Kết luận
Phát triển kinh tế xanh là
phát triển một nền kinh tế thân
thiện với môi trường, hao tổn ít
nhiên liệu, tăng cường các ngành
công nghiệp sinh thái và tăng
trưởng bền vững theo chiều sâu,
góp phần xóa đói giảm nghèo,.
Phát triển kinh tế xanh sẽ mang
lại các lợi ích thiết thực trên ba
trụ cột là kinh tế, xã hội và môi
trường. Như vậy, nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về phát
triển kinh tế xanh đã giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về phát triển kinh
tế xanh.
Cách thức để phát triển nền
kinh tế xanh đối với một quốc
gia có thể rất khác nhau, điều đó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy
nhiên, những nguyên tắc quan
trọng bao gồm đảm bảo phúc lợi
cao nhất, đạt mục tiêu công bằng
về mặt xã hội và hạn chế tối đa
những rủi ro cho môi trường và
hệ sinh thái thì vẫn luôn không
thay đổi. Và, phát triển kinh tế
xanh là mục tiêu chung mà các
quốc gia cần hướng tới.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận và xu thế phát triển kinh tế xanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 25
Khoa hoïc xaõ hoäi
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
XU THẾ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH
Lê Thị Thanh Thủy1, Ngô Thị Thanh Tú1, Đặng Hoàng Cương2
1Khoa KT - QTKD, Trường Đại học Hùng Vương
2Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Phú Thọ
TóM TắT
Một trong những lý thuyết kinh tế mới xuất hiện gần đây là “kinh tế xanh”. Lý thuyết kinh tế này tập
trung trực tiếp vào nghiên cứu việc đáp ứng nhu cầu của con người và môi trường, vì sự phát triển bền
vững. Bằng phương pháp tiếp cận hệ thống, nghiên cứu này đã làm rõ khái niệm, nội dung, lợi ích của phát
triển kinh tế xanh. Đồng thời, nghiên cứu cũng đề cập đến các chỉ tiêu đo lường kinh tế xanh và xu hướng
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.
Từ khóa: Kinh tế xanh, phát triển bền vững, lý thuyết kinh tế.
1. Mở đầu
Hiện nay, kinh tế xanh vẫn
là một khái niệm rất mới đối
với nhiều người. Theo Chương
trình Môi trường Liên Hợp
Quốc (UNEP) thì kinh tế xanh
là nền kinh tế vừa mang lại
hạnh phúc cho con người, công
bằng cho xã hội, vừa giảm thiểu
đáng kể các rủi ro, tai biến về
môi trường và khủng hoảng
sinh thái. Đây được xem là
mô hình mới, góp phần giải
quyết những thách thức mang
tính toàn cầu như biến đổi khí
hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên,... Trước tình trạng suy
thoái tài nguyên thiên nhiên, sự
gia tăng nhanh chóng phát thải
khí nhà kính và ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu, kinh tế xanh
sẽ là xu hướng phát triển tất yếu
và là lựa chọn của nhiều quốc
gia trên thế giới.
Phát triển kinh tế xanh khắc
phục được những vấn đề toàn
cầu hiện tại và hướng tới sự phát
triển bền vững. Tuy nhiên, kinh
tế xanh hiện vẫn là một lý thuyết
kinh tế non trẻ, nên lý thuyết
này còn nhiều vấn để cần thảo
luận. Do đó, nghiên cứu một số
vấn đề lý luận về phát triển kinh
tế xanh là cần thiết và rất có ỹ
nghĩa.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận:
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng
phương pháp tiếp cận hệ thống
để xem xét và làm rõ một số vấn
đề liên quan phát triển kinh tế
xanh.
Phương pháp thu thập thông
tin: Đây là nghiên cứu tổng
quan nên những thông tin trình
bày trong nghiên cứu chủ yếu là
những thông tin thứ cấp được
thu thập từ các tài liệu đã được
công bố, các ấn phẩm, các tài
liệu đăng tải trên internet.
