Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục nhân quyền ở Việt Nam hiện nay

Bốn là, nhà giáo dục giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong giáo dục nhân quyền. Để bảo đảm chất lượng giảng dạy nhân quyền, cần chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên chuyên nghiệp về chuyên ngành luật nhân quyền, đặc biệt là đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, có thể cử giảng viên đi đào tạo, tập huấn ở nước ngoài. Đây là tiền đề để đưa nội dung giáo dục về quyền con người vào giảng dạy chính thức trong hệ thống giáo dục quốc dân; đồng thời có kế hoạch thu hút các giảng viên, nhà khoa học giỏi trong và ngoài nước về lĩnh vực này tham gia giảng dạy về luật nhân quyền tại các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các cơ sở giáo dục chuyên ngành luật. Giáo dục quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cơ sở để giáo dục con người, xây dựng nhà nước pháp quyền, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chống lại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta. Mặc dù có những tiến triển trong thời gian qua, nhưng so sánh mặt bằng chung trên thế giới, phạm vi và trình độ giáo dục quyền con người ở Việt Nam vẫn chưa bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới, cũng như nhu cầu trong nước. Những trở ngại về trình độ, sự thiếu hụt các nhà giáo dục, sự lạc hậu về phương pháp, thiếu các nguồn tài liệu tham khảo có thể được khắc phục trong thời gian tới nếu chúng ta triển khai một cách đồng bộ, với sự quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội thì việc giáo dục quyền con người ở Việt Nam chắc chắn sẽ có bước tiến vượt trội và được cộng đồng quốc tế ghi nhận

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục nhân quyền ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ LYÁ LUÊÅN VAÂ THÛÅC TIÏÎN TRONG GIAÁO DUÅC NHÊN QUYÏÌN ÚÃ VIÏåT NAM HIÏåN NAY nguyễn Đức Trung * Trong những thập kỷ gần đây, vấn đề nhân quyền và giáo dục nhân quyền (GDNQ) nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, nhất là Liên hiệp quốc (LHQ) và các tổ chức thành viên. Ở nước ta, xét ở góc độ nhất định, GDNQ đã được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân, lồng ghép trong giáo dục đạo đức công dân, giáo dục chính trị pháp luật. Cùng với tăng cường các hoạt động nghiên cứu nhân quyền, vấn đề GDNQ ở nước ta đã có những bước phát triển mới, thể hiện ở cả nội dung, hình thức và phương pháp. Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, hoạt động GDNQ vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập cần được khắc phục. Bài viết tập trung làm sáng tỏ khái niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức phương pháp và khái quát GDNQ trong các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học chuyên ngành luật gắn với giảng dạy luật nhân quyền. 9 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 1. nhận thức chung về nhân quyền, giáo dục nhân quyền Vấn đề nhân quyền (quyền con người) đã được đề cập từ rất sớm trong lịch sử, như trong giáo lý của các tôn giáo lớn (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo), các đạo luật cổ xưa nhất (Luật Hammurabi, Luật Manu), trong Đại Hiến chương Magna Carta (1251), Bộ luật về các Quyền (1689) của Vương quốc Anh; Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn về các Quyền của con người và của công dân Pháp năm 1789 Nhưng chỉ đến khi LHQ được thành lập (1945) thì vấn đề nhân quyền và GDNQ mới trở thành mối quan tâm chủ đạo, xuất hiện phổ biến trong các chương trình nghị sự quốc tế cả ở cấp độ khu vực và quốc tế. Từ đó đến nay, LHQ và các cơ quan trực thuộc đã thông qua hàng trăm văn kiện quốc tế về nhân quyền, trong đó có hơn 30 điều ước quốc tế chuyên biệt về nhân quyền. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những hậu quả nặng nề mà chủ nghĩa phát xít để lại đã thức tỉnh lương tri của loài người, đòi hỏi phải thiết lập một cơ chế nhằm bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, tránh cho nhân loại những thảm họa tương tự. LHQ, với tôn chỉ và mục đích cao đẹp, được * ThS. Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng. thành lập để thúc đẩy và hiện thực hóa những mục tiêu ấy, không chỉ bằng việc khởi thảo xây dựng một hệ thống văn kiện hoàn chỉnh (trong đó đáng chú ý nhất là Bộ luật Nhân quyền) mà còn thiết lập một bộ máy các cơ quan chuyên trách về bảo vệ nhân quyền. Nhân quyền đã trở thành vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, mối bận tâm của tất cả các quốc gia, và là một đề mục chi phối mạnh mẽ các chương trình nghị sự của LHQ. Trong pháp luật nhân quyền quốc tế, ba văn kiện pháp lý (Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 và hai Công ước về các Quyền dân sự, chính trị; Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cùng năm 1966) đã hình thành nên Bộ luật Nhân quyền quốc tế, tạo tiền đề cho việc thúc đẩy và GDNQ trên thế giới. Thuật ngữ giáo dục quyền con người cũng xuất hiện với tần suất cao hơn trong các văn kiện của các tổ chức quốc tế và khu vực, như Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Tổ chức Các nước châu Mỹ (OAS), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Tôn trọng và thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người đã trở thành xu thế tất yếu mang tính toàn cầu. Có thể quan niệm giáo dục quyền con người là một quá trình nhằm truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng để người học có những hiểu biết về quyền con người, những giá trị phẩm giá, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau, sự tôn trọng và hiểu biết về quyền của người khác, tôn trọng pháp luật để từ đó thúc đẩy mọi người tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội và cùng nhau xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền” chung1. GDNQ thực chất là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con người, giúp họ biết bảo vệ mình và biết cách tôn trọng quyền của người khác. Mục đích của giáo dục quyền con người là nhằm thức tỉnh, thay đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, xây dựng thái độ đúng đắn về nhân quyền. Theo LHQ, mục đích của GDNQ không gì khác hơn là “xây dựng một nền văn hóa nhân quyền toàn cầu và cho tất cả mọi người - xây dựng mối quan hệ hợp tác trên toàn cầu vì nhân quyền - thúc đẩy sự khoan dung trong tư tưởng nhân quyền rộng khắp thế giới”2. Đó là cung cấp những hiểu biết về nội dung, ý nghĩa của các quyền cơ bản của con người. GDNQ được coi là hạt nhân của giáo dục chính trị, đạo đức, xã hội và văn hóa, gắn liền với sự phát triển của văn minh loài người, các nhóm khác nhau trong xã hội, trang bị tri thức, sự hiểu biết các quyền mang tính bảo vệ (quyền khiếu nại, quyền tố cáo, quyền khởi kiện) tạo thành nền tảng của thể chế nhà nước pháp quyền, giáo dục ý thức tôn trọng quyền của người khác, nhất là tôn trọng các quyền của những nhóm người yếu thế trong xã hội, đồng thời cung cấp cơ sở cho việc giải quyết xung đột và thúc đẩy trật tự xã hội. Đối tượng GDNQ bao gồm toàn bộ cá nhân đang tồn tại trong cộng đồng nhân loại. Trong mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể, đối tượng giáo dục quyền con người là những cá nhân công dân, những nhóm, những cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận những tác động của hoạt động giáo dục. Đối tượng giáo dục quyền con người rất phong phú và đa dạng, có thể phân thành các nhóm dựa trên cơ sở, yếu tố, trạng thái, địa vị pháp lý, điều kiện kinh tế, môi trường sống, việc làm, truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo nhất định 1 Đặng Ngọc Hoàng, Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội; năm 2000. 2 Thông điệp các Đại diện Cao ủy LHQ về nhân quyền nhân Ngày nhân quyền năm 1997. 10 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT gắn với mỗi chủ thể. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, có thể phân loại thành: - Nhóm cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, Đảng; - Nhóm là thành viên của các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; - Nhóm học sinh, sinh viên đang theo học tại các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; - Nhóm người lao động trong các loại hình doanh nghiệp; - Nhóm những người lao động ở khu vực nông thôn; - Nhóm những người đã quá tuổi lao động; - Nhóm những người yếu thế trong xã hội, như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật; - Nhóm những người công tác trong lĩnh vực giáo dục3. Nội dung của giáo dục quyền con người là tổng thể những hiểu biết cần thiết để mỗi cá nhân có thể nhận thức và đủ khả năng bảo vệ, thúc đẩy những giá trị quyền của mình. Nội dung giáo dục quyền con người có thể khái quát ở những điểm sau: - Các thông tin về quyền con người, bao gồm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia (các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân); - Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về quyền con người; - Lịch sử hình thành và phát triển quyền con người; - Các thông tin về thực hiện quyền con người; - Các thông tin về kết quả nghiên cứu, hình thức, nội