Ngoài ra, cần tạo điều kiện vật chất, môi
trường và không gian nghiên cứu học thuật
tốt ở các trường đại học, viện nghiên cứu về
chính sách, góp phần sớm hình thành hệ
thống lý luận NCCS cơ bản, đồng bộ ở Việt
Nam. Khuyến khích các nghiên cứu chính
sách dựa trên bằng chứng nhằm nâng cao
tính thuyết phục cho HĐCS. Đối với hoạt
động lập pháp, chúng ta vẫn đang thiếu
những nghiên cứu định lượng có chất lượng
để làm cơ sở cho HĐCS dựa trên bằng
chứng. Điểm lưu ý là giai đoạn lấy ý kiến
nhân dân về dự án luật là cần thiết vì nó phù
hợp với “định hướng dân chủ”. Tuy nhiên,
đối với PTCS dựa trên bằng chứng, việc này
có thể cung cấp số liệu thô về một số vấn đề,
và chỉ là một trong rất nhiều nguồn dữ liệu
đầu vào cho phân tích. Với đặc trưng nghiên
cứu đa ngành, cần khuyến khích sự tham gia
nghiên cứu PTCS từ các phân ngành của
khoa học xã hội như kinh tế, tâm lý học, xã
hội học để cung cấp những bằng chứng số
liệu định lượng về kinh tế, xã hội, được phân
tích một cách khoa học, nghiêm ngặt và
thuyết phục.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề của nghiên cứu chính sách và ứng dụng luật pháp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ CUÃA NGHIÏN CÛÁU CHÑNH SAÁCH
VAÂ ÛÁNG DUÅNG LÊÅP PHAÁP ÚÃ VIÏåT NAM
nguYễn anH PHương*
Kể từ những năm 1950, khi Lasswell1 đặt nền móng cho khoa học chính
sách với cách tiếp cận “định hướng chính sách” của dân chủ2, đến nay, nghiên
cứu chính sách (NCCS)3 đã trở thành một trong những lĩnh vực phát triển sôi
động nhất của khoa học xã hội trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển
đó vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần được làm rõ về cơ sở lý thuyết, phân tích và thực
hành chính sách trong các nền dân chủ hiện đại.
1. những vấn đề về “khoa học chính
sách” của dân chủ
Định hướng chính sách dân chủ
Gắn liền với các sự kiện lớn trong lịch
sử hiện đại, khoa học chính sách và định
hướng phát triển cũng như ứng dụng của nó
đã có những thay đổi tiến bộ và đạt nhiều
thành công. Hoạch định chính sách (HĐCS)
và phân tích chính sách (PTCS) từ chỗ được
xem là công việc của giới tinh hoa, là lãnh
địa của giới chuyên gia về chính sách, đã và
đang chuyển sang định hướng “dân chủ thảo
luận” hay sự “tham gia dân chủ” của người
dân. Và do đó, giống như một bước phát
triển cao hơn, nhưng không xa rời quan
điểm của Lasswell, “các khoa học chính
sách của dân chủ”, có một số đặc trưng quan
trọng dưới đây:
Thứ nhất, các nguyên tắc NCCS được
phát triển dựa trên phương pháp tiếp cận đa
ngành, mà Lasswell gọi là “các khoa học
chính sách của dân chủ” (policy sciences of
* Viện Nghiên cứu Lập pháp.
1 Harold Dwight Lasswell (1902 - 1978): Nhà khoa học chính trị hàng đầu của Mỹ. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ tại trường
University of Chicago; là giáo sư luật trường Yale University, đồng thời là Chủ tịch của Hiệp hội Khoa học chính trị Mỹ và
Viện Thế giới về khoa học và nghệ thuật. Sinh thời, Lasswell được xem là nhà khoa học chính trị hiệu quả hàng đầu; một
trong số ít những nhà khai sáng trong khoa học xã hội thế kỷ 20.
2 Khái niệm “Nhà khoa học chính sách của dân chủ” được phổ biến sau khi Lasswell sử dụng trong cuốn: “Các khoa học
chính sách” - The Policy Sciences, xuất bản năm 1951, biên tập cùng với Daniel Lerner. Trên thực tế, cụm từ này lần đầu
tiên xuất hiện trong: Power and Personality, xuất bản năm 1948. Trong khi đó, khái niệm: “các khoa học chính sách”
được Lasswell đề cập từ những năm đầu 1940s. Xem: Lasswell, Harold (1942), “The Developing Science of Democracy”,
in The Future ofGovernment in the United States: Essays in Honor of Charles E. Merriam, ed. Leonard White, University
of Chicago Press.
3 Trong bài viết này, “nghiên cứu chính sách” có thể được hiểu bao gồm cả “nghiên cứu” và “phân tích” chính sách.
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
democracy), nhằm mục tiêu thúc đẩy thực
hành dân chủ4. “Các khoa học chính sách”
có phương pháp tiếp cận đặc trưng đa ngành
trong cả nghiên cứu và thực hành. Bởi lẽ,
hầu hết các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội
là phức tạp, bao gồm nhiều thành tố liên
quan đòi hỏi cần áp dụng những nguyên tắc
nghiên cứu khác nhau của khoa học xã hội
mà không bị lệ thuộc duy nhất vào một
nguyên tắc cụ thể, riêng rẽ của một lĩnh vực.
