình kết hợp (X-quang và y học hạt nhân)
như PET/CT, SPECT/CT, PET/MRI đóng một vai trò
quan trọng trong việc xác định đúng giai đoạn bệnh và
giúp lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu nhằm kéo dài
thời gian sống cho người bệnh. Kết quả điều trị ung thư
đã có những bước tiến đáng kể nhờ vào việc nghiên
cứu, ứng dụng các phương pháp điều trị cổ điển như
phẫu thuật nội soi, các phác đồ hóa chất kết hợp, xạ trị
điều biến liều, xạ trị điều biến thể tích, xạ trị định vị, xạ
phẫu, mô phỏng xạ trị bằng PET/CT, cấy hạt phóng xạ,
xạ trị trong mổ... cũng như việc tìm ra các phương pháp
điều trị mới như điều trị đích, điều trị miễn dịch, điều trị
miễn dịch phóng xạ, sử dụng proton và ion nặng. Ngày
nay, điều trị ung thư đã tiến tới điều trị theo cá thể nhờ
vào tiến bộ của các ngành hóa sinh miễn dịch, giải phẫu
bệnh, từ đó giúp xác định các đặc điểm cụ thể của ung
thư ở từng bệnh nhân. Việc chẩn đoán và điều trị ung
thư yêu cầu sự phối hợp của nhiều chuyên khoa khác
nhau như: chẩn đoán hình ảnh, y học hạt nhân, giải
phẫu bệnh, sinh hóa, miễn dịch, phẫu thuật, xạ trị, nội
khoa ung thư nhằm đạt được kết quả tốt nhất cho
người bệnh.
SUMMARY
Incidence and mortality rates of cancer are currently on the top of disease pattern and the number is increasing
and increasing worldwide. The impact of screening program for early diagnosis has been proved their important
roles in the war against cancer because it helps increase the cure rates, decrease the mortality and morbidity
rates, and therefore, reduce the economic-social burden. Advances in diagnostic imaging techniques, especially
the hybrid imaging (Xray and Nuclear Medicine) such as PET/CT, SPECT/CT, PET/MRI, is important in accurate
staging and these help choose the optimized treatment options to prolong survival while improve the quality of life.
The treatment outcomes of cancer has certain remarkable advances based on variety of researches to modify,
promote and strengthen the traditional treatments (surgery-chemotherapy-radiation) such as laparoscopic surgery,
combined chemo-regimens, intensity modulated radiation therapy, volumetric modulated arc therapy, stereotactic
radiation therapy, radiosurgery, PET/CT simulation, radioactive seeds implant, selective internal radiation therapy,
intraoperative radiation therapy, ... as well as the emerge of new methods such as targeted therapy, immunotherapy,
radioimmunotherapy, proton therapy and heavy ion. Treatment of cancer is now becoming the “invidualized treatment”
with advances in biochemistry and histophathology that helps identify characteristics of tumors individually . To
achieve the most optimal outcomes, cancer should be approached by a mulitprofessional team including biochemistry,
immunology, histopathology, surgical oncology, medical oncology and radiation oncology.
MỘT SỐ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ BỨC XẠ
TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH
UNG THƯ
Applications ofradiation technology in the diagnosis
and treatment of cancer
Mai Trọng Khoa*
* Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai
Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung
bướu, Bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201550
DIỄN ĐÀN
1. Tình hình mắc bệnh ung thư
Ung thư hiện là bệnh phổ biến nhất trong mô hình
bệnh tật và gây ra nhiều hậu quả nặng nề, làm tăng
gánh nặng kinh tế cho xã hội và cộng đồng, ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển của từng quốc gia. Theo
các thống kê về tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử vong do ung thư
từ dữ liệu của GLOBOCAN thuộc Cơ quan Nghiên
cứu ung thư quốc tế (IARC: International Agency for
Research on Cancer) cũng như của Đài quan sát y tế
toàn cầu (Global Health Observatory) thuộc Tổ chức Y
tế thế giới (WHO: World Health Organization) và báo
cáo triển vọng dân số thế giới của Liên hợp quốc thì tỉ
lệ mắc bệnh ung thư có xu hướng ngày càng gia tăng ở
cả các nước phát triển và đang phát triển. Các loại ung
thư được chẩn đoán, phát hiện nhiều nhất năm 2012 là
ung thư phổi, ung thư vú và ung thư đại tràng, trong khi
nguyên nhân tử vong phổ biến nhất là do ung thư phổi,
ung thư gan và ung thư dạ dày.