3. Kết quả nghiên cứu và
thảo luận
3.1. Khái niệm phát triển
kinh tế xanh
Lý thuyết về kinh tế xanh là
xu hướng mới của lý thuyết kinh
tế học hiện đại. Thực tế tồn tại
và phát triển hơn hai thế kỷ của
kinh tế học truyền thống cho
chúng ta thấy lý thuyết này đã
đặt sức ép quá lớn lên thế giới
tự nhiên và các nguồn lực của
nó. Phát triển kinh tế chủ yếu
chú trọng vào mặt hiệu quả - lợi
ích mang lại từ các hoạt động
sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ, mà chưa tính đến các chi phí
phải đầu tư để ngăn ngừa, giảm
ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu
hiện nay đang tàn phá nhiều
hơn là tạo ra của cải thực. Do
đó, quá trình phát triển kinh tế
này đã đưa thế giới tới suy thoái
kinh tế, khủng hoảng sinh thái
và biến đổi khí hậu. Nếu nhìn
nhận mục tiêu phát triển kinh
tế theo hướng bền vững, thì mô
hình phát triển kinh tế hiện tại
rõ ràng không còn phù hợp nữa.
Nhà kinh tế học nổi tiếng
thế giới Herman Daly cho rằng
tương lai của nền văn minh loài
người phụ thuộc vào một mô
hình kinh tế mới và năng động -
được biết đến như là nền kinh tế
bền vững - bảo vệ và gìn giữ môi
trường mà chúng ta đang phụ
thuộc vào nó (Tushara Kodikara,
2009). Vì vậy, chúng ta cần định
hướng lại kinh tế học của chúng
ta để nó quay trở về đúng quỹ
đạo và do đó, làm cho cuộc sống
Khoa hoïc xaõ hoäi
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä26
trở nên tốt đẹp hơn. Kinh tế học
xanh nhìn thấy những khiếm
khuyết của kinh tế học đương
đại trong thế giới hiện đại, ở đó
một phần năm dân số hiện vẫn
sống trong cảnh nghèo và trong
sự tiếp diễn của khủng hoảng
môi trường. Theo đó, lý thuyết
kinh tế xanh đưa ra các nguyên
tắc và các giải pháp thực tế, tích
cực và hiệu quả đối với các vấn
đề toàn cầu, vì sự phát triển bền
vững, vì sự tồn tại của thế giới tự
nhiên mà loài người là một phần
trong đó và phụ thuộc vào nó, và
vì sự cân bằng tự nhiên giữa loài
người và thế giới tự nhiên.
Ý tưởng phát triển kinh tế
xanh được đưa ra từ thập kỷ
70 của thế kỷ trước. Ý tưởng
này xuất hiện trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng năng lượng
năm 1972- 1973 gây ra những
tác động nghiêm trọng tới nền
kinh tế thế giới. Tuy đã có một
số nghiên cứu bước đầu, song
đến đầu những năm 2000, khái
niệm kinh tế xanh vẫn chưa thu
hút nhiều sự quan tâm của cộng
đồng quốc tế.
Thời gian gần đây, khái niệm
kinh tế xanh bắt đầu thu hút sự
quan tâm chú ý rộng rãi hơn khi
mô hình kinh tế nâu (brown
economy) chủ yếu dựa vào khai
thác và sử dụng nguyên liệu hóa
thạch ngày càng bộc lộ nhiều bất
cập, không đáp ứng được các yêu
cầu về phát triển bền vững. Đặc
biệt, sau cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008-2009,
phát triển kinh tế xanh trở thành
chủ đề quan tâm hàng đầu của
cộng đồng quốc tế và được coi là
một trong những ưu tiên chính
trong chính sách tái cơ cấu kinh
tế của nhiều quốc gia cũng như
giải quyết các thách thức toàn
cầu đang nổi lên như biến đổi
khí hậu, an ninh lương thực, an
ninh năng lượng, Tuy nhiên,
phải đến tháng 10/2008, UNEP
phối hợp với các nền kinh tế
hàng đầu thế giới mới triển khai
sáng kiến “kinh tế xanh” (Green
Economy). Đây là một hướng
tiếp cận mới, được nhiều quốc
gia đồng tình hưởng ứng. Thuật
ngữ này nói đến các hoạt động
kinh tế, đặc biệt là sản xuất và
năng lượng, trong đó con người
không làm hại môi trường mà
ngược lại làm giảm tác hại cho
môi trường sống. Nói chung,
đó là những hoạt động kinh tế
nhằm giảm bớt những độc hại
của nền kinh tế cũ và tạo ra
những hoạt động mới trong đó
không gây hại thêm cho nước
và không khí trên trái đất. Kinh
tế xanh gồm các ngành thân
thiện với môi trường và đặc biệt
coi trọng mối quan hệ giữa con
người với môi trường sinh thái.
