Vào đầu thế kỷ XXI, bên cạnh những thành tựu rực rỡ về khoa học, công nghệ và phát
triển kinh tế, chúng ta cũng đang phải đối mặt với hàng loạt những thách thức về nhiều
mặt, những mâu thuẫn khó giải quyết trong quá trình phát triển.
Cuộc sống của chúng ta liên quan mật thiết với những nguồn tài nguyên mà Trái đất
cung cấp như không khí, đất, nước, khoáng sản, thực vật, động vật và cả môi trường
sống phù hợp. Tuy nhiên, mọi thứ tài nguyên cần thiết cho cuộc sống của chúng ta lại
có hạn, không thể khai thác quá mức chịu đựng. Nền văn minh của chúng ta ngày càng
lâm nguy bởi vì chúng ta đang lạm dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và làm rối loạn
các hệ tự nhiên. Chúng ta đang gây áp lực lên Trái đất đến giới hạn chịu dựng cuối
cùng. Nhưng, mặc dù đã khai thác thiên nhiên nhiều như vậy, hiện nay cũng còn có
hơn một tỷ người vẫn đang phải vật lộn với nạn đói, không đạt được một đời sống tạm
đủ, không kiếm đủ thức ăn để duy trì cuộc sống, trong lúc đó dân số loài người vẫn
đang tăng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 34 trang
34 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 750 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề môi trường toàn cầu và Việt Nam: thân thiện với thiên nhiên để phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 này trong khí quyển là 
thấp (CO2 khoảng 360 và CH4 là 1,7 phần triệu theo thể tích), nhưng hai khí này giữ 
vai trò hết sức quan trọng trong việc làm thay đổi khí hậu toàn cầu (khí nhà kính). 
Điều rõ ràng là nồng độ của hai loại khí này đang tăng lên là do hoạt động của con 
người và tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu ngày càng khốc liệt, bão tố, lũ lụt, 
hạn hán bất thường đang tăng dần lên, cả về tần số và mức độ gây thiệt hại về nhiều 
mặt ở tất cả các vùng trên thế giới, trong đó có nước ta. 
Trong những thập kỷ gần đây, nhờ phát triển khoa học kỹ thuật mà nền kinh tế-xã hội 
của loài người đã tiến bộ rất nhanh chóng, nhưng cũng đã làm tiêu hao một khối lượng 
rất lớn các loại tài nguyên thiên nhiên, đồng thời cũng đã tạo nên nhiều điều bất lợi 
khó giải quyết về vấn đề môi trường trên toàn thế giới. 
Hiện nay, cả thế giới đang phải đối đầu với nhiều vấn đề về môi trường gay cấn, hết 
sức khó giải quyết như: sự biến đổi khí hậu toàn cầu, Trái đất đang nóng dần lên; thiếu 
nước ngọt trầm trong, mức nước ngầm hạ thấp; diện tích đất nông nghiệp trên đầu 
người giảm dần, ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực; nghề cá bị suy thoái; rừng 
bị thu hẹp lại nhanh chóng; tốc độ diệt vong các loài ngày càng cao; các loài ngoại lai 
xâm nhập ngày càng nhanh chóng tại nhiều nước trên thế giới; nạn ô nhiễm ngày càng 
trầm trọng, đến mức thiên nhiên không đủ sức xử lý hết và cũng không thể xử lý được 
những chất mới lạ mà loài người mới tạo ra và chưa từng có trong thiên nhiên trước 
đây; trong lúc đó, dân số loài người vẫn đang tăng lên. 
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, con người tự cho rằng mình đã hiểu hết mọi quy luật 
của thiên nhiên và trở thành chúa tể của vũ trụ. Bởi vậy, con người ra sức làm giàu, tận 
hưởng mọi lạc thú, tấn công toàn diện và ngày càng triệt để vào thiên nhiên, họ tưởng 
như họ có khả năng cải tạo thiên nhiên theo ý muốn của mình. 