Để đánh giá được toàn diện vấn đề, cần áp
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, phân
tích tương thích, phù hợp của các phân
ngành khoa học như kinh tế học, xã hội học,
tâm lý học nhằm cung cấp những nguyên
tắc quan trọng trong việc đề xuất giải pháp
cho các quyết sách của chính phủ, hay các
hoạt động kinh tế xã hội5.
Thứ hai, khoa học chính sách có định
hướng vấn đề (problem oriented), hướng
việc nghiên cứu và phân tích vào các vấn đề
chính sách và đề ra các khuyến nghị chính
sách nhằm giảm nhẹ hay giải quyết các vấn
đề đó. NCCS không phải chỉ để nghiên cứu,
mà gắn mục đích, bối cảnh và vấn đề cụ thể
với phân tích đa chiều, toàn diện nhằm đưa
ra giải pháp tích cực cho vấn đề công6.
Thứ ba, phương pháp tiếp cận “các khoa
học chính sách” có mục tiêu và sự định
hướng giá trị (value oriented), trong nhiều
trường hợp, bối cảnh trung tâm là giải quyết
vấn đề về đặc tính dân chủ và nhân phẩm.
Bởi vì, không một vấn đề xã hội cũng như
phương pháp tiếp cận nào lại không hàm
chứa mục tiêu hay giá trị trong nó. Để hiểu
một vấn đề, cần hiểu được các yếu tố giá trị
liên quan7. “Nhà khoa học chính sách của
dân chủ” cần hành động dựa trên các giá trị
dân chủ, và mục đích sau cùng là bảo vệ các
giá trị về nhân phẩm và quyền con người8.
Họ cần hiểu biết sâu sắc về quá trình “giới
tinh hoa” ra quyết định, và mang kiến thức
có được vào thực hành, tư vấn cho những
người đang nắm giữ quyền lực trong những
quyết định quan trọng, cùng chia sẻ nghĩa
vụ, trách nhiệm và tác động hình thành các
chân giá trị, mở rộng dân chủ.
Mặc dù Lasswell đưa ra một tầm nhìn
đầy tham vọng cho “các khoa học chính
sách” và các học giả chính sách của dân chủ,
tiếp cận “định hướng chính sách” vẫn có
những mâu thuẫn như vừa thực chứng lại
vừa đầy tiêu chuẩn giá trị; mâu thuẫn giữa
việc trông chờ vào các quyết định sáng suốt
của giới tinh hoa với mục tiêu thúc đẩy dân
chủ; vừa (có vẻ) khoa trương lại vừa đáng
nghi ngờ về sự thành công. Từ đó, nhiều câu
hỏi được đặt ra, như vai trò của khoa học
chính sách trong xã hội dân chủ hiện đại là
gì? Các giá trị dân chủ cụ thể nào mà khoa
học chính sách nên hỗ trợ, theo đuổi? Rất
khó để có câu trả lời chung thỏa đáng.
Có thể hiểu khoa học chính sách có khả
năng đặc thù, có bổn phận theo đuổi, hỗ trợ
những lựa chọn dân chủ có ảnh hưởng căn
bản đến môi trường sống của công dân và
xã hội9. Thêm nữa, vấn đề dân chủ còn thể
hiện ở mức độ và phương thức người dân,
đối tượng chịu tác động bởi chính sách,
tham gia vào việc HĐCS. Bởi thế, trả lời cho
4 Lasswell, H (1951), “The Policy Orientation”, In The Policy Sciences: Recent Developments in Scope and Method, eds.
Daniel Lerner & Harold D. Lasswell, Stanford University Press.
5 Muth, Rodney (1990), “Harold Dwight Lasswell: A Biographical Profile”, in Harold D. Lasswell: An Annotated Bibliography,
ed. Rodney Muth, Mary Finley & Marcia F. Muth, New Haven Press.
6 Peter Deleon (2006), The historical roots of the field, in The Oxford handbooks of public policy, eds by Michael Moran,
Martin Rein & Robert Good, Oxford University Press.
7 Xem chú thích 6, Peter Deleon (2006).
8 Xem chú thích 4, Lasswell, H (1951).
9 James Farr, Jacob Hacker & Nicole Kazee (2006), “The Policy Scientist of Democracy: The Discipline of Harold D. Lasswell”,
American Political Science Review, vol. 100, no. 4, pp.579-587.
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
câu hỏi NCCS: ai quyết định, và như thế
nào? trong khi một số người lo ngại về chất
lượng chính sách khi số đông dân chúng
tham gia vào quá trình ra quyết định, thì
nhiều học giả khác lại khẳng định, trong nền
dân chủ, nhân dân là người quyết định sau
cùng chính sách là gì, đặc biệt đối với các
vấn đề công chúng quan tâm đến - ý kiến
công chúng10.
Cũng liên quan đến ý kiến công chúng,
khi xem xét hoạt động của nghị viện, nếu
nghị viện phản hồi lại ý kiến công chúng
một cách tích cực, thì quá trình dân chủ
(được cho là) sẽ hoạt động tốt; ngược lại, khi
nghị viện ít phản hồi về các vấn đề công
chúng quan tâm thì nghị viện (có thể) đang
bị ảnh hưởng mạnh bởi các nhóm lợi ích vận
động chính sách - lúc này, quá trình dân chủ
sẽ kém hiệu quả. Mặt khác, nhiều nghiên cứu
chỉ ra là thực tế công chúng thường ít quan
tâm về nhiều vấn đề, có thể chỉ là dự kiến,
trong chương trình làm việc của nghị viện.