Tại Việt Nam, tỉ lệ được chẩn đoán ung thư mới
và tỉ lệ tử vong do ung thư năm 2012 lần lượt là 140,4
(khoảng 125.000 người) và 108,65 trên 100.000 dân,
tổng số tử vong do bệnh là 94,743. Nguy cơ mắc ung
thư trước tuổi 75 là 14,5%. Tỉ lệ tử vong do ung thư phổi
vẫn cao nhất và Việt Nam trở thành một trong những
nước có tỉ lệ tử vong rất cao do ung thư.
2. Một số tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh
ung thư
- Trong chẩn đoán
Như chúng ta đã biết, bệnh ung thư nếu được phát
hiện càng sớm thì tỉ lệ chữa khỏi và sống thêm càng
cao. Các nhà khoa học trên thế giới đều thống nhất
quan điểm rằng, các chương trình sàng lọc ung thư
sớm là một phần thiết yếu trong mọi hệ thống chăm sóc
sức khỏe của tất cả các quốc gia. Các chương trình
chụp X-quang vú hàng năm cho phụ nữ trên 40 tuổi,
nội soi đại tràng cho bệnh nhân nguy cơ cao, phiến đồ
âm đạo/cổ tử cung (test pap) định kỳ cho phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ hiện nằm trong các hướng dẫn sàng lọc
của tất cả các tổ chức y tế và đã chứng minh tác động
đáng kể của nó lên các bệnh ung thư này. Tiêu chuẩn
vàng để chẩn đoán bệnh ung thư chính là kết quả giải
phẫu bệnh từ các mô u/hạch. Cùng với sự tiến bộ của
chẩn đoán hình ảnh thì các kỹ thuật sinh thiết, giải phẫu
bệnh ngày càng chính xác hơn, an toàn hơn và phát
hiện khối u tốt hơn.
Sinh thiết khối u: sinh thiết ngoại biên thuộc nhóm
kỹ thuật sinh thiết qua da (percutaneous biopsy), bao
gồm các sinh thiết phần mềm vùng đầu - mặt cổ, thành
bụng, thành ngực, tuyến vú, tứ chi. Tổ chức cần sinh
thiết có thể là mô mềm hoặc mô xương. Phương tiện
chẩn đoán hình ảnh dẫn đường được ứng dụng trong
kỹ thuật sinh thiết phần mềm ngoại biên thường dùng
là siêu âm. Đối với sinh thiết xương, cột sống thì chụp
cắt lớp vi tính thường được sử dụng để làm phương
tiện dẫn đường. Sinh thiết tuyến vú có thể thực hiện
dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc X-quang tuyến vú.
Sinh thiết xuyên thành cũng thuộc nhóm kỹ thuật sinh
thiết qua da (percutaneous biopsy), được thực hiện để
lấy tổ chức từ các tạng trong lồng ngực hoặc ổ bụng.
Với những kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh từ 16, 32, 64,
256, 320... dãy cho phép chẩn đoán bệnh, giúp đánh
giá tổn thương u (T), tình trạng hạch (N) và di căn xa
(M). CT hay MRI định vị (navigation) thường là phương
tiện hướng dẫn sinh thiết được sử dụng nhiều nhất,
kể cả phẫu thuật sinh thiết định vị u não. Đối với các
tạng có tính chất di động cao như gan, lách, mạc treo,
ruột thì thường sử dụng siêu âm làm phương tiện dẫn
đường bởi siêu âm có tính chất tạo ảnh theo thời gian
thực (real-time imaging).
