Mục lục
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại.
1.1 Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế
1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu
1.1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
1.2.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhậpkhẩu .
1.2.1.1. Khái niệm.
1.2.1.2. Vai trò.
1.2.2. Các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.
1.3. Các yếu tố ảnh hưỡng tới hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu củaNHTM ở Việt Nam.
Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNTHà Nội .
2.1. Khái quát về NHNT Hà Nội .
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội .
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội .
2.1.3. Tình hình 1 số hoạt động kinh doanh chính của NHNT Hà Nội .
2.1.3.1. Về huy động vốn.
2.1.3.2. Về cho vay.
2.1.3.3. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội .
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu nhập khẩu tại Ngân hàngngoại thương Hà Nội
2.3.1 Những mặt đạt được
2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tạiNHNT Hà Nội
3.1 Phương hướng hoạt động và nhiệm vụ công tác năm 2003 của NHNT HàNội
3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội
3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành
3.2.2 Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK
3.2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng
3.2.4. Chính sách khách hàng
3.3. Kiến nghị
3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô
3.3.2. Đối với NHNT Việt Nam
3.3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK
75 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1752 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
49
tâm lý khách hàng không muốn đưa tài sản thế chấp ra bán tại các trung tâm.
Bên cạnh đó, phần lớn các DNNN chưa được cấp giấy chứng từ nhận chủ
truyền tài sản thuộc quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, việc đảm bảo bằng
tài sản của các DNNN chỉ mang tính hình thức, nên khi doanh nghiệp không
có khả năng hoàn trả được nợ thì việc xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng sẽ
rất khó khăn, không để giải quyết nhanh chóng và thời gian kéo dài, dẫn đến ứ
đọng vốn trong kinh doanh của Ngân hàng.
- Các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu còn quá đơn điệu chủ yếu
là tổ chức cổ điển, chưa áp dụng hình thức cho vay mới như bao thanh toán,
cho thuê tài chính,... làm giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hơn nữa, tron
gkhi cho vay lại quá tập trung vào khâu lưu thông vì vậy rủi ro rất lớn.
- Chi nhánh vẫn chưa có cơ sở bảo quản hàng hoá, chưa nắm được các
lô hàng thế chấp một cách chắc chắn. Do vậy, khi khách hàng cố tình không
hoàn trả nợ thì chi nhánh đành chịu.
- Công tác đào tạo cán bộ còn chưa kịp với yêu cầu và nhiệm vụ mới,
các cán bộ xử lý nghiệp vụ còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm như cho vay vượt
quá quyền hạn giải quyết, cho vay không thẩm định kỹ (không có tài sản thế
chấp hoặc nếu có lại không tự quản lý mà để khách hàng quản lý, thậm chí mở
L/C không đưa hết các điều kiện hợp đồng...), nắm bắt thông tin chưa nhanh
nhạy theo kịp biến động của thị trường dẫn đến tình trạng chi nhánh luôn phải
đối phó với sự lừa dảo khi thực hiện hợp đồng tín dụng tài trợ XNK. Đây là
một trng những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, những vụ việc đổ vỡ
gây ảnh hưởng đến uy tín của chi nhánh.
- Bên cạnh đó, phương thức quản lý các món vay XNK ở Ngân hàng
chưa hợp lý. Quyết định và quản lý các món vay ở NHNT Hà Nội là phân
công đều cho các cán bộ tín dụng. Điều này có lợi là mở rộng tầm hiểu biết
cho các cán bộ tín dụng sang lĩnh vực XNK. Nhưng như thế sẽ gây cản trở lớn
cho các món vay được thực hiện có hiệu quả vì để thực hiện một khoản vay
tín dụng XNK đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu biết sâu về thị trường, luật
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
50
pháp quốc tế của các nước về hoạt động XNK. Ngoài ra, chi nhánh vẫn chưa
hạch toán độc lập kết quả tín dụng XNK với hoạt động tín dụng khác mặc dù
hoạt động tín dụng tài trợ XNK là nhiệm vụ chính của Ngân hàng. Điều này
cũng ảnh hưởng phần nào đến việc đánh giá kết quả kinh doanh và vạch ra
phương hướng của hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại Ngân hàng trong thời
gian tới.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang có xu hướng chuyể dịch các nghiệp
vụ tài trợ XNK sang các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh,
Ngân hàng cổ phần thương mại. Do vậy, chi nhánh phải chịu sự cạnh tranh
khốc liệt. Nhiều dự án có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê, hải sản...
đã rơi vào chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Điều dó đã ảnh hưởng rất nhiều
đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội.
2/ Nguyên nhân
a- Nguyên nhân khách quan
Hệ thống NHNT ra đời tư cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, cơ
chế thị trường đang hình thành với nhiều thử thách và phức tạp. Hậu quả của
khủng hoảng kinh tế xã hội, sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng năm 1989 đã để
lại trong xã hội một tư tưởng nặng nề về tâm lý. Lưu thông hàng hoá tiền tệ
chậm, một loạt doanh nghiệp phá sản. Các chính sách Nhà nước thiếu đồng bộ,
môi trường pháp lý không đảm bảo an toàn kinh doanh. Từ sau đổi mới, bên
cạnh các nhân tố tích cực, hàng loạt các yếu tố tiêu cực xuất hiện cùng với sự
bung ra của sản xuất xã hội, nhiều công ty, xí nghiệp hữu danh vô thực ra đời
tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản Ngân hàng.
Thứ nhất: Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ nên đã gây ra những
khó khăn vướng mắc cho chi nhánh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các
NHNT hiện nay hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật Ngân hàng và các tổ
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
51
chức tín dụng, hệ thống luật và dưới luật của chính phủ. Một số quy định trong
luật còn xa rời với thực tiễn như:
- Thể lệ tín dụng của các Ngân hàng còn nhiều vướng mắc. Thứ nhất,
không cho phép doanh nghiệp có nợ quá hạn vay. Đối với các doanh nghiệp
khi gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì vốn là vấn đề giải quyết mọi
ách tắc lại không được đáp ứng. Ngân hàng cho vay để cứu doanh nghiệp nếu
thành công thì có thành tích, còn nếu rủi ro thì bị truy tội cố ý làm trái hoặc ít
nhất cũng là thiếu tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, theo quy định, nếu NHNT
nào thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C mà phát sinh nợ quá hạn thì sẽ
không được thực hiện nghiệp vụ này cho đến khi giải quyết song số nợ quá
hạn đó. Chính vì vậy, trong năm 1991, NHNT Hà Nội có nợ quá hạn phát sinh
từ nghiệp vụ này nên đến nay Ngân hàng vẫn chưa được thực hiện các nghiệp
vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm do chưa thu hồi được nợ.