Phát triển kinh tế xanh giúp tạo
ra nhiều việc làm, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ổn định, làm dịu
khí hậu và ngăn chặn các tác
động tổn hại tài nguyên. Do đó
kinh tế xanh đóng vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát
triển bền vững của các quốc gia.
Đến nay, chưa có định nghĩa
thống nhất về “kinh tế xanh”.
Tuy nhiên, có thể hiểu theo một
cách ngắn gọn “kinh tế xanh” là
nền kinh tế mà chính sách phát
triển có định hướng thị trường,
nền tảng là các nền kinh tế
truyền thống, mục tiêu là sự hòa
hợp giữa kinh tế và môi trường
sinh thái. Động lực mới của
nền kinh tế xanh là bảo vệ môi
trường, phát triển công nghệ sản
xuất sạch và năng lượng sạch,
nhanh chóng đạt được mức tăng
trưởng bền vững (UNEP, trích
bởi Vụ Tổng hợp kinh tế - Bộ
ngoại giao, 2009).
Theo nhận định của các
chuyên gia, chiến lược kinh tế
xanh đã trở thành bước ngoặt
phát triển cho tiến trình khôi
phục kinh tế toàn cầu và cũng
là động lực mới cho việc thúc
đẩy kinh tế toàn cầu phát triển
bền vững. Liên Hiệp Quốc nhận
định, chính sách kinh tế xanh
còn là con đường phát triển
cần thiết cho kinh tế toàn cầu
cho tương lai (UNEP, trích bởi
Vụ Tổng hợp kinh tế - Bộ ngoại
giao, 2009).
Theo Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (Organization
for Economic Cooperation and
Development - OECD): Tăng
trưởng xanh là thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế
đồng thời đảm bảo các nguồn
tài sản tự nhiên tiếp tục cung
cấp các tài nguyên và dịch vụ
môi trường thiết yếu cho cuộc
sống của chúng ta. Để thực hiện
điều này, tăng trưởng xanh phải
là nhân tố xúc tác trong việc đầu
tư và đổi mới, là cơ sở cho sự
tăng trưởng bền vững và tăng
cường tạo ra các cơ hội kinh tế
mới.
Theo UNEP (2011), nền kinh
tế xanh là “nền kinh tế nâng cao
đời sống của con người và cải
thiện công bằng xã hội, đồng
thời giảm thiểu những rủi ro
môi trường và những thiếu hụt
sinh thái”.
Ở Việt Nam, trong “Chiến
lược quốc gia về tăng trưởng
xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm
nhìn đến năm 2050” được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt
ngày 25 tháng 9 năm 2012, đã
đưa ra quan điểm: Tăng trưởng
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 27
Khoa hoïc xaõ hoäi
xanh ở Việt Nam là phương
thức thúc đẩy quá trình tái cơ
cấu nền kinh tế để tiến tới việc
sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, giảm phát thải khí
nhà kính thông qua nghiên cứu
và áp dụng công nghệ hiện đại,
phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng để nâng cao hiệu quả nền
kinh tế, ứng phó với biến đổi
khí hậu, góp phần xóa đói giảm
nghèo và tạo động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế một cách
bền vững.
Tóm lại, các khái niệm của
các tổ chức khác nhau có cách
diễn đạt khác nhau nhưng
chúng đều quy tụ ở 3 nội dung
cơ bản, đó là:
- Kinh tế xanh là nền kinh tế
thân thiện với môi trường, giảm
phát thải khí nhà kính để giảm
thiểu biến đổi khí hậu.