Từ năm 2000 trở lại đây, kỹ thuật sinh thiết trong
lòng (intraluminal biopsy) đã được áp dụng rộng rãi
trong y học thực hành ở nhiều trung tâm y khoa lớn
trên thế giới, bao gồm: sinh thiết trong lòng mạch (như
sinh thiết gan qua tĩnh mạch cảnh trong, sinh thiết thận
qua tĩnh mạch chủ) và sinh thiết trong lòng đường bài
xuất (như sinh thiết niêm mạc đường mật qua da, sinh
thiết niêm mạc niệu quản qua da).
Đối với một số các cơ quan như tai - mũi - họng,
dạ dày - thực quản - đại trực tràng thì sự tiến bộ của
phương pháp nội soi ống mềm, siêu âm nội soi giúp xác
định tổn thương ở giai đoạn sớm hơn và sinh thiết khối
u tốt hơn (thậm chí trong một số loại ung thư giai đoạn
sớm, chỉ cần nội soi cắt bỏ khối u là đủ).
Hóa sinh miễn dịch: xét nghiệm các chất chỉ điểm
khối u trong máu: CEA, PSA, CA125, CA72-4 là các
xét nghiệm quen thuộc trong thực hành lâm sàng ung
thư. Các chỉ số này có thể là giá trị quan trọng để định
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 51
DIỄN ĐÀN
Hình minh họa. Giá trị của PET/CT trong phát hiện tổn thương và lập kế hoạch xạ trị ở bệnh nhân ung thư
phổi. Bệnh nhân nam, 52 tuổi, chẩn đoán: U thùy trên phổi trái gây xẹp phổi. Trên CT không thể phân biệt được tổ
chức u với mô phổi xẹp. PET/CT phân biệt được rõ ràng, chỉ điểm vị trí tổn thương để sinh thiết và lập kế hoạch xạ
trị vào tổ chức u, tránh tổ chức phổi xẹp làm giảm thể tích xạ trị, giảm biến chứng do tia xạ. (Nguồn ảnh: Mai Trọng
Khoa. Atlat PET/CT một số bệnh ung thư ở người Việt Nam. Nhà xuất bản Y học, 2012).
hướng phát hiện bệnh khi mới chẩn đoán, hoặc theo
dõi tiến triển bệnh (đáp ứng, tái phát hoặc di căn). Tuy
nhiên, các chất chỉ điểm này còn chưa đặc hiệu với
bệnh.
Xét nghiệm tìm tế bào u lưu hành trong hệ tuần
hoàn (circulating tumour cells: CTCs) cũng giúp ích
nhiều trong việc chẩn đoán ung thư. Cho tới nay, Cục
Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) mới
chỉ thông qua phương pháp đếm CTCs trong máu toàn
phần là hệ thống Cell Search. Qua một số lượng lớn
các xét nghiệm lâm sàng sử dụng phương pháp này,
người ta thấy sự xuất hiện của CTCs là một yếu tố
tiên lượng mạnh đối với thời gian sống thêm toàn bộ ở
những bệnh nhân ung thư vú, đại trực tràng hay tuyến
tiền liệt di căn...