dung, phương pháp, kinh nghiệp tổ chức giáo dục quyền con người; - Các thông tin về hệ thống, các cơ quan thực hiện giáo dục quyền con người Phương pháp giáo dục quyền con người có thể thực hiện thông qua nhiều hình thức và bằng các biện pháp cụ thể khác nhau, như: mô phỏng, giáo dục chính khóa, giáo dục ngoại khóa, thảo luận Phương pháp giáo dục quyền con người luôn tùy thuộc vào mục đích, nội dung giáo dục và phù hợp với từng đối tượng nhất định. 2. Thực trạng giáo dục quyền con người ở Việt nam Nhân quyền là nét đẹp trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Vấn đề GDNQ ở Việt Nam là một yêu cầu tất yếu khách quan. Là một dân tộc có truyền thống nhân đạo, khoan dung, trong lịch sử chống giặc ngoại xâm ông cha ta đã nhiều lần không những bảo toàn tính mạng mà còn cung cấp lương thực, ngựa, xe, thuyền bè... cho những đạo quân xâm lược bại trận trở về quê hương bản quán. Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) đời Hậu Lê được các học giả trong nước và quốc tế đánh giá rất cao vì đã chứa đựng nhiều quy định mang tính nhân quyền và nhân đạo sâu sắc khi so sánh với những đạo luật của các nước khác trên thế giới cùng thời kỳ. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập (tháng 8/1945), một trong những quyết định chính sách đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra là thực hiện các hoạt động nhân đạo, đặc biệt là cứu đói cho đồng bào nghèo. Để thực hiện chính sách đó, ngày 23/11/1946, tổ chức nhân đạo trung tâm của nước ta là Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã được thành lập, do Bác Hồ làm Chủ tịch danh dự đầu tiên. Từ đó đến nay, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam luôn đóng vai trò nòng cốt 3 Thế Ngọc Mai, Quyền con người và giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, năm 2014. 11 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT trong các hoạt động nhân đạo ở nước ta, với các hoạt động rộng khắp và hiệu quả. Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã long trọng tuyên bố về các quyền và tự do cơ bản của con người. Trong kháng chiến chống Pháp, mặc dù chưa phải là thành viên các điều ước quốc tế về luật nhân đạo, nhưng Nhà nước ta luôn tuân thủ các quy tắc của ngành luật này trong việc đối xử với tù binh. Kể từ năm 1947, Nhà nước Việt Nam hàng năm đều đơn phương phóng thích hàng ngàn tù binh Pháp. Ngay sau ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Nhà nước ta đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi nhất để quân đội Pháp tiếp nhận các thương, bệnh binh của họ ở chiến trường. Năm 1957, Việt Nam chính thức gia nhập bốn Công ước Giơ-ne-vơ năm 1949 - những văn kiện nền tảng của luật nhân đạo quốc tế. Từ đó đến nay, nước ta đã là thành viên của gần 20 điều ước quốc tế về luật nhân đạo. Ngay sau khi gia nhập LHQ (1977), nước ta đã xúc tiến việc tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền của tổ chức này. Đầu thập kỷ 1980, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng nhất về nhân quyền, trong đó có hai Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị và về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá năm 1966. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của 10 điều ước quốc tế về nhân quyền của LHQ. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia nhiều điều ước quốc tế khác liên quan mật thiết đến vấn đề nhân quyền do các tổ chức chuyên môn của LHQ như ILO, UNESCO ban hành. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 xác định: ở Việt Nam, các quyền con người về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội văn hóa được bảo đảm. Hiến pháp năm 2013 dành hẳn Chương 2 như một sự ưu tiên đối với việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế. So sánh với các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã tham gia ở mức trung bình về mặt số lượng các điều ước quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên, xét về mặt tính chất, Việt Nam thể hiện sự cởi mở và trách nhiệm rất cao, kể cả khi so sánh với một số các “siêu cường quốc”, vì đã phê chuẩn, gia nhập và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả hầu hết điều ước quan trọng nhất của ngành luật này. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam đã nhất trí về Hiến chương ASEAN, trong đó có một chương quy định về cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong khu vực. Trước đó, Việt Nam cũng đã ký nhiều văn kiện khác của ASEAN về nhân quyền và nhân đạo, trong đó có văn kiện về chống buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo vệ người lao động nước ngoài, mới đây đã tham gia công ước về chống tra tấn... Đồng thời với việc tham gia các điều ước, văn kiện quốc tế và khu vực, Nhà nước ta rất quan tâm đến việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế phát sinh từ các điều ước, văn kiện đã ký kết hoặc gia nhập, trong đó có việc nội luật hoá các nguyên tắc và quy định của luật nhân quyền và nhân đạo quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia cũng như việc triển khai thực hiện các quy định đó trên thực tế. Nhìn chung, hệ thống pháp luật nước ta hiện đã phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản đề ra trong các công ước của hai ngành luật này mà Việt Nam là thành viên. Mặc dù vậy, xu hướng phát triển của luật nhân quyền quốc tế và những vấn đề nhân quyền ở mỗi quốc gia đang đặt ra những yêu cầu mới, ngày càng cao hơn với Việt Nam và các quốc gia khác. Nhất là trong lĩnh vực giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, thực hiện và tuân thủ các cam kết quốc tế, thúc đẩy hành động hài hòa với xu hướng phát triển chung về bảo vệ và phát triển các giá trị bền vững về nhân quyền trên thế giới và khu vực. Giáo dục quyền con người là 12 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT cách thức cơ bản nhằm nâng cao nhận thức, thúc đẩy, bảo vệ và thực thi quyền con người. Nghiên cứu và giáo dục quyền con người, do vậy cũng được nhiều tổ chức và cơ quan chuyên môn quan tâm, trong tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, về lý thuyết, tư duy lý luận và ứng dụng thực tiễn. Nhiều cuộc tập huấn, hội nghị, hội thảo về các vấn đề quyền con người từ việc bảo vệ quyền của các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người có HIV đến những vấn đề dân sự, chính trị nhạy cảm như án tử hình, tra tấn đã được triển khai trong những năm qua. Cách thức này được áp dụng phổ biến và hiệu quả ở nhiều nơi, trong đó có hệ thống các trường đại học. Viện Nghiên cứu Quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện các hoạt động giáo dục quyền con người đã đưa vào giảng dạy trong một số chương trình đào tạo cho cán bộ lãnh đạo, quản lý học tại Học viện từ năm 1998. Khoa Luật một số trường đại học Việt Nam cũng đã có chuyên đề về quyền con người trong khuôn khổ môn học Công pháp quốc tế. Trường Đại học Luật Hà Nội có bố trí chương trình giảng dạy về quyền con người với thời lượng 20 tiết cho đào tạo trình độ thạc sĩ, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Năm 2013, Khoa Luật Đại học Quốc gia đã xuất bản tập giáo trình “Lý luận và pháp luật về quyền con người” Nhưng đáng tiếc là vấn đề nghiên cứu, giảng dạy về luật nhân quyền trong chương trình giảng dạy chính khóa ở các cơ sở giáo dục đại học vẫn còn nhiều hạn chế, chưa làm được bao nhiêu. Hiện nay, chúng ta chưa có cơ sở giáo dục đại học nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và thực hiện giảng dạy một cách hệ thống về luật nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế. Vào năm 1994, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã thành lập một cơ quan nghiên cứu về vấn đề nhân quyền là Trung tâm Nghiên cứu nhân quyền, nay đổi tên là Viện Nghiên cứu Nhân quyền. Tuy nhiên, do luật nhân quyền là vấn đề mới, khó và do chức năng của cơ quan này hướng vào nghiên cứu các vấn đề lý luận về nhân quyền nên kết quả nghiên cứu về luật quốc tế về nhân quyền và nhân đạo còn rất hạn chế, chủ yếu đang dừng ở việc dịch một số văn bản của ngành luật này ra tiếng Việt, còn việc giảng dạy về nhân quyền chỉ có 4 tiết ở thời gian đầu, đến nay gần như không thực hiện giảng dạy ở các lớp chính trị trung và cao cấp, các lớp cao học và nghiên cứu sinh của Học viện, kể cả đối với ngành Luật học. Văn phòng Nhân quyền của Chính phủ chủ yếu được thành lập ra để tham mưu, tư vấn về nhân quyền và và đấu tranh chống lợi dụng nhân quyền. Các Trung tâm nghiên cứu về Quyền con người ở một vài trường đại học hứa hẹn sẽ tăng cường năng lực nghiên cứu về nhân quyền ở Việt Nam, nhưng chưa có nhiều sản phẩm nghiên cứu với chất lượng cao và chưa thực hiện chương trình giảng dạy hoàn chỉnh và có hệ thống về luật nhân quyền và nhân đạo, việc nghiên cứu giảng dạy mới chỉ mang tính chất thí điểm và thiếu yếu tố bền vững. Việc giảng dạy về luật nhân quyền trong các cơ sở giáo dục đại học không chỉ còn bó hẹp về chương trình, nội dung, đối tượng và phương pháp, mà còn chưa đáp ứng và có khoảng cách khá xa so với đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp đổi mới đất nước, trong đó quyền