Đối với vấn đề ít quan tâm thì người dân
không có nhiều lý do để tìm kiếm thông tin,
không suy nghĩ nhiều, hay không có ý kiến
gì về vấn đề đó. Nếu không có ý kiến công
chúng, nghị viện có thể sẽ không chú ý nhiều
về một số vấn đề chính sách được đưa ra thảo
luận. Hệ quả là những đề xuất chính sách liên
quan có thể sẽ không được đưa vào chương
trình, hoặc không được thông qua. Khi đó,
cũng khó để cho rằng, quá trình dân chủ hoạt
động kém hiệu quả11. Do vậy, NCCS trong
lập pháp cũng cần ưu tiên lựa chọn giải quyết
vấn đề công chúng quan tâm, phù hợp với
“định hướng dân chủ”.
Ra quyết định và sự thuyết phục
Ngoài các đặc trưng nêu trên, với mục
đích thực hành và thúc đẩy dân chủ, NCCS
thường mang tính định hướng hành động,
thiết kế các hành động chính sách để đạt
mục tiêu giải quyết vấn đề. NCCS không
phải để chỉ ra nhà nước (hoặc các chính trị
gia) nên là gì và như thế nào, mà để trả lời
cho câu hỏi nhà nước (hoặc các chính trị gia)
nên làm gì. Nói cách khác, một trong những
mục đích quan trọng của NCCS là nhằm tác
động vào quá trình ra quyết định chính sách.
Chuyên gia về chính sách cần hỗ trợ để các
chính trị gia thực hiện một cách minh bạch
và trách nhiệm công việc mà người dân ủy
trị cho họ. Nhiệm vụ của họ là thuyết phục
rằng những khó khăn nào cần giải quyết,
giải pháp nào cần chọn lựa, nhằm phục vụ
cho những lợi ích công nào.
Các chủ thể HĐCS, cũng như các
chuyên gia PTCS đều có vai trò và những
ảnh hưởng khác nhau đến quá trình ra quyết
định chính sách. Nhưng điều này không có
nghĩa là chấp nhận sự tùy tiện, mệnh lệnh
quan liêu trong quá trình làm chính sách, mà
phải bảo đảm được tính thuyết phục của
chính sách đối với các đối tượng bị tác động.
Bởi vì, chính sách không chỉ là sự tranh
luận, mà còn là sự thỏa thuận về quyền và
lợi ích để đạt tới giải pháp. Một chính sách
có thể làm lợi hơn cho nhóm này so với
nhóm khác. Do đó, HĐCS không đơn thuần
là việc đặt ra các quy tắc, luật lệ bắt buộc.
Quan trọng hơn, các chính sách, pháp luật
được ban hành cần đúng thời điểm, đúng đối
tượng, phù hợp với bối cảnh chung, và
thuyết phục được người dân rằng họ nên
tuân thủ và chấp nhận để chúng trở thành
các quy tắc chung.
Tuy nhiên, điểm lưu ý là trong NCCS,
đôi khi các bằng chứng “có vẻ” như thuyết
phục, lại có nguy cơ được ngụy tạo, hay sử
dụng những số liệu sai mục đích, không đầy
đủ và thiếu khách quan. Làm như vậy,
những “lời khuyên” chính sách dựa trên
bằng chứng đó nếu được sử dụng sẽ gây
10 Soroka, Stuart & Christopher Wlezien (2010), Degrees of Democracy: Politics, Public Opinion, and Policy, Cambridge
University Press.
11 Paul Burstein (2014), American public opinion, advocacy, and policy in Congress: what the public wants and what it gets,
Cambridge University Press.
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
thiệt hại cho nguồn lực quốc gia và lợi ích
công cộng. Khi đó, “nhà khoa học chính
sách” đã đi ngược lại các giá trị “của dân
chủ”, vì những nghiên cứu với bằng chứng
“có vẻ thuyết phục” đó, trên thực tế là không
thuyết phục, và còn vi phạm yêu cầu về sự
ngay thẳng và tôn trọng sự thật khách quan.
Quyền lực và sự thật
Học giả chính sách của dân chủ không
đơn thuần chỉ NCCS để hiểu chính trị, mà
cần góp phần thúc đẩy giới chính trị có các
lựa chọn dân chủ. Vì vậy, họ cần chủ động
tham gia vào các tranh luận chính sách và ở
chừng mực nhất định, bộ phận tham mưu
chính sách có ảnh hưởng quan trọng tới quá
trình ra quyết định ở những cấp độ cao
nhất12. Tuy nhiên, chuyên gia PTCS không
phải là cánh tay nối dài cho quyền lực (chính
trị). Vai trò của họ không phải là nhào nặn
ra những nghiên cứu được định hướng
bởi/và để phục vụ cho quyền lực, mà là để
vận động, ủng hộ cho những chính sách mà
họ, một cách khách quan, thấy đúng đắn và
thuyết phục. Công việc của họ là nói sự thật
tới chính quyền - “speak truth to power”13.
Giống như “lời thề Hippocrates” của ngành
y, những học giả chính sách của dân chủ
trước hết phải cam kết luôn nói sự thật đến
(giới) quyền lực (chính trị). Họ làm việc cho
các lãnh đạo chỉ khi lãnh đạo phụng sự cho
các giá trị dân chủ và lợi ích quốc gia. Qua
những phân tích, tư vấn gửi đến giới chính
trị gia trong các quyết sách, người NCCS
cũng đồng thời có nghĩa vụ và trách nhiệm
đối với công chúng: nói sự thật đến chính
quyền.