Mô bệnh học, tế bào học, di truyền học: sự phát
triển của các chuyên ngành cận lâm sàng như mô bệnh
học, tế bào học, di truyền học đã giúp việc điều trị bệnh
ung thư tiến một bước quan trọng trong việc lựa chọn
một cách chính xác nhất phương pháp điều trị mới cho
bệnh nhân, tiến tới “điều trị theo từng cá thể” hay “điều
trị cá thể hóa”. Các kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch
như: ER, PR, HER2 giúp đo lường, đánh giá trình
trạng các thụ thể trên bề mặt tế bào. Các kỹ thuật giải
trình tự gen (DNA sequencing) hay Scorpions ARMS
(Amplification Refractory Mutation System) giúp phát
hiện các gen đột biến: KRAS, EGFR, BRAF
Y học hạt nhân: sự phát triển của y học hạt nhân
cũng đóng góp không nhỏ trong việc chẩn đoán và điều
trị bệnh ung thư. Kỹ thuật SPECT hay PET kết hợp với
CT hoặc MRI hiện đang trở thành một công cụ thiết yếu
quan trọng cho ngành ung bướu như SPECT/CT, PET/
CT, PET/MRI. Lợi ích của việc ghi hình kết hợp là do CT
(hay MRI) cung cấp hình ảnh cấu trúc giải phẫu rõ nét,
còn PET cung cấp hình ảnh tổn thương ở giai đoạn rất
sớm (ở mức độ tế bào, mức độ phân tử). Do đó, PET/
CT cho hình ảnh kết hợp đồng thời và chồng gộp trong
một lần chụp với các ưu điểm của cả CT và PET, từ đó
giúp chẩn đoán bệnh ở giai đoạn rất sớm, chính xác,
tăng độ nhạy, độ đặc hiệu của kỹ thuật. PET/CT có giá
trị đặc biệt trong ung thư, như: chẩn đoán u nguyên
phát, hướng dẫn sinh thiết; phát hiện di căn, đánh giá
giai đoạn; dự báo đáp ứng điều trị; đánh giá đáp ứng
điều trị; phát hiện tái phát, di căn sau điều trị; mô phỏng
lập kế hoạch xạ trị.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201552
DIỄN ĐÀN
Ghi hình miễn dịch phóng xạ (RIS): nguyên lý của
phương pháp này là dùng kháng thể đơn dòng (KTĐD)
đã được đánh dấu đồng vị phóng xạ phát tia gamma
(g), positron... để kết hợp với kháng nguyên (KN) tương
ứng có ở tế bào ung thư và tạo ra phức hợp (KN-KTĐD).
Sau đó, khối u sẽ trở thành nguồn phát tia phóng xạ
và giúp ta ghi được hình ảnh đặc hiệu của khối ung
thư. Nhiều loại đồng vị phóng xạ được dùng trong RIS
là 131I, 123I, 111In, Tc-99m, 18F RIS giúp phát hiện các
khối u ác tính tại chỗ và di căn, đánh giá hiệu quả điều
trị, tái phát, là cơ sở để tính liều điều trị. Ghi hình RIS
với SPECT, SPECT/CT và với PET hay PET/CT được
gọi là ghi hình miễn dịch PET (immuno-PET). RIS và
Immuno-PET, PET/CT có độ nhạy và độ đặc hiệu cao
vì phối hợp được: độ đặc hiệu cao của phản ứng miễn
dịch (KTĐD-KN) và tính chính xác của phép đo phóng
xạ (KTĐD đánh dấu phóng xạ). RIS là kỹ thuật ghi hình
có độ chính xác cao, ở mức độ phân tử, mức độ tế bào.
- Trong điều trị
Việc điều trị khá phức tạp và đa phần là phải phối
hợp nhiều phương pháp. Các phương pháp điều trị
ung thư hiện nay vẫn bao gồm ba phương pháp cổ
điển: phẫu thuật - hóa chất - xạ trị. Ngoài ra, còn có
các phương pháp mới như điều trị trúng đích, điều trị
nội tiết, quang động học (photodynamic therapy), gen
trị liệu (gene therapy), điều trị tế bào gốc (stem cell
therapy), điều trị miễn dịch phóng xạ (Radioimmuno
therapy - RIT), điều trị bằng bức xạ proton, điều trị bằng
ion nặng, điều trị bằn kỹ thuật cấy hạt phóng xạ (điều trị
ung thư gan bằng hạt vi cầu phóng xạ Y-90, điều trị ung
thư tuyến tiền liệt bằng ccays hạt phóng xạ I-125...),
điều trị miễn dịch (vắc xin ung thư)...