- Quy chế chính sách của Nhà nước trong việc xử lý tài sản thế chấp còn
nhiều bất cập như Ngân hàng không thể tự đứng ra bán tài sản thế chấp để thu
nợ mà phải được sự đồng ý và có giấy uỷ quyền của tài sản. Trên thực tế, khi
gặp con nợ chây ỳ không hợp tác thì Ngân hàng chỉ còn cách khởi kiện tại toà
án. Việc xử lý sẽ kéo dài thậm chí đi đến chỗ bế tắc nếu con nợ liên quan đến
vụ án hình sự hoặc bỏ trốn. Theo quy định thì Ngân hàng chỉ được giải chấp
tài sản nếu người vay trả hết nợ hoặc có tài sản thế chấp bổ sung cho khoản nợ
còn thiếu. Tuy nhiên, đại đa số khách hàng yêu cầu Ngân hàng giải chấp để họ
tự bán tài sản trả nự Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản trả nợ Ngân hàng,
trong khi trị giá bán tài sản thế chấp thấp hơn nhiều so với nợ vay và nguồn
vay không có tài sản nào khác để thế chấp cho Ngân hàng, hoặc họ đã ngừng
sản xuất kinh doanh chuẩn bị phá sản.
+ Quy chế lập quỹ dự phòng rủi ro không phù hợp. Quỹ dự phòng rủi ro
được hình thành từ lợi nhuận ròng, tổ chức tín dụng trong khi lợi nhuận của
Ngân hàng còn thấp chưa kể một số Ngân hàng bị thua lỗ. Tỷ lệ này là 10% thì
quá tháp không hể đủ bù đắp rủi ro tín dụng và sự mất mát của các tài sản có
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
52
của Ngân hàng. Mặt khác, theo quy định, quỹ rủi ro chỉ được bù đắp cho các
nguyên nhân khách quan, trong khicác kết hợp khoản rủi ro do nguyên nhân
khách quan thì phần lớn không thu hồi đủ vốn sau khi truy cứu trách nhiệm bồi
thường dẫn đến mất vốn của Ngân hàng mà thực chất là tiền gửi khách hàng
và khả năng thanh toán của Ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng tài trợ XNK liên quan đến nhiều ban ngành trong
nước như Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Bộ công nghiệp Việt Nam... Vì
vậy, nó chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn có sự đan
chéo, gây nhiều khó khăn cho các quyết định của trọng tài quốc tế trong nước
và vụ kiện.
+ Chính sách ngoại thương của Nhà nước chưa thực sự nhất quán. Nhiều
hình thức cấp bách ban hành chưa lâu đã thay đổi, lúc thì khuyến khích nhập
khẩu mặt hàng này, lúc thì cấp hạn ngạch thuế cao để hạn chế nó. Điều này
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến những
rủi ro cho hoạt động Ngân hàng như ứ đọng vốn, không thu hồi được vốn về.
Thứ hai: Chính sách lãi suất và tỷ giá
Lãi suất cho vay vẫn là vấn đề bức xúc khiến hệ thống Ngân hàng ta
phải tập trung giải quyết. Mặc dù đã tổ chức được nhiều cuộc thảo luận xoay
quanh vấn đề này song cho đến nay lãi suất cho vay của hệ thóng Ngân hàng
nước ta vẫn còn cao so với chi phí lạm phát và lãi suất trên thị trường khu vực.
Trong điều kiện tỷ giá ổn định nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận nợ quá hạn
ngoại tệ để sử dụng ngoại tệ ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng. Ngoại tệ thông
qua NHTM đã biến thành nội tệ. Doanh nghiệp kiểm soát của Ngân hàng.
Ngoại tệ NHTM đã biến thành nội tệ. Doanh nghiệp lợi dụng điều này để kinh
doanh trên lưng Ngân hàng với hình thức tinh vi như cho doanh nghiệp khác
vay thậm chí là cho chính Ngân hàng vay lại một nội tệ với lãi suất cao để
hưởng chênh lệch. Tất cả điều này đều tạo ra rủi ro tiền mặt cho nguồn vốn
hoạt động của Ngân hàng, kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
53
Thứ ba: Môi trường kinh doanh
Hiện nay, điều kiện Việt Nam chưa cho phép mở rộng các hình thức tín
dụng XNK:
+ Thương phiếu là công cụ cổ điển được sử dụng lâu đời trong quan hệ
thương mại ở các nước phát triển, nhưng đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa được
sử dụng.
+ Thị trường hối đoái chưa phát triển, các nghiệp vụ mà các Ngân hàng,
nhà xuất khẩu có thể tham gia để phòng tránh rủi ro như forward, options,
future chưa hình thành.
+ Nhà nước chưa có chính sách, chiến lược đủ mạnh ủng hộ hoạt động
XNK như cung cấp thông tin, phát triển mạng lưới tin học, viễn thông tạo tiền
đề cho hoạt động XNK.
Bên cạnh đó, trong năm 2002, hoạt động kinh tế của cả nước nói chung và thủ
đô Hà Nội nói riêng tiếp tục chịu ảnh hưởng của những khó khăn của kinh tế
thế giới. Thị trường trong nước có sức mua giảm sút, hàng hoá chậm luân
chuyển tạo ra nguy cơ giảm phát trong nền kinh tế. Kinh tế đôi ngoại có một
số khó khăn mới: thị trường XNK giá cả giảm sút, đầu tư nước ngoài bị thu
hẹp... đã tác động lớn đến hoạt động Ngân hàng. Đặc biệt đối với NHNT Hà
Nội, điều này còn khó khăn hơn nhiều vì hầu hết các doanh nghiệp đều là kinh
tế địa phương với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, khả năng hấp thụ vốn
thấp...