con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp đổi mới. 3. Một số kiến nghị thúc đẩy giáo dục quyền con người ở Việt nam Một là, giáo dục quyền con người là một trong những nội dung quan trọng của LHQ, hệ thống giáo dục các nước trên thế giới hiện nay rất quan tâm đến giáo dục quyền con người. LHQ đã phát động Thập kỷ Giáo dục quyền con người, Việt Nam là thành viên của LHQ nên cần phải đưa chương trình giáo dục quyền con người, quyền công dân vào hệ thống giáo dục quốc dân. Đặc biệt là cần đưa nội dung giáo dục 13 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 23(327) T12/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 14 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 23(327) T12/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT quyền con người vào chương trình giảng dạy của các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật và các trường thuộc khối khoa học xã hội nhân văn. Khi đưa dạng giáo dục này vào giảng dạy chính thức, nội dung của nó có thể được lồng ghép, tích hợp trong nội dung giảng dạy của các môn học khác có liên quan như giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật. Đồng thời, phải đưa môn học này vào chương trình chính khóa từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông. Hai là, nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng có trách nhiệm trong giáo dục quyền con người. Các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà giáo dục cần nhận thức đúng tầm quan trọng và sự cần thiết phải đưa giáo dục quyền con người vào trong các chương trình đào tạo ở các cấp học, bậc học, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Cần chú trọng tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các tri thức về nhân quyền cho các chủ thể có trách nhiệm, trước hết là các nhà quản lý, nhà giáo dục. Cùng với đó là mở rộng và thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua các hình thức hội thảo khoa học, cử chuyên gia đi đào tạo về nhân quyền ở các trường đại học, viện nghiên cứu về nhân quyền trên thế giới. Ba là, xác định đúng và nâng cao chất lượng các hình thức, phương pháp giáo dục quyền con người phù hợp với từng đối tượng, khả năng nhận thức và các điều kiện khách quan khác, nhất là những nhóm chuyên biệt. Cần sáng tạo và vận dụng nhuần nhuyễn tổng hợp các hình thức, phương pháp giáo dục khác nhau, trong đó chú trọng cả các hình thức giáo dục chính khóa và ngoại khóa. Nghiên cứu các hình thức giáo dục cơ bản như phổ biến, tuyên truyền về quyền con người thông qua hội nghị, hội thảo, câu lạc bộ, tranh ảnh, pa nô, áp phích, tờ rơi, đài truyền thanh, đài phát thanh truyền hình, phim và các loại hình nghệ thuật khác. Bên cạnh đó, cần chú trọng các hình thức giáo dục đặc thù thông qua các hoạt động hoạch định chính sách, đường lối, hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Bốn là, nhà giáo dục giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong giáo dục nhân quyền. Để bảo đảm chất lượng giảng dạy nhân quyền, cần chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên chuyên nghiệp về chuyên ngành luật nhân quyền, đặc biệt là đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, có thể cử giảng viên đi đào tạo, tập huấn ở nước ngoài. Đây là tiền đề để đưa nội dung giáo dục về quyền con người vào giảng dạy chính thức trong hệ thống giáo dục quốc dân; đồng thời có kế hoạch thu hút các giảng viên, nhà khoa học giỏi trong và ngoài nước về lĩnh vực này tham gia giảng dạy về luật nhân quyền tại các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các cơ sở giáo dục chuyên ngành luật. Giáo dục quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cơ sở để giáo dục con người, xây dựng nhà nước pháp quyền, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chống lại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta. Mặc dù có những tiến triển trong thời gian qua, nhưng so sánh mặt bằng chung trên thế giới, phạm vi và trình độ giáo dục quyền con người ở Việt Nam vẫn chưa bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới, cũng như nhu cầu trong nước. Những trở ngại về trình độ, sự thiếu hụt các nhà giáo dục, sự lạc hậu về phương pháp, thiếu các nguồn tài liệu tham khảo có thể được khắc phục trong thời gian tới nếu chúng ta triển khai một cách đồng bộ, với sự quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội thì việc giáo dục quyền con người ở Việt Nam chắc chắn sẽ có bước tiến vượt trội và được cộng đồng quốc tế ghi nhận n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_trong_giao_duc_nhan_quyen.pdf