Một cách tiếp cận tương tự, bộ phận
tham mưu chính sách, đặc biệt đối với hệ
thống công chức hành chính, cần đảm bảo
nguyên tắc đưa ra những “lời khuyên ngay
thẳng và không sợ hãi” (frank and fearless
advice)14. Mặc dù không phải lúc nào những
lời khuyên như thế cũng được khuyến khích
hay những người nắm quyền lực sẵn sàng
đón nhận. Nếu một cấu trúc hành chính
được thiết kế với không gian chật hẹp để chỉ
đưa ra những lời khuyên chính sách một
chiều đáng thất vọng và không dám chịu
trách nhiệm, thì hệ thống đó và quá trình dân
chủ hóa, cũng như chất lượng nghiên cứu
khoa học chính sách, sẽ bị yếu đi rất nhiều.
Ràng buộc và thay đổi
HĐCS còn là vấn đề về sự lựa chọn
dưới các ràng buộc trong một thể chế nhất
định. Các ràng buộc này có thể vô hình hoặc
hữu hình, tích cực hoặc tiêu cực, nhưng
không phải là không thể thay đổi cùng với
sự thay đổi chính sách qua thời gian. Chính
sách thay đổi bởi các yếu tố như: vấn đề
chính sách thay đổi, môi trường thay đổi, cải
thiện công nghệ, thay đổi các liên minh vận
động ủng hộ chính sách, hoặc thay đổi các
thế hệ lãnh đạo chính trị. Khi các yếu tố thay
đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi chính sách để thích
ứng với các vấn đề mới.
Trong mối quan hệ này, một mặt, HĐCS
bị quy định bởi các ràng buộc; mặt khác, các
ràng buộc có thể dẫn đến sự thay đổi chính
sách, vì điều kiện ràng buộc có thể là thách
thức đối với một chính sách này, nhưng là
cơ hội để thông qua đối với một chính sách
khác15. Sự thay đổi đó lại kéo theo đòi hỏi
gỡ bỏ các ràng buộc trong hoàn cảnh mới.
Quá trình cải cách, như cải cách thể chế, sẽ
dẫn tới những thay đổi về quy trình, thủ tục,
cách thức ban hành chính sách, cũng như tác
động làm thay đổi hệ thống thể chế chính
sách quốc gia.
12 Xem chú thích 9, James Farr, Jacob Hacker & Nicole Kazee (2006).
13 Wildavsky, Aaron (1979), Speaking Truth to Power: The Art and Craft of Policy Analysis, Boston: Little Brown.
14 Kathy MacDermott (2008), What ever happened to frank and fearless?, The impact of new public management on the
Australian public service, ANU E Press, The Australian National University.
15 Robert Goodin, Martin Rein & Michael Moran (2006), The public and its policies, in The Oxford handbooks of public policy,
eds by Michael Moran, Martin Rein & Robert Good, Oxford University Press.
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
16 Xem chú thích 15, Robert Goodin, Martin Rein & Michael Moran (2006).
17 Trong bài này, khái niệm “khung khổ” (framework) và “lý thuyết” (theory) có thể được dùng lẫn nhau hoặc tương đương.
Trên thực tế, vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh vấn đề một “lý thuyết” về QTCS có đúng là một lý thuyết, hay là một
mô hình, “khung khổ” hay “cơ cấu”.
18 Xem: Jones (1977), An introduction to the study of public policy, Anderson (1979), Public policy making, Peter (1986),
American public policy.
19 Một số tác giả như: Kingdon (1984), Pressman & Wildavsky (1973), Mazmanian & Sabatier (1989).
Hơn nữa, bản thân chính sách cũng là
nguyên nhân của chính nó16. Bởi lẽ, chính
sách là những lựa chọn, và với mỗi lựa chọn
là sự đánh đổi các nguồn lực, lợi ích và tác
động tích cực hay tiêu cực đến các nhóm
khác nhau trong xã hội. Vì thế, tự nó đã là
nguyên nhân làm phát sinh ra các hệ quả,
vấn đề mới. Đến lúc đó, vấn đề phát sinh lại
cần có những chính sách mới để giải quyết,
dẫn đến sự thay đổi chính sách. Sự thay đổi
diễn ra có thể nhanh, cũng có thể là một quá
trình rất dài. Nhiệm vụ của NCCS là không
chỉ phát hiện vấn đề, nhận biết các điều kiện
ràng buộc, tiền đề cần thiết và mô hình tác
động dẫn đến thay đổi chính sách, mà còn
nhằm thúc đẩy những cải cách tiến bộ, bảo
vệ các giá trị dân chủ và lợi ích công.
2. Lý thuyết về quá trình chính sách: tìm
kiếm sự thay thế
Hiện nay, không có một lý thuyết tổng
quát về quá trình HĐCS, mà tồn tại nhiều lý
thuyết khác nhau được nghiên cứu và áp
dụng trong thực hành chính sách ở các nước
phương Tây. Nếu như PTCS là tìm kiếm các
giải pháp thay thế, thì sự phát triển của các
lý thuyết về quá trình chính sách17 (QTCS)
chịu ảnh hưởng từ những nỗ lực tìm kiếm
giải pháp thay thế nhau cho chính các lý
thuyết về quá trình này. Dưới đây chỉ giới
thiệu sơ lược một số lý thuyết nổi bật, hiện
đang có tầm ảnh hưởng rộng.