Tỷ giá một đồng ngoại tệ thay đổi thất thường, đặc biệt tỷ giá đồng đô la
tăng nhanh ảnh hưởng đến nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác
một số mặt hàng nông sản xuống giá liên tục cũng ảnh hưởng lớn đến xuất
khẩu và kết quả kinh doanh của các đơn vị xuất khẩu gặp khó khăn.
Thứ tư: Thiên tai lũ lụt
Thiên tai lũ lụt hạn hán cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng cho
doanh nghiệp, nó đem lại thiệt hại về kinh tế và e ngại về tâm lý cho các tổ
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
54
chức kinh doanh và cá nhân. Những thiệt hại này khiến cho các doanh nghiệp
vốn đã làm ăn không hiệu quả để trả gốc lẫn lãi cho khoản vay khi đến lại càng
gặp khó khăn nghiêm trọng hơn. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng
lên làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Thứ năm: Về phía doanh nghiệp XNK
+ Vốn tự có của doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ: phần lớn các doanh
nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tồn tại và hoạt
động dựa vào nguồn vón Ngân hàng là chính. Vì vậy, khi được Ngân hàng cho
vay thì lợi nhuận sinh lời không đủ trả lãi cho Ngân hàng. Ngoài ra còn vì
nhiều doanh nghiệp có vốn tự có thấp nhưng Ngân hàng bắt buộc phải cho vay
để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Và khi các doanh nghiệp này làm ăn
không có hiệu qủa thì Ngân hàng phải tự ganh chịu rủi ro.
+ Phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không hợp lý: Sự bất
hợp lý thể hiện qua việc nghiên cứu thị trường, dự đoán mức tiêu thụ không
chính xác, đán giá lại công suất, máy móc không khớp với nguyên liệu đầu vào
dẫn đến không hoàn thành lịch trả nợ cho Ngân hàng. Các doanh nghiệp nhập
máy móc thiết bị bằng trả chậm còn nhiều vốn xây dựng cơ bản do ngân sách
Nhà nước cấp. Song do nguồn vốn này được cấp không đúng hạn hoặc bị cắt
giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công, ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ đúng han của doanh nghiệp.
+ Do mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, kiến thức của
doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về hợp đồng thương mại còn hạn chế gây
bất lợi cho Ngân hàng (doaNgân hàng nghiệp bị ép mua với giá cao, chất
lượng không đảm bảo, công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ, quy định phương án
trả nợ không hợp lý dẫn đến nguồn thu không được bù đắp và trả nợ Ngân
hàng). Ngoài một số doanh nghiệp còn không thực hiện đúng cam kết khi vay
vốn như không mua bảo hiểm tài sản, sử dụng vốn sai mục đích.
b- Nguyên nhân chủ quan
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
55
Thứ nhất : Năng lực cho vay của Ngân hàng
Do NHNT Hà Nội là chi nhánh trực thuộc NHNT Việt Nam nên phần
lớn những dự án cho vay tài trợ XNK của Ngân hàng đều phải thôngqua
NHNT Việt Nam xem xét và quyết định. Đồng thời theo quy định, NHNT Hà
Nội chỉ được cho vay đối với các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Nhưng
phần lớn những doanh nghiệp này lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cũng rất
hạn chế quy mô cho vay của Ngân hàng.
Thứ hai: Trình độ bất cập của cán bộ Ngân hàng trong kinh tế thị trường
Nhận thức về bản chất tín dụng không đầy đủ dẫn đến đơn giản, sơ sài trong
chấp hành quy định. Cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về pháp luật, thể
lệ tập bán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng
được nhu cầu nghiệp vụ. Một cán bộ quản lý tín dụng XNK nếu tính theo dư
nợ thì bằng hàng chục cán bộ quản lý cho vay hộ sản xuất (năm 2000, dư nợ
cho vay XNK tại chi nhánh chiếm 71% tổng dư nợ), điều đó thể hiện hiệu quả
đầu tư XNK nhưng trái lại cũng thể hiện khả năng rủi ro lớn nếu như cán bộ
tín dụng đó không được trang bị đầy đủ kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm
đạo đức kinh doanh. Ngân hàng chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực
khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nên lúng túng trong việc thẩm định các dự
án lớn, nhất là các dự án năng suất có vốn đầu tư và nhập khẩu thiết bị nước
ngoài. Thực trạng đội ngũ cán bộ tín dụng NHNT Hà Nội hiện nay là vấn đề
đáng được lưu tâm, số cán bộ có thâm niên trên 10 năm thì chưa được đào tạo
lại để có đủ kiến thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, số cán bộ mới vào thì
còn thiếu kinh nghiệm và tri thức thực tế trong thị trường chằng chịt những
mối quan hệ phức tạp.
Thứ ba: Chấp hành thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ
Những trường hợp rủi ro trong tín dụng có nguyên nhân quan trọng là
việc chấp hành không nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ của
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
56
cán bộ Ngân hàng. Thể hiện trong việc thẩm định và lập hồ sơ vay vốn. Có
trường hợp cán bộ lập hồ sơ giải khai tăng tài sản thế chấp để rút vốn Ngân
hàng và vay ké, là kết quả của hai nguyên nhân sâu xa sau đây:
+ Việc xác định giá trị tài sản thế chấp do cán bộ Ngân hàng t hực hiện
mang tính chủ quan.
+ Việc lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc
lập với chức năng tín dụng.
Quản lý nợ vay còn thể hiện và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách
độc lập với chức năng tín dụng.Quản ý nợ vay còn thể hiện thiếu trách nhiệm,
gia h ạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ, đảo nợ nội tệ
với ngoại tệ (vay đồng tiền này để trả nợ đồng tiền khác), dẫn đến tình trạng
nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn Ngân hàng ngày càng lớn.