- Kinh tế xanh là nền kinh tế
tăng trưởng theo chiều sâu, hao
tổn ít nhiên liệu, tăng cường các
ngành công nghiệp sinh thái,
đổi mới công nghệ.
- Kinh tế xanh là nền kinh tế
tăng trưởng bền vững, xóa đói
giảm nghèo và phát triển công
bằng.
Như vậy, có thể nói kinh tế
xanh là mô hình mục tiêu của
các quốc gia. Phát triển kinh
tế xanh không những tạo thêm
của cải, đặc biệt đối với vốn tự
nhiên, mà còn gia tăng tốc độ
tăng trưởng GDP. Nền kinh
tế xanh còn là trụ cột để giảm
nghèo. Trong thời kỳ quá độ
sang nền kinh tế xanh, những
việc làm mới được tạo ra sẽ dần
thay thế việc làm bị mất đi do
chuyển đổi từ nền kinh tế nâu
sang xanh. Tuy nhiên, sẽ không
tránh khỏi có giai đoạn tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao, đòi hỏi sự
đầu tư vào công tác tái đào tạo
nguồn nhân lực.
3.2. Nội dung của phát triển
kinh tế xanh
Kinh tế xanh là khoa học
kinh tế nghiên cứu về thế giới
thực của việc làm, các nhu cầu
của con người, các nguồn lực
của Trái đất và cách thức kết
hợp hài hòa giữa các phạm trù
này với nhau. Thế giới thực
này trước hết phản ánh giá trị
sử dụng chứ không phải giá trị
trao đổi hay tiền bạc. Nó thể
hiện mặt chất lượng, chứ không
phải mặt số lượng, vì lợi ích
cuộc sống của các loài. Kinh
tế xanh quan tâm tới sự tái tạo
của các cá nhân, các cộng đồng
và các hệ sinh thái, chứ không
phải là sự tích lũy tiền bạc hay
vật chất (Brian Milani, 2005).
Xuất phát từ khái niệm và luận
cứ nêu trên, các nhà kinh tế nêu
ra một số nội dung cơ bản của
kinh tế xanh là: (1) Kinh tế xanh
đề cao giá trị sử dụng, tiền chỉ
được xem là phương tiện để đạt
đến đích, chứ không phải là giá
trị trao đổi của nó; (2) Kinh tế
xanh coi trọng chất lượng, chứ
không phải số lượng, vì lợi ích
cuộc sống của con người, các
loài và của chính hành tinh Trái
đất này; (3) Kinh tế xanh hướng
tới mục tiêu đổi mới và tái tạo
của các cá nhân, các cộng đồng
và các hệ sinh thái, thay vì tích
lũy tiền bạc hay vật chất; (4)
Con người không còn phù hợp
với các cơ chế tích lũy tiền bạc
và vật chất nữa; (5) Kinh tế xanh
chú trọng tới phát triển sinh
thái dựa trên việc thúc đẩy phát
triển con người và mở rộng dân
chủ giữa các loài và các hệ, đảm
bảo mối quan hệ hài hòa giữa
các thực thể trên Trái đất; (6)
Khu vực công cộng và khu vực
tư nhân được biến đổi sao cho
các thị trường có thể thể hiện
các giá trị xã hội và sinh thái; (7)
Nhà nước được hòa nhập với
các mạng lưới đổi mới cộng
đồng của dân chúng.