Các giai đoạn của chu trình chính
sách
Chu trình HĐCS bao gồm các giai đoạn
sắp xếp theo trình tự thời gian được áp dụng
từ những năm 1960, dựa trên các nghiên cứu
của Harold Lasswell, David Easton và được
nhiều học giả phát triển sau này18. Trong đó,
các giai đoạn tiêu biểu là: xác định vấn đề
chính sách, lập chương trình, hình thành
chính sách, thông qua chính sách, thực thi
chính sách, đánh giá chính sách, kết thúc
chính sách (hoặc đánh giá và cải cách). Đây
là một mô hình rất phổ biến và là một trong
những lý thuyết về QTCS thường được giới
thiệu trong các giáo trình giảng dạy nhập
môn NCCS. Bằng việc xem xét chu trình
chính sách từ chỗ xác định vấn đề, đến quá
trình thực thi và đánh giá kết quả, lý thuyết
này cho thấy một bước tiến quan trọng trong
NCCS, vì đã chú trọng đến hiệu quả và các
tác động của chính sách, thay vì chỉ dừng lại
ở các sản phẩm đầu ra như đạo luật của
Quốc hội, quyết định của tòa án hay của
hành pháp. Mô hình các giai đoạn cũng
chứng minh sự hữu ích trong việc làm cơ sở
cho các nghiên cứu và ứng dụng chính sách
liên quan đến các giai đoạn riêng rẽ, như lập
chương trình, thực thi hay đánh giá chính
sách19.
Mặc dù có nhiều đóng góp cho sự phát
triển khoa học chính sách, mô hình các giai
đoạn cũng có những hạn chế. Phê phán gay
gắt nhất cho rằng, mô hình này chỉ mang
tính kinh nghiệm mà không thực sự là một
lý thuyết khoa học rõ ràng với các giả thuyết
về nguyên nhân - kết quả có thể kiểm chứng
trong một hoặc nhiều giai đoạn. Lý thuyết
này không chỉ ra được mối quan hệ nhân
quả, các động lực chính dẫn đến sự chuyển
động QTCS từ giai đoạn này sang giai đoạn
khác, cũng như các hoạt động trong mỗi giai
đoạn thiếu vắng sự tương tác giữa các chủ
thể tham gia chính, vốn là nguyên nhân quan
trọng thúc đẩy QTCS. Thêm vào đó, các
công cụ, biến số, chỉ báo giúp triển khai việc
nghiên cứu, đánh giá cho mô hình còn thiếu.
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
Do vậy, nó thiếu sức ảnh hưởng để trở thành
một lý thuyết trung tâm trong cả nghiên cứu
và thực hành chính sách.
Lý thuyết này có cách tiếp cận từ trên
xuống, đặt trọng tâm vào lập pháp, cũng như
ảnh hưởng bởi giai đoạn xác định vấn đề của
mỗi chính sách. Cách tiếp cận này có xu
hướng xem nhẹ vai trò, ảnh hưởng của các
chủ thể khác, xem chính sách là một phần
đặc thù của lập pháp. Đồng thời, nếu chỉ chú
tâm vào xem xét chu trình chính sách theo
trình tự thời gian thì việc PTCS có thể sai
lệch, vì sự phát triển chính sách thường chịu
tác động bởi nhiều chủ thể ở nhiều cấp độ,
với các cách xem xét vấn đề và hình thành
giải pháp khác nhau, thậm chí cạnh tranh với
nhau. Trên lý thuyết, mô hình các giai đoạn
diễn ra tuần tự, song thực tế có thể rất khác,
ví dụ như việc đánh giá chính sách có thể tác
động đến nghị trình; các nhà HĐCS ở hành
pháp có thể có những mục tiêu khác, mơ hồ,
khó hiểu đối với lập pháp, dẫn đến QTCS
không đơn giản tuần tự diễn ra. Vì thế, nhằm
khắc phục những nhược điểm của lý thuyết
này, nhiều học giả đã cố gắng phát triển
những lý thuyết khác về QTCS.
Khung khổ liên minh vận động
Tiêu biểu cho sự tìm kiếm lý thuyết thay
thế về QTCS là Sabatier với Lý thuyết về
Khung liên minh vận động (The Advocacy
Coalition Framework - ACF), phát triển từ
những năm 1980, cung cấp các giả thuyết
nhân quả cần thiết cho việc nghiên cứu lý
thuyết và thực hành chính sách20. Trên thực tế,
ACF được áp dụng khá phổ biến ở nhiều quốc
gia, trong nhiều lĩnh vực chính sách khác
nhau. ACF đặt vấn đề xem xét quá trình thay
đổi chính sách cần có thời gian hàng thập kỷ.
QTCS thường tập trung hay diễn ra ở những
hệ thống chính sách nhỏ (subsystems), với sự
tương tác giữa các chủ thể khác nhau có ảnh
hưởng đến từng chủ đề, lĩnh vực chính sách
cụ thể, trong mối liên hệ với những sự kiện
bên trong và bên ngoài hệ thống. Đề xuất
chính sách cũng xuất hiện ở rất nhiều thời
điểm khác nhau và không phải tất cả những
chủ thể làm chính sách đều tham gia vào các
hệ thống chính sách nhỏ này. Mỗi hệ thống
nhỏ thường có những người có ảnh hưởng
mạnh trong lĩnh vực của họ. Các chủ thể
chính sách có thể tạo thành những liên minh
ngắn hạn, hoặc ổn định, dài hạn để chia sẻ
niềm tin, giá trị cũng như sự vận động, ảnh
hưởng đến từng lĩnh vực chính sách, trong
các ràng buộc thể chế nhất định.