Thứ tư: Cơ sở vật chất và giờ làm việc
Chi nhánh NHNT Hà Nội xây dựng trụ sở năm 1992. Sang năm 2001,
trụ sở đã trở nên chật chội. Điều này trước tiên sẽ ảnh hưởng đến tâm lý khách
hàng. Khách hàngđến với Ngân hàng sẽ tin cậy hơn nếu Ngân hàng có cơ sở
vật chất tốt. Song ở đây phòng tín dụng không đủ diện tích để kê bàn tiếp
khách. Hơn nữa, cơ sở vật chất như vậy sẽ ảnh hưởng đến điều kiện làm việc
của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, giờ làm việc của chi nhánh sẽ không cạnh tranh được với
Ngân hàng nước ngoài. Vì vậy Ngân hàng đóng cửa vào lúc 16 giờ trong khi
giờ đóng cửa của hàng nước ngoài là 18 giờ.
Trong thời gian tới, nếu chi nhánh NHNT Hà Nội khắc phục được
những tồn tại sau đây thì chi nhánh sẽ luôn là người bạn tin cậy của khách
hàng trong lĩnh vực tài trợ XNK nói riêng và lĩnh vực kinh doanh nói chung
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
57
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ
RỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NHNT HÀ
NỘI
3.1 Phương hướng hoạt động công tác nhiệm vụ công tác
năm 2003 của NHNT Hà Nội
1/ Phương hướng chung
Để có được kết quả kinh doanh tốt hơn trong năm 2003, chi nhánh sẽ
tiếp tục đổi mới và phát triển theo các định hướng sau:
a- Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của NHNT Việt Nam cũng
như định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tiếp tục đẩy mạnh
huy động vốn thông qua nhiều hình thức:Đa dạng hoá sản phẩm với chất lượng
cao,mở rộng phát triển màng lưới,duy trì việc đánh giá phân loại khách hàng
tiền gửi để có những biện pháp thu hút khách hàng,khuyếch trương và quảng
bá các sản phẩm mới.Phấn đấu tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tăng
15% so với năm 2002, đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ.
b- Đẩy mạnh công tác sử dụng vốn của chi nhánh. Mở rộng tín dụng để
đổi mới nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng nhiều biện pháp và luôn đảm bảo
phương châm “an toàn, hiệu quả”. Tập chung xử lý nợ quá hạn, hạn chế tối đa
rủi ro trong kinh doanh, giải quyết tốt mua bán ngoại tệ, đáp ứng cơ bản nhu
cầu của khách hàng theo đúng hướng hoạt động và sản xuất kinh doanh trong
nước. Phấn đấu mức dư nợ tới năm 2002 tăng 26% so với năm 2000. Tiếp tục
bám sát các đơn vị có nợ quá hạn và các cấp chủ quan của đơn vị để cùng xử
lý thu hồi nợ. Mục tiêu của năm 2001 là mức dư nợ quá hạn xuống dưới 2,5%.
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
58
c- ổn định tổ chức và vận hành theo mô hình mới - Ngân hàng bán lẻ.
Tiếp tục quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ kết hợp với việc nghiên cứu
khoa học. Bổ sung thêm cán bộ mới tuyển dụng vào các phòng nghiệp vụ và
thực hiện tốt các giao dịch trong chương trình mới.
Tạo điều kiện cho cán bộ học thêm kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ và
trình độ để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh.
d- Triển khai đầu tư xây dựng mới: Xúc tiến việc cải tạo sửa chữa nhà
344 Bà triệu,để chuyển hoạt động của chi nhánh về đây và triển khai dự án xây
dựng mới lại trụ sở chính 78 Nguyễn Du,đáp ứng nhu cầu phục vụ hoạt động
kinh doanh của ngân hàng trong thiên niên kỷ mới.
2/ Phương hướng trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Một Ngân hàng muốn thành công trong hoạt động kinh doanh thì mọi
hoạt động của Ngân hàng phải nỗ lực, chung sức góp phần tạo uy tín cho Ngân
hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng quen. Các khách hàng này sử
dụng dịch vụ của Ngân hàng từ đó sẽ mang lại lợi ích cho từng lĩnh vực mà
Ngân hàng kinh doanh.
Tại NHNT Hà Nội cũng vậy, một định hướng chung như thế sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK. Để hoàn thiện hoạt động
này chi nhánh đề ra định hướng: Đẩy mạnh đầu tư cho nhóm khách hàng chiến
lược, mở rộng tìm kiếm các dự án có hiệu quả, phục vụ kinh doanh XNK và
kinh tế đối ngoại của thủ đô để đầu tư. Tiến tới đa dạng hoá các loại hình tính
dụng tài trợ XNK nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có.
3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK
tại NHNT Hà Nội
Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng XNK của chi nhánh
NHNT Hà Nội trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng bên cạnh những hoạt
động đạt được hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ
XNK nói riêng vẫn tồn tại những vướng mắc cần giải quyết. Căn cứ vào mục
tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, dựa vào phương
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
59
hướng nhiệm vụ hoạt động trong những năm tới của chi nhánh và từ thực tiễn
hoạt động của NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn nêu ra một số giải pháp và đề
xuất sau.
3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành
1/ Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn
Định hướng tín dụng XNK của chi nhánh phải phù hợp với chính sách
phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh của
Ngân hàng.
Điều kiện kiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn
vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa
dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử dụng
vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy động.
Chính vì vậy, chi nhánh phải tiếp tục mở rộng khai thác các nguồn vốn theo
các hướng:
- Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường vốn
quốc tế: NHNTHà Nội đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế và thị
trường trong và ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy động vốn
bằng kỳ phiếu và kinh doanh trên thị trường chứng khoán quốc tế. Vấn đề
quyết định thành công trong nghiệp vụ này là đội ngũ nhân viên có đủ trình độ
kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành kỳ phiếu trung gian với các
Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua mỗi giới hiệu quả chưa cao
nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề cho chiến lược kinh doanh
lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền tệ, lựa chọn và thử nghiệm,
Ngân hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh tại các thị
trường này để nhanh chóng hoàn hập với cộng đồng Ngân hàng quốc tế.
- Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào chi nhánh bằng các chính
sách tăng lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung và dài
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
60
hạn. Đối với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng
xứng đáng, có chính sách ưu đãi riêng.