Các tiến bộ trong điều trị nội khoa ung thư đã đưa
tới khả năng kiểm soát bệnh toàn thân tốt hơn. Hóa
chất bổ trợ và điều trị nội tiết trở thành một phần quan
trọng của điều trị và đã mang lại lợi ích đáng kể về thời
gian sống thêm ở các bệnh nhân ung thư vú, đại tràng
và phổi... Gần đây nhất, với sự phát triển của các điều
trị sinh học phân tử trúng đích với hiệu quả điều trị cao,
giảm tác dụng phụ so với điều trị hóa chất truyền thống
đã tạo ra một xu hướng mới trong cuộc chiến chống lại
căn bệnh ác tính này. Các chất ức chế Her 2 đối với
ung thư vú, Imatinib đối với u mô đệm dạ dày - ruột,
các chất ức chế BRAF với u hắc tố, các chất ức chế
men tyrosine kinase của thụ thể yếu tố phát triển biểu
bì (EGFR) chỉ là một số ví dụ về các điều trị trúng đích
hiện trở thành điều trị chuẩn.
Điều trị tân bổ trợ hiện đang được sử dụng để
giảm giai đoạn bệnh, giúp tăng tỉ lệ điều trị khỏi và kéo
dài thời gian sống thêm không tiến triển bệnh (PFS)
cũng như thời gian sống thêm toàn bộ. Hóa chất và xạ
trị cũng như điều trị nội tiết đối với một số loại ung thư
phụ thuộc vào nội tiết được sử dụng tiền phẫu đã cho
thấy giảm phạm vi xâm lấn của khối u, tăng số lượng
bệnh nhân có thể phẫu thuật được mà không cần phải
cắt toàn bộ cơ quan bị bệnh. Có thể tóm tắt một số tiến
bộ của các phương pháp điều trị ung thư như sau:
- Phẫu thuật: phẫu thuật nội soi, phẫu thuật dưới
hỗ trợ của hình ảnh (video), phẫu thuật robot
- Xạ trị: xạ trị 3D, xạ trị điều biến liều (intensity
modulated radiation therapy - IMRT), xạ trị điều biến thể
tích (volumetric modulated arc therapy - VMAT), cấy hạt
phóng xạ, xạ trị áp sát, xạ phẫu, mô phỏng xạ trị bằng
PET/CT, xạ trị trong mổ, ion nặng (heavy ion), xạ trị
trong chọn lọc (điều trị ung thư bằng vi cầu phóng xạ)
- Hóa trị: thuốc hóa chất thế hệ mới (nano), các
phương pháp đưa thuốc vào tận khối u (nút mạch bằng
hóa chất), các phác đồ phối hợp hóa chất, điều trị bổ
trợ và tân bổ trợ, kết hợp với thuốc điều trị đích và các
phương pháp khác.
- Điều trị cá thể hóa hay điều trị theo từng cá nhân:
kháng thể đơn dòng, thuốc phân tử nhỏ, miễn dịch
phóng xạ, vắc xin trong điều trị bệnh ung thư.