Đa dòng chảy và cửa sổ cơ hội
Lý thuyết tiếp cận đa dòng chảy (The
Multiple Streams Approach) về QTCS của
Kingdon21 đóng vai trò rất quan trọng trong
việc giải thích sự “mơ hồ”, không rõ ràng
khi một đề xuất chính sách có thể trở thành
chính sách, trong khi các đề xuất khác thì
không. Lý thuyết này có các giả thuyết như
các nhà HĐCS hoạt động dưới sự ràng buộc
khắt khe về thời gian, dẫn tới những hạn chế
về số lượng các đề xuất chính sách có thể
được chú ý đến; hệ thống hoạt động trong
một thể chế bao gồm các dòng chảy tương
đối độc lập với nhau, gồm dòng vấn đề,
dòng chính sách và dòng chính trị. Trải qua
việc lập nghị trình với những tương tác giữa
các chủ thể tham gia, có thể xuất hiện “cửa
sổ cơ hội” khi các dòng chảy gặp gỡ, kết hợp
với nhau tại một thời điểm, để một số đề
xuất chính sách được lựa chọn đưa vào nghị
trình, trong khi một số khác thì rất lâu, hoặc
không có cơ hội. Vai trò của người bảo trợ
chính sách cũng được đề cao trong các nỗ
lực tạo sự chú ý và khả năng hội tụ ba dòng
chảy đối với lựa chọn một đề xuất chính
sách. Mặc dù nhấn mạnh vào giai đoạn lập
chương trình, nhưng đây là một lý thuyết
độc lập so với Lý thuyết các giai đoạn. Tuy
nhiên, các giả thuyết của tiếp cận này cũng
gây tranh luận về khả năng nghiên cứu định
lượng, cũng như tính độc lập của các dòng
chảy vấn đề, chính sách và chính trị.
20 Sabatier, P (2007), Theories of the Policy process, Westview Press.
21 Kingdon, J (2011), Agendas, Alternatives, and Public policies, 2nd ed., Pearson.
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
Phân tích thể chế và phát triển
Khung phân tích thể chế và phát triển
(Institutional Analysis and Development
(IAD) Framework)22 được phát triển từ những
năm 1970 bởi Vincent và Elinor Ostrom23 khi
nghiên cứu về các thỏa thuận thể chế, quản
lý nguồn lực công và lựa chọn công. IAD
xem xét, phân tích những vấn đề công trong
một bối cảnh xã hội, phạm vi hành động,
điều kiện ràng buộc về thể chế - “luật chơi”
chi phối các chủ thể chính sách. Trong thể
chế đó, các chủ thể này tương tác lẫn nhau
trong các tình huống hành động nhằm xác
lập các mô hình giải quyết vấn đề công.
Khung khổ này đã đề ra các mục tiêu dự kiến
cần đạt được, cũng như các tiêu chí cụ thể để
đánh giá kết quả. Điểm lưu ý là IAD đưa ra
những giả thuyết nghiên cứu, có thể áp dụng
nhiều lý thuyết khác nhau của kinh tế học,
chính trị học và chú trọng vào các thể chế
công, trong đó đòi hỏi trách nhiệm giải trình
cao của các chủ thể, như chính trị gia hay
công chức hành chính, trong nỗ lực đạt được
các cấp độ mục tiêu chính sách khác nhau,
có thể nghiên cứu ứng dụng cho nhiều nước
đang phát triển hiện nay.
Ngoài ra, còn một số lý thuyết đáng chú
ý khác như: Khung phản hồi chính sách,
Tường thuật chính sách. Việc nhiều học giả
tìm kiếm sự thay thế cho Lý thuyết các giai
đoạn, dẫn đến hình thành nhiều lý thuyết
mới, và kéo theo những tranh luận về vai trò,
vị trí của các lý thuyết này. Tuy nhiên, trên
thực tế, các lý thuyết không phủ định nhau,
mà bổ sung cho nhau để làm rõ hơn bức
tranh đa chiều của QTCS. Trong đó, Lý
thuyết các giai đoạn của QTCS là lý thuyết
khởi đầu cần tiếp cận để nghiên cứu khoa
học chính sách. Mặc dù có nhiều hạn chế và
không phải lý thuyết tổng quát về QTCS,
các giai đoạn chính trong chu trình chính
sách vẫn được coi là chuẩn tắc trong HĐCS.
3. Một số ứng dụng cho hoạt động lập
pháp ở Việt nam
Quốc hội đóng vai trò trung tâm trong
HĐCS, không chỉ vì những quy định trong
Hiến pháp, mà còn bởi mối liên hệ trực tiếp
với nhân dân thông qua bầu cử24, được nhân
dân trao cho quyền lực chính trị, bảo đảm
tính dân chủ và quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Quốc hội là một chủ thể HĐCS
độc lập, quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước, nhưng Quốc hội cũng tương
tác và chịu ảnh hưởng bởi các chủ thể khác
trong quá trình làm chính sách, đặc biệt là
cơ quan hành pháp, người dân và các nhóm
vận động chính sách.