- Chi nhánh cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ nguồn
vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các
hoạt động kinh doanh XNK.. và thông qua mối quan hệ đối ngoại của hệ thống
NHNT, chi nhánh nên đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các tổ chức quốc tế.
2/ Định hướng chiến lược tài trợ
Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ
đọng sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản
xuất đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố
có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự án
mặc dù đá được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và phê
duyệt, nhưng trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định
xem xét lại:
- Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng
theo điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế
đấu thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín
dụng theo quy định của Ngân hàng.
- Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn
tài trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ.
- Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng
(NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận...
Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp
và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho
vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay.
3.2.2 Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK
a-Đổi mứoi nhận thức tín dụng trong cơ chế thị trường
Thực tiễn tín dụng ngân hàng sau 10 đổi mới là bằng chứng chuyển sang
hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
61
XHCN. Tuy nhiên như nhiều nhà kinh doanh đánh giá, vẫn còn nhiều biểu
hiện tư tưởng bao cấp, nhận thức không đúng về tín dụng trong nền kinh tế thị
trường.
Theo nguyên tắc của thị trường "ngân hàng phải bán những gì thị trường
cần chứ không bán những thứ mà ngân hàng có", bởi vậy trước hết là các điều
kiện sử dụng vốn quyết định quy mô, tính chất và thời hạn nguồn vốn. Hay nói
cách khác, xây dựng thị trường đầu ra ổn định lâu dài là quyết định thắng lợi
chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Trong thời gian qua, nhiều thời kỳ ngân
hàng đọng vốn hàng tỷ đồng, vốn huy động luân chuyển chậm, vừa gây lãng
phí cho nền kinh tế vừa làm mất vốn Việt Nam vì vốn vay phải trả lãi và phí
đầu vào. Do đó giải pháp cơ bản trong nghiệp vụ tín dụng là:
- Đổi mới cách tiếp cận khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Chỉ có
những pháp nhân, thể nhân có quyền tự chủ về kinh tế, tự chủ về tài chính mới
có đủ năng lực pháp lý để vay vốn ngân hàng. Những dự án cho vay chỉ định,
được chính phủ cho phép ưu đãi về các điều kiện vay như miễn thế chấp tài
sản, miễn ký quỹ không căn cứ vào tỷ lệ vốn tự có của ngân hàng và doanh
nghiệp cũng phải yêu cầu làm rõ trách nhiệm của cơ quan:
+ Cơ quan thẩm định dự án
+ Cơ quan phê duyệt cấp các loại hồ sơ giấy phép
+ Cơ quan bảo hành
+ Hội đồng xét và phê duyệt đấu thầu xây dựng và mua sắm thiết bị
Kiên quyết không cho vay các dự án không có hiệu quả và khả năng trả
nợ kể cả những khoản có sự chỉ đạo, định hướng của các cơ quan chính quyền,
địa phương, bộ ngành.
b- Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK
Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng XNK được
chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay.
* Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
62
Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp cận
dự án và khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp truyền thống
có quan hệ uy tín được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi thì chỉ cần tập
trung thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng. Dù là phương án cho
vay vốn lưu động hay cố định thì những nội dung cơ bản cần xem xét là:
+ Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án kinh
doanh với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng cạnh tranh,
quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng và mua hàng,
thu thập thông tin của các ngân hàng và các doanh nghiệp khác, sử dụng hệ
thống thông tin phòng ngừa rủi ro bằng phương pháp thống kê, so sánh, tổng
hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ với chính sách Nhà nước có so
sánh trên thị trường quốc tế.
+ Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh
doanh theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu
cho máy tính theo chương trình được cài đặt sãn.
* Giai đoạn phê duyệt và giải ngân
Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng khâu
xem xét phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một cán bộ tín
dụng lý tưởng lại sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân hàng và kiến
thức tổng hợp về thị trường, khoa học kỹ thuật, luật pháp,... nên khả năng đánh
giá của họ không thể đầy đủ và hoàn toàn đúng.
Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và lưu
trữ tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền, trước khi
phát tiền vay hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân như các loại
chứng từ có giá.
* Giai đoạn kiểm tra sau
Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của phương
án kinh doanh đã được ngân hàng thẩm định:
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
63
+ Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ được
sử dụng đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển tiền vay
bằng tiền mặt, ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm soát của
ngân hàng. Giải pháp tốt nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản cho khách
hàng vay là bắt buộc đối với doanh nghiệp và khuyến khích cá nhân hộ sản
xuất.
+ Thu hồi và xử lý nợ
Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của
phần vốn gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân hàng
sẽ giảm được dư nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch toán thu
lãi trước thì sẽ mất vốn. Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì ngân hàng
cần thu gốc trước, đơn vị ngân hàng nào còn có nợ quá hạn thì không có thu
nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch toán thu nợ quá hạn cả gốc và lãi theo
tỷ lệ 50/50 là không hợp lý.
c- Quản lý tài sản thế chấp cầm cố
- Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng hoá...
dùng làm tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo
các chế độ khoán tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế
chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài sản được hình thành trước và độc
lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy đủ điều kiện an toàn, có
thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm hàng hoá vật tư đảm bảo
việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay.
- Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như
thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn,... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm.
Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo
hiểm trong nước và ngoài nước buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng
hoá thế chấp cầm cố với ngân hàng.
- Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của
các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
64
năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty
dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả
thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng
có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ
tục pháp lý: có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho
doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới, giúp
doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp đồng uỷ
quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung gian những
tài sản thuộc diện xử lý của toà án.
d- Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK
Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng
thông thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi
suất và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai
nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ
gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại.
Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp
dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với
các công cụ chủ yếu sau:
+ Hợp đồng mua bán kỳ hạn
+ Nghiệp vụ SWAP về lãi suất
+ Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá
Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan
hệ uy tín trên thị trường quốc tế hiện nay. NHNT Hà Nội có thể áp dụng các
hình thức kinh doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý
được các rủi ro về biến động của thị trường tiền tệ. Để triển khai được các
nghiệp vụ này, ngân hàng cần có đủ các điều kiện chủ quan sau:
1. Đề án kinh doanh hiệu quả và các giải pháp bảo đảm an toàn phòng
ngừa các rủi ro.