Phẫu thuật ung thư: là một trong những lĩnh vực
phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ vừa qua và
có nhiều thay đổi đáng kể. Đầu thế kỷ XX, quan điểm
trong phẫu thuật ung thư là cố gắng mổ cắt bỏ càng
nhiều càng tốt, ở mức tối đa mà cơ thể bệnh nhân có
thể chịu được để có thể kiểm soát được bệnh (điều
này dẫn tới các can thiệp quá mức và không cần thiết,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân cũng như các biến chứng, di chứng
sau mổ). Đến những năm 90 của thế kỷ trước khi các
nhà khoa học phát hiện ra ảnh hưởng của di căn xa thì
quan niệm ngược lại đã xuất hiện, tức là các nhà phẫu
thuật cố gắng tìm được phương pháp can thiệp tối thiểu
nhất mà vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị và tăng chất
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 53
DIỄN ĐÀN
lượng cuộc sống cho người bệnh. Các phương thức
phẫu thuật mới nhất là phẫu thuật nội soi (laparoscopic)
hay phẫu thuật dưới hỗ trợ của video (video-assisted
surgery) và phẫu thuật robot (robotic surgery)... Các
phương pháp này đều nhờ vào cuộc cách mạng công
nghệ, cho phép bác sĩ phẫu thuật tiếp cận được các
khoang trong cơ thể và phẫu thuật ở bên trong nhờ sử
dụng các thiết bị chuyên dụng chính xác.
Điều trị hóa chất: nhờ có hóa chất mà kết quả điều
trị bệnh ung thư đã cải thiện một cách đáng kể, tuy
nhiên vẫn còn nhiều loại ung thư rất khó kiểm soát,
kháng với điều trị, dễ tái phát. Bên cạnh đó, tác dụng
phụ của hóa chất còn khá lớn, ảnh hưởng nặng nề đến
cuộc sống của bệnh nhân. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu các thuốc hóa chất mới sử dụng các công nghệ
mới như công nghệ nano giúp đưa thuốc vào tế bào ung
thư một cách chọn lọc hơn (Doxil là các hạt liposome
chứa doxorubicin, DaunoXome chứa daunorubicin) hay
phát triển các thuốc làm giảm tác dụng phụ của hóa
chất [dexrazoxane (Zinecard®) bảo vệ tim, amifostine
(Ethyol®) bảo vệ thận, và mesna bảo vệ bàng quang],
hoặc các thuốc có tỷ lệ kháng thuốc thấp sẽ giúp tăng
hiệu quả của điều trị hóa chất. Các nghiên cứu lâm
sàng cũng tập trung nhiều vào việc tìm ra các phác đồ
kết hợp và liều lượng điều trị tối ưu của thuốc hóa chất
cho từng loại ung thư.
Điều trị cá thể hóa hay điều trị theo từng cá nhân:
tức là sử dụng các thông tin về kiểu hình gen và sinh
học khối u để đưa ra các chiến lược phòng ngừa, sàng
lọc, điều trị bệnh hiệu quả hơn và ít tác dụng phụ hơn
so với điều trị chuẩn hiện nay. Các chiến lược điều trị
sẽ được điều chỉnh cho phù hợp nhất với từng người
bệnh. Một kế hoạch sàng lọc và điều trị cá thể hóa bao
gồm các nội dung: (1) xác định nguy cơ người bệnh
có khả năng bị ung thư và xây dựng các chiến lược hạ
thấp nguy cơ; (2) đưa ra điều trị phù hợp nhất và (3)
tiên lượng khả năng tái phát.
Gần đây, các nhà khoa học Cuba và Arghentina đã
công bố hai loại vắc xin điều trị ung thư phổi là CIMAvax
EGF và Racotumomab (Vaxira). CIMAvax EGF gồm hai
protein trong đó có EGF (yếu tố phát triển biểu bì), vắc
xin này kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể sinh
ra kháng thể có khả năng nhận ra và bắt lấy EGF làm
giảm EGF trong máu và chậm thời gian phát triển của
khối u. Tuy nhiên, dữ liệu nghiên cứu về hai loại vắc
xin này mới chỉ giới hạn ở Cuba và Arghentina, cần
có thêm kết quả của các nghiên cứu đa trung tâm, đa
quốc gia khác để chứng minh khả năng của hai loại vắc
xin này.