Theo Trung tâm công dân
toàn cầu (Global Citizens
Center), kinh tế xanh là sự kết
hợp giữa kinh tế – xã hội – môi
trường, là một nền kinh tế gắn
liền với 3 vấn đề: (1) Môi trường
bền vững: dựa theo quan điểm
rằng sinh quyển của chúng ta
là một hệ thống khép kín với
nguồn tài nguyên hữu hạn và
một khả năng nhất định trong
việc tự điều chỉnh và tự phục
hồi. Chúng ta sống nhờ vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên
trên Trái đất, chính vì thế, con
người cần phải tạo ra một hệ
thống kinh tế biết tôn trọng sự
toàn vẹn của hệ sinh thái và
đảm bảo khả năng phục hồi
của hệ thống hỗ trợ cuộc sống;
(2) Công bằng xã hội: dựa theo
quan điểm coi văn hóa và phẩm
giá con người, cũng giống như
nguồn tài nguyên thiên nhiên, là
tài nguyên quý giá, đòi hỏi quản
lý trách nhiệm để chúng không
bị mai một. Chúng ta cần thiết
lập một nền kinh tế sôi động
đảm bảo cho tất cả mọi người
một cuộc sống tươm tất và có
đủ cơ hội cho việc phát triển cá
nhân cũng như xã hội; (3) Bắt
nguồn từ địa phương: người ta
cho rằng đặt ra một sự kết nối
đáng tin cậy là điều kiện tiên
quyết để phát triển bền vững và
công bằng. Kinh tế xanh là một
tổng hợp toàn cầu của mỗi cộng
đồng nhằm đáp ứng những nhu
cầu của chính các công dân
trong cộng đồng ấy, thông qua
Khoa hoïc xaõ hoäi
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä28
việc chịu trách nhiệm sản xuất
của địa phương và việc trao đổi
hàng hóa và dịch vụ.
3.3. Lợi ích của phát triển
kinh tế xanh
Lợi ích của phát triển kinh tế
xanh là rất rõ ràng và bao hàm
không chỉ lợi ích đối với môi
trường mà còn cả lợi ích xã hội
và lợi ích kinh tế. Cụ thể:
Phát triển kinh tế xanh đóng
góp vào quá trình phục hồi
nền kinh tế thế giới, duy trì và
tạo việc làm mới, và bảo vệ các
nhóm người dễ bị tổn thương
trong xã hội.
Phát triển kinh tế xanh giảm
thiểu việc sử dụng năng lượng
thải khí các-bon và sự xuống cấp
của hệ sinh thái, dẫn dắt các nền
kinh tế phát triển theo hướng
sạch và bền vững.
Phát triển kinh tế xanh góp
phần thúc đẩy tăng trưởng bền
vững và toàn diện, đạt được mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ và
hy vọng giảm thiểu nghèo trước
năm 2015.
3.4. Các chỉ tiêu đo lường
kinh tế xanh
Một loạt các chỉ số có thể
giúp đo lường các quá trình
chuyển đổi hướng tới một nền
kinh tế xanh. UNEP phối hợp
với các đối tác như OECD và
World Bank (WB) phát triển
một bộ các chỉ tiêu mà từ đó
các chính phủ có thể lựa chọn
các chỉ tiêu phù hợp tùy thuộc
vào tình hình của từng quốc gia
(Trung tâm Đào tạo và Truyền
thông môi trường - Tổng Cục
môi trường, 2012). Các chỉ số
đang được phát triển này có thể
tạm chia thành ba nhóm chính:
Một là, các chỉ số kinh tế:
chỉ số về tỉ lệ đầu tư, tỉ lệ sản
lượng và việc làm trong các lĩnh
vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền
vững, chẳng hạn như GDP xanh;
Hai là, các chỉ số môi trường:
chỉ số sử dụng hiệu quả tài
nguyên, về ô nhiễm ở mức độ
ngành hoặc toàn nền kinh tế
(như hệ số sử dụng năng lượng/
GDP, hoặc hệ số sử dụng nước/
GDP);
Ba là, các chỉ số tổng hợp về
tiến bộ và phúc lợi xã hội: chỉ số
tổng hợp về kinh tế vĩ mô, bao
gồm ngân sách quốc gia về kinh
tế và môi trường, hoặc những
chỉ số đem lại cái nhìn toàn
diện hơn về phúc lợi, ngoài định
nghĩa hẹp của GDP trên đầu
người.