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
65
2. Có quy trình phù hợp với các quy chế của ngân hàng Nhà nước và
thực tiễn kinh doanh của ngân hàng. Quan trọng nhất là đảm bảo quản lý chặt
chẽ phán quyết, trạng thái hối đoái, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và thông tin
tiếp thị.
3. Có đủ điều kiện về con người và trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân
hàng
e- Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK
Hiện nay, NHNT Hà Nội chưa thực hiện tài trợ XNK dưới các hình thức
như phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài
chính.... Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh
doanh của mình, NHNT Hà Nội không thể áp dụng ngay được các hình thức
này. Song, trong những năm tới, ngân hàng nên cố gắng áp dụng tốt hình thức
tín dụng bảo lãnh và tín dụng trả góp.
Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ
nước ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn
lớn. Để giúp cho các doanh nghiệp này chi nhánh cấp tín dụng cho họ theo đó
các doanh nghiệp này được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu
không nhất thiết phải cùng vốn trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này
vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn (nguồn vốn mà chi nhánh có ưu thế nhất) để
cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định kỳ theo thoả thuận với chi nhánh.
Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số
196 QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 về việc "Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho
các ngân hàng". Quyết định số 196 QĐ-NH14 hướng dẫn thực hiện các loại
bảo lãnh dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng
trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm
bảo hoàn trả vốn vay. Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo
lãnh theo quyết định 196, các ngân hàng thương mại đã bảo lãnh cho rất nhiều
doanh nghiệp tham gia đấu thầu thực hiện hợp đồng.... giúp cho việc triển khai
thực hiện dự án, thu hút vốn và công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
66
nước. Bên cạnh những mặt được đó, qua hơn 8 năm thực hiện quy chế bảo
lãnh theo quyết định 196 NH - QĐ14 đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý. Với
những kinh nghiệm của các ngân hàng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ
này và bài học của bản thân mình, NHNT Hà Nội cần phải có nhận thức đúng
về hình thức tín dụng bảo lãnh.
Đây là hình thức tín dụng có tầm quan trọng trong việc giải quyết vấn đề
vốn và đẩy mạnh tốc độ lưu thông hàng hoá, nhưng mặt trái của nó là gây ra
hậu quả nghiêm trọng nêu không hiểu đúng bản chất và tính phức tạp của loại
hình tín dụng này. Khi nghiên cứu về tư bản ngân hàng, C.Mác đã coi tín dụng
bảo lãnh là loại đặc biệt - loại tín dụng chữ ký, mặc dù ngân hàng không xuất
tiền vay nhưng lại chịu rủi ro như đối với số tiền vay cùng loại. Thật đáng tiếc
là hiện nay vẫn nhiều ngân hàng quan niệm không đúng về bảo lãnh, coi đó chỉ
là dịch vụ ngân hàng. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh hiện nay trung bình
khoảng 1,2%/năm tưởng rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ vốn, nhưng
xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp hơn so với lãi suất tín dụng, trong khi
về mức rủi ro cho vay và bảo lãnh là như nhau. Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra
một tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập quỹ bảo lãnh
nhằm phòng ngừa rủi ro.Một số ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho doanh
nghiệp nhập khẩu hàng từ nước ngoài, sau đó lại tiếp tục bảo lãnh cho doanh
nghiệp mua hàng trong nước, trong khi việc kiểm soát hàng hoá không thể
chặt chẽ vì quá nhiều con nợ từ bán buôn đến bán lẻ chịu. Có khi thư bảo lãnh
phát hành đi rồi nhưng bị lãng quên khi đến hạn thanh toán mới hay tài sản mà
ngân hàng chịu trách nhiệm trả thay không biết đang nằm ở những đâu.Bên
cạnh đó, các ngân hàng thương mại không biết hạch toán trả thay doanh
nghiệp, hạch toán ký quỹ bảo lãnh và quỹ rủi ro bảo lãnh vào tài khoản nào.
Do đó, khi NHNT Hà Nội áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu
ý các điều trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay
cùng loại:
+ Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
67
+ Phân kỳ kế hoạch thu nợ
+ Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng
+ Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ.
3.2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng
a- Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh
của một ngân hàng thương mại, thể hiện:
- Tiết kiệm chi phí, đẩy mạnh tốc độ thanh toán và lưu chuyển tiền tệ,
tập trung và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh.
Thực hiện kế toán giao dịch tức thời tại quầy, kiểm tra kiểm soát từ xa
các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, quản lý thông tin báo coá thống kê và
thông tin phòng ngừa rủi ro, quản lý lưu trữ hồ sơ tín dụng, kế toán ngân hàng.
Đảm bảo an toàn hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ.
Công nghệ tin học của thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận
lợi cho ngân hàng ngoại thương Hà Nội trong chiến lược hiện đại hoá ngân
hàng. Trong năm tới, ngân hàng cần tập trung thực hiện từng bước chiến lược
đó như sau:
Thứ nhất: Triển khai mạnh thanh toán trực tiếp với hệ thống SWIFT,
đảm bảo luân chuyển vốn, chứng từ nhanh chóng, chính xác và quản lý vốn
ngoại tệ tập trung, củng cố hệ thống thanh toán liên hoàn nội bộ qua mạng vi
tính, đảm bảo thông tin cập nhật. Thực hiện thí điểm nối mạng với một số
doanh nghiệp lớn và dần dần nhân rộng cho mạng lưới khách hàng có điều
kiện.
Thứ hai: Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không
dùng tiền. Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền
tự động, đảm bảo cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ chi
nhánh nào trong cả nước.
Thứ ba: Nâng cấp cơ sở hoạt động và các phương tiện làm việc của ngân
hàng
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
68
b- Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng
Con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản
xuất xã hội. Chúng ta chuyển đỏi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công
nghiệp hoá đòi hỏi: "xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, kến
thức và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và
có trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động
ngân hàng". Để đạt được yêu cầu đó, NHNT Hà Nội cần tập trung vào chiến
lược con người với nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: công tác đào tạo và đào tạo lại
Một trong những nguyên nhân chất lượng tín dụng toàn ngành thấp là do
chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, nhận thức không đầy đủ về quy luật thị
trường và sản xuất hàng hoá. Do đó, đây là những mục tiêu để chi nhánh xây
dựng các giải pháp trong bộ trong hoạch định chiến lược đào tạo và đào tạo lại
cán bộ nhân viên.