Xạ trị ung thư: giá trị của điều trị tia xạ được tất cả
các nhà khoa học công nhận và là phương pháp điều
trị thiết yếu để đạt được kiểm soát tại chỗ. Sự phát triển
của kỹ thuật giúp nâng xạ trị từ hai chiều (mô phỏng
bằng phim X-quang) lên ba chiều (mô phỏng tái tạo nhờ
CT, mới nhất là mô phỏng với PET/CT) và gần đây là
xạ trị điều biến liều (IMRT). Xạ trị dưới hướng dẫn của
hình ảnh, xạ trị định vị thân, xạ phẫu định vị, xạ trị điều
biến thể tích quay... là một vài tiến bộ trong lĩnh vực xạ
trị mới xuất hiện trong thập kỷ vừa qua. Xạ trị áp sát và
xạ trị trong mổ là những phương thức tiếp cận mới đầy
hứa hẹn, cho phép đưa bức xạ trực tiếp tới khối u trong
thời gian ngắn hay thậm chí là trong quá trình phẫu
thuật, từ đó làm giảm việc mở rộng trường chiếu (giảm
bức xạ lên các cơ quan lành xung quanh) và điều trị tập
trung trong một lần (giảm thời gian điều trị), kết quả là
làm tăng chất lượng sống của bệnh nhân (kiểm soát
bệnh tốt mà ít tác dụng phụ, thời gian nằm viện ngắn,
khả năng phục hồi tốt hơn).
Liên quan tới xạ trị cần quan tâm tới kỹ thuật PET/
CT mô phỏng lập kế hoạch xạ trị. Việc xác định chính
xác thể tích điều trị (target volume) luôn là mục tiêu đặc
biệt quan trọng quyết định chất lượng của xạ trị. Để mô
phỏng lại khối u trong cơ thể bệnh nhân và xác định
được các thể tích đích: thể tích khối u thô (GTV: Gross
tumor volume), thể tích đích lâm sàng (CTV: clinical
target volume), thể tích điều trị (PTV: planning target
volume), người ta có thể dùng CT mô phỏng tạo ra hình
ảnh không gian 3 chiều. Kỹ thuật này phổ biến tại đa
số các cơ sở xạ trị, tốt hơn mô phỏng bằng X-quang
nhưng nó cũng còn một số hạn chế. Chính vì vậy, kỹ
thuật mô phỏng với PET/CT có tất cả hình ảnh CT và
PET sẽ giúp khắc phục được các nhược điểm của CT
mô phỏng; phát hiện tổn thương ở mức phân tử, độ
chính xác cao, có khả năng xác định mật độ tế bào ung
thư cũng như vùng khối u thiếu oxy (là vùng kháng với
tia xạ), giúp phân bố liều xạ tốt hơn (chỉ định xạ bổ sung
liều cho vùng khối u thiếu oxy). Ngoài ra, PET/CT mô
phỏng còn giúp phân biệt chính xác tổ chức lành (ví dụ
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201554
DIỄN ĐÀN
như vùng xẹp phổi và khối u), từ đó tránh tia xạ quá mức vào tổ chức lành, thể tích đích sinh học (BTV: biological
target volume) xác định nhờ PET/CT giúp giảm thể tích xạ trị, giảm biến chứng. Kỹ thuật PET/CT mô phỏng đã được
tiến hành ở một số nước phát triển như Mỹ, Đức, Ý, Úc
Tháng 8.2009, Trung tâm Y học Hạt nhân - Ung bướu (Bệnh viện Bạch Mai) là nơi đầu tiên ứng dụng thành
công kỹ thuật PET/CT mô phỏng cho lập kế hoạch xạ trị gia tốc (3D và IMRT: xạ trị điều biến liều) và cho đến nay
đã có gần 800 bệnh nhân được mô phỏng nhờ PET/CT tại Trung tâm, góp phần vào khả năng điều trị thành công
bệnh ung thư.
Hình CT: Không nhìn thấy u
để lập kế hoạch xạ trị
Hình PET: tổn thương tăng hấp thu
FDG, max SUV= 8.