Nhìn chung, một chính sách phải trải
qua nhiều giai đoạn quyết định và không dễ
dàng được Quốc hội thông qua25. Việc thông
qua một dự luật khó hơn rất nhiều so với loại
bỏ nó26. Ví dụ, tham khảo kinh nghiệm của
Hạ viện Mỹ, khóa 101, ngày làm việc đầu
tiên (3/1/1989) có 433 dự luật được đệ trình,
chỉ 11 trong số đó trở thành luật27. Hạ viện
Mỹ khóa 113 (2013-2014) được xem là hoạt
động kém hiệu quả nhất trong lịch sử Quốc
hội hiện đại28, với hàng loạt những dự luật
quan trọng, các chính sách đồ sộ và tham
vọng được thảo luận, nhưng không được
22 Xem chú thích 20, Sabatier, P (2007).
23 Nữ khoa học chính trị đầu tiên đạt giải Nobel Kinh tế (2009) cùng với Oliver Williamson về các đóng góp nghiên cứu quản
lý nguồn lực công.
24 Charles Stewart III (2005), “Congress and the Constitutional System,” in The Legislative Branch, ed. Paul Quirk and Sarah
Binder, Oxford University Press.
25 Bài viết này chủ yếu bàn về HĐCS trong hoạt động lập pháp.
26 Donald Johnson & Jack Walker (1964), “President John Kennedy Discusses the Presidency,” in The Dynamics
of the American Presidency, New York: Wiley.
27 Xem chú thích 11, Paul Burstein (2014).
28 Ed O’Keefe & Sean Sullivan (2014), “Abrupt finish for least productive Congress in modern history,” Washington Post.
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
thông qua. Trong tổng số 8.913 dự luật công
và nghị quyết được trình, chỉ có 179 (2%)
được thông qua. Ngoài ra, từ năm 1983 đến
2012, tổng số luật công giảm 62%, những
dự luật nhỏ tăng từ 35% đến 79%29. Đây
cũng là bài học kinh nghiệm cho hoạt động
lập pháp nước ta, trong khi số dự thảo chính
sách, pháp luật được thảo luận và thông qua
tại mỗi kỳ họp còn rất khiêm tốn, cần lựa
chọn những dự luật hàm chứa chính sách
đáp ứng được những đòi hỏi giải quyết vấn
đề cuộc sống sinh động, thay vì xây dựng
những dự luật đồ sộ, quá phức tạp về mặt
chính sách, phạm vi điều chỉnh nhưng
chung chung, kém hiệu quả trên thực tế.
Tiếp tục hoàn thiện quy trình, thủ tục
HĐCS
Hoạt động của Quốc hội dựa trên những
quy tắc, thủ tục chính thức và không chính
thức. Quy trình thủ tục chính thức là cần
thiết vì nó đảm bảo hoạt động ổn định, hiệu
quả và không phải lo lắng về những tranh
luận mang tính thủ tục, cản trở việc ra quyết
định. Các thủ tục nghị trường cũng tác động
đến hiệu quả đầu ra của chính sách. Giai
đoạn này, QĐCS thường là sự vận dụng
những thủ tục có tác động đến giới hạn
phạm vi và kiểu loại chính sách, cách thức
thảo luận thông qua chính sách. Các chính
sách khác nhau có thể được thông qua theo
những thủ tục nhanh chậm khác nhau.
Quy trình chính sách và quy trình xây
dựng pháp luật gắn bó chặt chẽ với nhau,
bao gồm những thủ tục cần thiết làm tường
minh các giai đoạn mang tính chuẩn tắc mà
chính sách, pháp luật được hình thành. Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 đã đưa hoạt động PTCS vào thành một
giai đoạn trong quy trình xây dựng luật,
pháp lệnh nhưng vẫn còn những hạn chế;
cũng không nên hiểu có hai quy trình chính
sách và quy trình xây dựng luật được chia
đoạn riêng biệt trước sau, tách rời nhau
trong hoạt động lập pháp của Quốc hội30.
Các bước HĐCS cần kết hợp với quy
trình, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật. Tuy nhiên, chừng đó chưa đủ để
phản ánh những gì diễn ra đằng sau các giai
đoạn mang tính thủ tục “trình diễn” này, mà
cần có cái nhìn đa chiều, sâu sắc hơn, dựa
trên ứng dụng các lý thuyết khác nhau về
QTCS. Trong khi đó, quy trình HĐCS ở
nước ta hiện nay mới được mô phỏng, một
cách chưa đầy đủ, theo Lý thuyết về chu
trình chính sách các giai đoạn, bằng quy
định trong trình tự, thủ tục xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật. Bản thân Lý thuyết chu
trình chính sách các giai đoạn không tập
trung vào vai trò các chủ thể chính sách, thể
chế và các tương tác đằng sau sự thay đổi
chính sách qua thời gian. Vì thế, cần mở
rộng nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết
khác nhau về QTCS để hoàn thiện QTCS ở
Việt Nam, nhằm làm rõ vai trò của các chủ
thể tham gia HĐCS nói chung, trong quy
trình lập pháp nói riêng, và hỗ trợ cho các
đại biểu Quốc hội (ĐBQH), các cơ quan của
Quốc hội trong các quyết sách quan trọng.