Trước hết là công tác quy hoạch cán bộ các cấp, cần phải trang bị lại
kiến thức cơ bản theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo định hướng,
giúp cán bộ, công nhân viên ngân hàng tự học để có đủ trình độ phù hợp với
cương vị đã đảm nhận. Cần phá bỏ triệt để tư tưởng cho đi học các đối tượng
không nằm trong quy hoạch như sắp xếp nghỉ hưu, sức khoẻ hoặc năng lực
không đủ điều kiện làm việc, cán bộ kỷ luật,...
Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành. Trước hết
ưu tiên cho cán bộ tín dụng, kế toán và triển khai chương trình phổ cập tin học.
Đào tạo hoặc tuyển dụng tổ chuyên gia tin học có khả năng xây dựng các đề án
tin học và lập trình các nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng.
Khuyến khích học ngoại ngữ đối với cán bộ chuyên môn, học chuyên
môn đối với cán bộ chuyên ngữ và cán bộ nghiên cứu khoa học ngoài giờ bằng
các hình thức khen thưởng vật chất hoặc nâng mức lương.
Thứ hai: Công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
69
Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là những nội dung quan trọng trong tiêu
chuẩn hoá và trẻ hoá cán bộ. Khác với những năm đầu thập kỷ 90, càng khác
xa với thời kỳ kinh tế bao cấp, hầu hết số người được đào tạo trong trường
chưa thể có đủ ngay kiến thức tổng hợp, thậm chí chưa đáp ứng được công
việc trong điều kiện hiện đại, chưa nói đến sự phát triển tron tương lai. Việc
tuyển chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quyết định
trong tương lai phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp
nước ngoài cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo:
trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo,... đã mang lại kết quả tốt
cho Ngân hàng về đội ngũ nhân tài trẻ có năng lực và yêu cầu.
Ngân hàng cần thực hiện tốt chế độ thi tuyến để có lớp người mới thực
sự về chất. Những năm qua, việc thi tuyển chủ yếu tập trung vào ngoại ngữ cần
phải đưa ra các môn thi chuyên ngành khác để lựa chọn cho cán bộ có đủ năng
lực toàn diện về chuyên môn và nhận thức xã hội. Có được lớp người mới, số
người cũ sẽ tự đào thải nếu không có ý thức vươn lên và thiếu ý thức trong
công việc. Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, chi nhánh sẽ dần khắc phục
tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay.
Thứ ba: Đối với cán bộ làm tín dụng XNK thì các yêu cầu và tiêu dùng
chuẩn về năng lực cao hơn không những kiến thực nghiệp vụ mà cần trang bị
cho họ trình độ cơ bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ... nơi nào chưa có
đủ điều kiện về cán bộ thì kiên quyết không cho thực hiện nghiệp vụ thanh
toán quốc tế.
3.2.4. Chính sách khách hàng
Khách hàng là nguyên nhân tồn tại và phát triển của NHTM. Nên khách
hàng quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, thể
hiện uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài
nước. Để thực hiện tốt chính sách khách hàng, ngân hàng có thể vận dụng các
hình thức, biện pháp sau đây:
Thứ nhất: Phân loại khách hàng
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
70
Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ
với Ngân hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính
và kinh doanh. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn
để phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các
chi nhánh ngân hàng cơ sở cho từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh
động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả đối tượng khách hàng lớn, truyền
thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn.
Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng
Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và
khách hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp
xúc và trao đổi thông tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng
hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ.
Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất
lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây
dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tậm, đồng thời tạo được không khí
cởi mở để thông qua khách hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ
ngân hàng.
Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài
là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn
hàng là ngân hàng và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh
nghiệm, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro.
Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh.
Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính
cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị của
ngân hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và
sản phẩm mới. Tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất
khẩu.
Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản
công nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
71
lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài
chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá.
3.3. Kiến nghị
3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một
môi trường pháp lý ổn định và đồng bộ, đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh
doanh bình đẳng trước pháp luật, các quan hệ kinh tế xã hội được điều chỉnh
theo định hướng XHCN.
Thứ nhất: Hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định đồng bộ và nhất quán
Trách nhiệm về hành chính và kinh tế cần được quy định rõ ràng đối với
các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản, ra quyết định như quyết định thành lập
doanh nghiệp, cấy giấy phép kinh doanh, thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư
ký xét duyệt các hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn, cấp vốn... Từng bước đưa ra
các văn bản quy phạm pháp luật vào thực tiễn sản xuất xã hội bằng việc triển
khai nghiệm minh và đồng bộ giữa các cơ quan hành pháp, bắt đầu từ công an,
hải quan, biên phòng, thuế vụ. Triệt để ngăn chặn các hoạt động buôn lậu trốn
thuế, làm hàng giả gây hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến tín dụng ngân hàng.
Theo điều 12 NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố
thế chấp có quy định "Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu... tổ chức tín dụng
phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản". Thực tế hiện nay,
các tổ chức tín dụng chưa nắm rõ được danh mục các tài sản theo quy định
phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở
hữu đó. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành văn bản pháp lý quy định cụ thể về
đăng ký quyền sở hữu tài sản.
Để đảm bảo tín dụng tài trợ XNK của NHTM có hiệu quả, trước hết
chính sách XNK cần được hoàn thiện đồng bộ với chiến lược phát triển và kế
hoạch của nền kinh tế quốc dân. Rà soát lại khả năng của các doanh nghiệp có
giấy phép kinh doanh XNK và cho phép các doanh nghiệp có hàng XNK ổn
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
72
định được phép XNK trực tiếp. Bộ thương mại cần quy định trách nhiệm cho
các cơ quan cấp giấy phép đối với chất lượng và giá cả hàng hoá nhập khẩu,
đặc biệt là thiết bị công nghệ.