3.5. Xu thế chuyển dịch sang
nền kinh tế xanh
Theo tác giả Trần Thanh Lâm
(2013), quá trình chuyển dịch
sang nền kinh tế xanh sẽ tuân
theo những xu thế đặc thù dưới
đây:
Nền kinh tế xanh là trụ cột để
giảm nghèo. Tình trạng nghèo
kinh niên là hình thức dễ thấy
nhất của bất bình đẳng xã hội,
cũng như bất bình đẳng trong
tiếp cận với giáo dục, y tế, tín
dụng, cơ hội thu nhập. Một đặc
tính quan trọng của nền kinh tế
xanh là nó tìm cách cung cấp các
cơ hội đa dạng cho phát triển
kinh tế và xóa đói, giảm nghèo
mà không thanh lý hoặc làm xói
mòn tài sản tự nhiên của quốc
gia. Điều này đặc biệt cần thiết
ở các nước có thu nhập thấp,
nơi sinh kế chủ yếu của cộng
đồng nghèo nông thôn là hàng
hóa và dịch vụ hệ sinh thái. Hệ
sinh thái và các dịch vụ cung cấp
một mạng lưới an sinh chống lại
thiên tai và khủng hoảng kinh
tế.
Nền kinh tế xanh ghi nhận
giá trị và vai trò của đầu tư vào
vốn tự nhiên nhằm bảo vệ đa
dạng sinh học, kết cấu sống của
hành tinh. Đa dạng sinh học
đóng góp cho phúc lợi của con
người và cung cấp cho các nền
kinh tế nguồn tài nguyên đầu
vào có giá trị cũng như các dịch
vụ điều hòa hướng tới một môi
trường vận hành an toàn. Tuy
nhiên, những “dịch vụ hệ sinh
thái” chủ yếu mang bản chất
hàng hóa và dịch vụ công cộng
nên không được lượng hóa giá
trị kinh tế đầy đủ. Điều này là
một trong những nguyên nhân
chính khiến giá trị của đa dạng
sinh học không được đánh giá
đúng mức và quản lý yếu kém
gây nhiều tổn thất, trong khi giá
trị kinh tế của các dịch vụ hệ
sinh thái là một phần cơ bản của
vốn tự nhiên.
Nền kinh tế xanh sử dụng
năng lượng tái tạo và công nghệ
các-bon thấp thay thế cho nhiên
liệu hóa thạch. Nguồn cung cấp
năng lượng tái tạo ngày càng
tăng sẽ giảm những rủi ro về
biến động giá nhiên liệu hóa
thạch, đồng thời đạt được lợi ích
giảm phát thải khí nhà kính vì hệ
thống năng lượng dựa trên nhiên
liệu hóa thạch hiện nay là gốc rễ
của hiện tượng biến đổi khí hậu.
Nhiều quốc gia, đặc biệt những
nước nhập khẩu dầu ròng phải
đứng trước thách thức giá nhiên
liệu hóa thạch tăng cao. Chính
vì vậy, đầu tư vào các nguồn tái
tạo có sẵn có thể cải thiện đáng
kể an ninh năng lượng, nói rộng
ra là an ninh kinh tế và tài chính.
Ngoài ra, năng lượng tái tạo còn
mang lại nhiều cơ hội kinh tế lớn.
Nền kinh tế xanh tạo ra việc
làm và cải thiện công bằng xã
hội. Thực tế, các nước tiến tới
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 29
Khoa hoïc xaõ hoäi
một nền kinh tế xanh đã nhìn
thấy khả năng tạo việc làm và
tiềm năng có thể được nhân lên
khi tăng cường đầu tư vào các
lĩnh vực xanh. Vì vậy, họ đã đưa
ra những gói kích thích tài chính
tăng cường việc làm với các hợp
phần “xanh” quan trọng.
Nền kinh tế xanh hướng
tới lối sống đô thị bền vững và
giao thông các-bon thấp. Khu
vực thành thị ngày nay là nơi
cư trú của hơn 50% dân số thế
giới, tiêu thụ 50% - 60% năng
lượng và phát thải 75% tổng
lượng phát thải khí nhà kính.