Khuyến khích nghiên cứu và thực
hành chính sách
Một chính sách có thể thể hiện trong
một hoặc nhiều đạo luật, điều này có thể gây
nhầm lẫn, đánh đồng việc làm chính sách
với làm luật của Quốc hội, hoặc xem nhẹ
NCCS. Như trên đề cập, cần tránh việc đơn
giản hóa NCCS chỉ là phân tích vấn đề hay
đánh giá chính sách dựa trên Lý thuyết các
giai đoạn chính sách, mà cần làm rõ những
vấn đề liên quan, như mối quan hệ giữa
HĐCS và xây dựng pháp luật; tại sao một
29 Don Wolfensberger (2014), “Beltway Insiders: Number of Laws Congress Enacts Isn’t the Whole Picture,” Roll Call.
30 Xem: Nguyễn Anh Phương (2016), “Quy trình chính sách và phân tích chính sách trong hoạt động lập pháp ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 02+03 (306+307) tháng 2/2016, tr. 80-90.
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
CHÑNH SAÁCH
đề xuất chính sách được ưu tiên hơn đề xuất
khác trong nghị trình của Quốc hội; vấn đề
nhóm lợi ích, liên minh ủng hộ chính sách
và vận động hành lang; ảnh hưởng của các
chủ thể làm chính sách như Quốc hội, Chính
phủ, hay vai trò của Đảng trong HĐCS ở
nước ta v.v.. Trong đó, một số lý thuyết được
đánh giá là phù hợp cho các nước đang phát
triển trong quá trình cải cách thể chế, như
Khung phân tích thể chế và phát triển, Lý
thuyết đa dòng chảy, Khung phản hồi chính
sách, Khung liên minh vận động chính
sách31. Tuy vậy, không nên tìm cách pha trộn
đồng thời các lý thuyết này với nhau trong
ứng dụng lập pháp, bởi sẽ tạo nên một
QTCS quá phức tạp với nhiều biến số, giả
thiết khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với
nhau32.
Ngoài ra, cần tạo điều kiện vật chất, môi
trường và không gian nghiên cứu học thuật
tốt ở các trường đại học, viện nghiên cứu về
chính sách, góp phần sớm hình thành hệ
thống lý luận NCCS cơ bản, đồng bộ ở Việt
Nam. Khuyến khích các nghiên cứu chính
sách dựa trên bằng chứng nhằm nâng cao
tính thuyết phục cho HĐCS. Đối với hoạt
động lập pháp, chúng ta vẫn đang thiếu
những nghiên cứu định lượng có chất lượng
để làm cơ sở cho HĐCS dựa trên bằng
chứng. Điểm lưu ý là giai đoạn lấy ý kiến
nhân dân về dự án luật là cần thiết vì nó phù
hợp với “định hướng dân chủ”. Tuy nhiên,
đối với PTCS dựa trên bằng chứng, việc này
có thể cung cấp số liệu thô về một số vấn đề,
và chỉ là một trong rất nhiều nguồn dữ liệu
đầu vào cho phân tích. Với đặc trưng nghiên
cứu đa ngành, cần khuyến khích sự tham gia
nghiên cứu PTCS từ các phân ngành của
khoa học xã hội như kinh tế, tâm lý học, xã
hội học để cung cấp những bằng chứng số
liệu định lượng về kinh tế, xã hội, được phân
tích một cách khoa học, nghiêm ngặt và
thuyết phục.
Minh bạch, trách nhiệm và thuyết
phục
PTCS và quy trình HĐCS đều cần đảm
bảo sự minh bạch, trách nhiệm và thuyết
phục. Minh bạch, trách nhiệm cũng là để
tăng tính thuyết phục cho chính sách được
ban hành. Trong đó, cần nghiêm khắc tránh
việc làm giả số liệu hoặc sử dụng những số
liệu có độ tin cậy thấp, ngụy tạo vì mục đích
phục vụ một nhóm lợi ích nào đó, nhằm
ngăn chặn nguy cơ “tham nhũng chính
sách”. Tính thuyết phục cũng có thể phụ
thuộc vào chính người đề xuất chính sách.
ĐBQH bình đẳng đại diện cho cử tri trong
việc bỏ phiếu quyết định chính sách quốc
gia, tuy vậy, mỗi ĐBQH có thể có những
ảnh hưởng khác nhau đến nghị trình làm
việc, đến việc giới thiệu chính sách dựa trên
các vị trí trong các cơ quan của Đảng và Nhà
nước, hoặc uy tín cá nhân và kỹ năng hoạt
động nghị trường.
Yêu cầu thuyết phục trong việc ra quyết
định đã được phân tích ở trên, có thể lấy
thêm ví dụ để xem xét, như việc sửa Điều
60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 201433 cho
thấy, một chính sách dù được đánh giá là
đúng đắn, nhưng chưa đúng thời điểm, chưa
thực hiện tốt cơ chế tham gia ý kiến của
người lao động, thì không đảm bảo được
tính thuyết phục và khó thành công. “Quốc
hội thông qua luật là đúng, nhưng phải rút
kinh nghiệm ở khâu lấy ý kiến của đối tượng
chịu tác động”34. Ví dụ khác, liên quan đến
31 Lý thuyết này ở Việt Nam đã được triển khai bởi một số tổ chức phi chính phủ, trong các lĩnh vực chính sách như y tế,
môi trường, giảm nghèo bền vững.
32 Xem chú thích 20, Sabatier, P (2007).
33 Hoàng Thu (2015), Đại biểu ‘thấy xấu hổ’ khi luật chưa hiệu lực đã phải sửa, xem:
su/dai-bieu-thay-xau-ho-khi-luat-chua-hieu-luc-da-phai-sua-3222361.html.
34 Phát biểu của ĐBQH Đinh Xuân Thảo về việc sửa đổi Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Xem: Chú thích số 32.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_cua_nghien_cuu_chinh_sach_va_ung_dung_luat_pha.pdf