Thứ hai: Chính sách trợ giá và bảo hiểm XNK
Có thể nói, một số hàng xuất khẩu của ta hiện nay chịu thua thiệt nhiều
do thiếu vốn và cơ chế chính sách, đặc biệt là mặt hàng nông sản: gạo, cà phê,
hạt điều,... Những dự án nhập khẩu thiết bị đòi hỏi phải được đầu tư đồng bộ
tránh tình trạng như nhiều dự án do chi nhánh cho vay đều chậm tiến độ thi
công, các nguồn đầu vào (nguyên liệu, nhân lực, cán bộ chuyên gia lành nghề)
chưa được quy hoạch hợp lý trong khi hạn vay của các khoản tín dụng trong
nước đã hết hạn, gây khó khăn cho ngân hàng.
Nhằm bảo hiểm và khuyến khích hoá XNK Việt Nam, nhất là đối với
hàng nông sản cần nhanh chóng thành lập tổ chức bảo hiểm xuất khẩu với các
thành viên chủ yếu từ Chính phủ, các ngân hàng, Bộ Thương mại và các bộ
ngành liên quan thực hiện hai chức năng cơ bản sau:
+ Tư vấn và thông tin tiếp thị cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
XNK
+ Cấp tín dụng người mua và bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam
Thứ ba: Nhà nước cần nhanh chóng thực thi các biện pháp xử lý tài sản
thế chấp
Hiện nay số lượng tài sản thế chấp ở ngân hàng khó lớn, gây khó khăn
cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP,
khi khách hàng không trả được nợ thì tổ chức tín dụng được xử lý tài sản thế
chấp thu hồi vốn. Tuy nhiên, hiện nay việc xử lý tài sản thế chấp theo đúng
trình tự pháp luật để ngân hàng thu hồi vốn hiện còn rất phức tạp, nên hầu hết
việc xử lý tài sản thế chấp đều được thực hiện theo phương thức thoả thuận
giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, để khách hàng tự nguyện bán tài sản
thế chấp trả nợ ngân hàng... song số lượng này không nhiều. Nhà nước cần
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
73
thường xuyên giám sát, thanh tra các hoạt động tín dụng của ngân hàng từ
khâu đầu cho đến khâu tháo gỡ những vướng mắc trong xử lý tài sản thế chấp.
Cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính pháp lý để tạo điều kiện cho tài sản
được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, góp phần giảm nợ quá hạn của ngân
hàng xuống đến mức cho phép tài sản mang tính hình thức thủ tục trong việc
vay vốn của ngân hàng.
3.3.2. Đối với NHNT Việt Nam
Với tốc độ phát triển kinh tế vượt bậc như hiện nay, mối quan hệ kinh
doanh hiện nay, nhất là lĩnh vực tài trợ XNK không ngưng được mở rộng sang
các nước, các khu vực mới. Vì vậy, NHNT Hà Nội phải tận dụng mọi cơ hội
để tăng cường các mối quan hệ đại lý các ngân hàng nước ngoài. NHNT Việt
Nam đã có 35 năm kinh nghiệm phát triển. Với thời gian phát triển như vậy,
Ngân hàng đã tạo được quan hệ với 1600 ngân hàng nước ngoài. Vì thế,
NHNT Việt Nam cần giúp đỡ NHNT Hà Nội, để chi nhánh tăng cường các
mối quan hệ đại lý của mình, hạn chế những khó khăn do vấn đề này gây nên.
NHNT Việt Nam cần định kỳ trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ trong toàn
hệ thống để đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác, góp phần giữ
vững thị phần của ngân hàng ngoại thương trong hoạt động tín dụng tài trợ
XNK.
3.3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK
Ở nước ta hiện nay, để nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho hoạt
động XNK thì bên cạnh những kiến nghị đưa ra đối với cơ quan quản lý vĩ mô,
ngân hàng ngoại thương Việt Nam thì nhất thiết phải đưa ra những kiến nghị
đối với những doanh nghiệp XNK - một tác nhân quan trọng trong mối quan
hệ tín dụng đối với các ngân hàng thương mại.
Do trình độ còn non kém trong lĩnh vực ngoại thương của các cán bộ tại
doanh nghiệp XNK nên đã tạo những bất lợi cho chính doanh nghiệp và ngân
hàng. Để khắc phục nhược điểm này không còn cách nào khác là các khách
hàng phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình như:
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
74
+ Các nhà kinh doanh XNK phải có trình độ về ngoại thương và thanh
toán quốc tế.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cao,
trình độ ngoại ngữ tốt để có thể tiếp cận với những phương tiện tín dụng quốc
tế hiện đại.
+ Cử cán bộ di dự các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại
học hoặc tổ chức trong và ngoài nước đào tạo. Mời chuyên gia về giảng dạy, tư
vấn trong lĩnh vực ngoại thương.
+ Cần có chế độ thưởng phạt và kích thích tinh thần làm việc của các
thành viên trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XNK cần đẩy mạnh hoạt động
Marketing XNK để hạn chế rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán với ngân
hàng. Những diễn biến trên thị trường thế giới phức tạp khó có thể lường
trước, hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp chưa đủ sức mạnh
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, có được một chiến lược marketing
hiệu quả, hợp lý là cần thiết. Trên cơ sở nắm bắt thông tín, doanh nghiệp sẽ có
phương thức, chiến lược thâm nhập vào thị trường XNK, sẽ có những quyết
định về sản phẩm, giá cả đúng đắn góp phần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động
kinh doanh XNK của mình.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cho doanh nghiệp XNK sẽ có hiệu
quả cao nếu các doanh nghiệp XNK chấp hành tuyệt đối các nguyên tắc điều
kiện thoả thuận khi vay vốn ngân hàng. Cụ thể, là phải sử dụng vốn đúng mục
đích như cam kết trong đơn xin vay vốn. Những tài sản mà doanh nghiệp đã
mang thế chấp cầm cố tại chi nhánh thì không được quyền chuyển nhượng,
cầm cố hay bán cho các cá nhân khác khi chưa trả đủ nợ cho Ngân hàng. Nếu
doanh nghiệp còn dư nợ thì không được bằng cách này hay cách khác thiếu
trung thực để được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng.
Lª TuÊn Anh Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
75
KẾT LUẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doko.vnChuyenDeMotSoVanDeCoBan.pdf