Hình PET/CT: dễ dàng xác định
được BTV để lập kế hoạch xạ trị.
Kế hoạch xạ trị Sau xạ trị, u tan hết, bệnh nhân hết ho máu
Hình minh họa. So sánh hình ảnh CT và PET/CT chẩn đoán và trong lập kế hoạch xạ trị bệnh nhân ung thư
phổi. Bệnh nhân nam, 65 tuổi, chẩn đoán: Ung thư phổi T1NoMo (Giải phẫu bệnh: Ung thư biểu mô vảy). Bệnh
nhân từ chối phẫu thuật. Hướng điều trị: hóa xạ trị. Trên hình chụp CT 64 dãy không xác định được u để lập kế
hoạch xạ trị. Bệnh nhân được chỉ định chụp PET/CT mô phỏng để đánh giá toàn thân và lập kế hoạch xạ trị. Kết
quả: PET phát hiện được và định vị vị trí tổn thương u một cách chính xác cho việc lập kế hoạch xạ trị. (Nguồn ảnh:
Mai Trọng Khoa, Nguyễn Xuân Kử. Một số tiến bộ về kỹ thuật xạ trị ung thư và ứng dụng trong lâm sàng. Nhà xuất
bản Y học, 2012).
3. Kết luận
Hiện nay có rất nhiều tiến bộ, đặc biệt là các kỹ
thuật hiện đại ứng dụng năng lượng bức xạ để chẩn
đoán và điều trị bệnh ung thư, từ đó đã tăng được tỉ
lệ chẩn đoán sớm bệnh ung thư, tăng tỉ lệ điều trị khỏi
bệnh, tăng thời gian sống thêm và nâng cao chất lượng
sống cho người bệnh. Tại Việt Nam, một số kỹ thuật
như PET/CT, PET/CT mô phỏng lập kế hoạch xạ trị,
xạ phẫu (bằng dao gamma quay, Cyber Knife...), xạ trị
trong mổ, cấy hạt phóng xạ, điều trị nút mạch vi cầu
phóng xạ, xét nghiệm đột biến gen đã ngang hàng
các nước trong khu vực và một số nước trên thế giới.
Những tiến bộ này đã góp phần nâng cao hơn chất
lượng chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung thư ở Việt
Nam.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 55
DIỄN ĐÀN
1. Mai Trọng Khoa, Nguyễn Xuân Cử. Một số tiến
bộ về kỹ thuật xạ trị ung thư và ứng dụng lâm sàng. Nhà
Xuất bản Y học (2012).
2. Mai Trọng Khoa. Atlas PET/CT một số bệnh ung
thư ở người Việt Nam. Nhà Xuất bản Y học (2012).
3. Cai J., Ma H., Huang F., et al. Correlation of
bevacizumab-induced hypertension and outcomes
of metastatic colorectal cancer patients treated with
bevacizumab: a systematic review and meta-analysis.
World Journal of Surgical Oncology 2013; 11:306.
4. Flaherty K.T., Infante J.R., Daud A. et al.
Combined BRAF and MEK inhibition in melanoma
with BRAF V600 mutations. New England Journal of
Medicine 2012; 367(18):1694-1703.
5. Gore L., DeGregori J., Porter C.C. Targeting
developmental pathways in children with cancer: what
price success? Lancet Oncology 2013; 4(2):e70-78.
6. Petrelli F., Borgonovo K., Cabiddu M., Lonati V.,
Barni S. Relationship between skin rash and outcome
in non-small-cell lung cancer patients treated with anti-
EGFR tyrosine kinase inhibitors: A literature-based
meta-analysis of 24 trials. Lung Cancer 2012; 78(1):8-
15.
7. Umberto Veronesi, Vaia Stafyla. Grand
Challenges in Surgical Oncology; Front Oncol. 2012; 2:
127.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_ung_dung_cong_nghe_buc_xa_trong_chan_doan_va_dieu_tri.pdf