Đô thị hóa nhanh chóng đang
gia tăng về áp lực cung cấp nước
sạch, hệ thống thoát nước và y
tế cộng đồng, thường gây nên
kết cấu hạ tầng nghèo nàn, hoạt
động môi trường suy giảm và
chi phí chăm sóc sức khỏe công
cộng cao. Trong bối cảnh đó,
cơ hội duy nhất cho các thành
phố tăng hiệu quả sử dụng năng
lượng, giảm lượng khí thải cũng
như rác thải là nâng cao khả
năng tiếp cận các dịch vụ thiết
yếu thông qua các phương thức
giao thông cải tiến, các-bon
thấp, giúp tiết kiệm tiền, đồng
thời cải thiện năng suất và công
bằng xã hội.
4. Kết luận
Phát triển kinh tế xanh là
phát triển một nền kinh tế thân
thiện với môi trường, hao tổn ít
nhiên liệu, tăng cường các ngành
công nghiệp sinh thái và tăng
trưởng bền vững theo chiều sâu,
góp phần xóa đói giảm nghèo,...
Phát triển kinh tế xanh sẽ mang
lại các lợi ích thiết thực trên ba
trụ cột là kinh tế, xã hội và môi
trường. Như vậy, nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về phát
triển kinh tế xanh đã giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về phát triển kinh
tế xanh.
Cách thức để phát triển nền
kinh tế xanh đối với một quốc
gia có thể rất khác nhau, điều đó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy
nhiên, những nguyên tắc quan
trọng bao gồm đảm bảo phúc lợi
cao nhất, đạt mục tiêu công bằng
về mặt xã hội và hạn chế tối đa
những rủi ro cho môi trường và
hệ sinh thái thì vẫn luôn không
thay đổi. Và, phát triển kinh tế
xanh là mục tiêu chung mà các
quốc gia cần hướng tới.
Tài liệu tham khảo
1. Brian Milani (2005), What
is Green Economics?, http://
ww.greens.org/s-r/37/37-09.
html.
2. Trần Thanh Lâm (2013),
Kinh tế xanh hướng tới phát
triển bền vững và xóa đói, giảm
nghèo, Viện Tài nguyên nước
và Môi trường Đông Nam Á,
vn/Home/kinh-te-thi-truong-
XHCN/2013/21450/Kinh-te-
xanh-huong-toi-phat-trien-
ben-vung-va-xoa-doi.aspx.
3. Quyết định số 1393/QĐ-
TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012
của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược quốc gia về
tăng trưởng xanh.
4. Tushara Kodikara (2009),
Green Economics and how it
might work,
co.nz/stories/HL0907/S00214.
htm.
5. Trung tâm Đào tạo và
Truyền thông môi trường - Tổng
Cục môi trường (2012), Sổ tay
Hành trang kinh tế xanh, Hà Nội.
6. UNEP (2011), Towards
a Green Economy: Pathways to
Sustainable Development and
Poverty Eradication - A Synthesis
for Policy Makers (Hướng tới nền
kinh tế xanh – Lộ trình cho phát
triển bền vững và xóa đói giảm
nghèo), Bản dịch của Viện Chiến
lược, Chính sách Tài nguyên và
Môi trường, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
7. Vụ Tổng hợp kinh tế - Bộ
ngoại giao (2009), “Phát triển
kinh tế xanh trong và sau khủng
hoảng kinh tế”, Bản tin Kinh tế,
Số 21-tháng 11/2009, tr.33.
SUMMARY
GREEN ECONOMY: CONCEPTS AND TRENDS OF DEVELOPMENT
Le Thi Thanh Thuy1, Ngo Thi Thanh Tu1, Dang Hoang Cuong2
1Faculty of Economics and Business Administration
2Phu Tho Industrial Park Management Board
Recently, green econony has been becoming an emerging theory globaly. With a focus on addressing the
demands of human beings and environment, this theory has been set for a sustainable development. By
systematic approach method, this research has clarified the concepts, content and advantages of developing
a green economy. This also has mentioned criteria of measurements and transition trend of green economy
recently.
Key words: Green economics, sustainable development, economic theory.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ly_luan_va_xu_the_phat_trien_kinh_te_xanh.pdf