Chỉ trong vòng mấy chục năm trở lại đây, loài người đã và đang làm thay đổi các hệ 
sinh thái tự nhiên một cách hết sức nhanh chóng. Họ tự hào là đã cải tạo thiên nhiên 
hoang dã thành những vùng có năng suất kinh tế cao, mà không hiểu rằng mình đã 
hành động một cách mù quáng, kém hiểu biết, trái ngược với quy luật tự nhiên, gây 
nên tác động vô cùng nguy hại và lâu dài cho sự sống trên Trái đất, trong đó có bản 
thân loài người. Phát triển cao trong nền kinh tế công nghiệp ngày nay, mới nhìn qua 
tưởng như con người đã chinh phục được thiên nhiên và đã vội cho rằng con người đã 
chiến thắng thiên nhiên. 
21 
Nhưng, cách đây khoảng 30 năm, mọi người mới hãi hùng nhận ra rằng môi trường 
toàn cầu đã bị hủy hoại nghiêm trọng, có nhiều khả năng dẫn tới thảm họa diệt sinh 
trên toàn hành tinh. 
Điều sai lầm cơ bản của con người là đã tự tách mình ra khỏi thiên nhiên, để chế ngự 
thiên nhiên mà không hiểu được rằng chúng ta, loài người, chỉ là một bộ phận của 
thiên nhiên và phụ thuộc rất chặt chẽ vào thiên nhiên. Thiên nhiên hay là môi trường 
nói chung là nơi chúng ta cùng chung sống với biết bao nhiêu loài sinh vật khác nữa. 
Thực ra, thiên nhiên là một khối thống nhất, với những quy luật tương tác nhiều chiều, 
nhiều cấp độ, mà con người chỉ là một bộ phận của thiên nhiên, bị lệ thuộc vào thiên 
nhiên. Con người sống và lệ thuộc vào môi trường và con người cũng đang làm thay 
đổi môi trường. 
1.10. Phá hoại thiên nhiên có nghĩa là phá hoại cuộc sống của bản thân mình 
Các hiện tượng mà chúng ta mô tả ở trên hình như xẩy ra rải rác tại nơi này hay nơi kia 
trên thế giới, nhưng tất cả đều có liên quan với nhau. 
Con người là một phần của môi trường toàn cầu và cũng có thể nói rằng con người là 
một thành viên của thiên nhiên. Vì thế, sự tàn phá thiên nhiên cũng có thể nói rằng đó 
là sự tàn phá chính bản thân mình. Tuy nhiên, trong các thành phần khác nhau sinh 
sống trong thiên nhiên, chỉ có con người có số lượng cá thể vẫn tăng liên tục và đồng 
thời lại gây nên nhiều sự biến đổi về môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến các loài khác. 
Điều tệ hại hơn nữa là, chúng ta đang đeo đuổi sự phát triển kinh tế mà không hề chú ý 
đến những tác động của các hoạt động của chúng ta đang phá hủy một cách nghiêm 
trong sự cân bằng về môi trường tự nhiên và các hệ sinh thái và đã dẫn đến sự nóng 
lên toàn cầu. 
Như đã mô tả ở trên, nóng lên toàn cầu có liên quan chặt chẽ đến nhiều vấn đề nghiêm 
trọng đang xẩy ra tại riêng từng nước hay liên quan đến biên giới hai hay nhiều nước, 
như vấn đề nguồn năng lượng, ô nhiễm môi trường, phân phối lương thực và nước, 
phá hoại môi trường thiên nhiên, mất đa dạng sinh học, dân số và đói nghèo, an ninh 
lương thực... Nếu một trong những vấn đề đó xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến những vấn đề 
khác, gây nên những khó khăn để giải quyết. Những vấn đề đó tạo nên vòng luẩn 
quẩn, hay còn gọi là dây chuyền bất lợi. Với tình hình như hiện nay thì vấn đề môi 
trường toàn cầu đang tiến tới một tương lai cực kỳ nguy hiểm. 
Từ khi khởi đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp, các nước đã phát triển đã hoàn thành 
việc phát triển kinh tế của mình với sự trả giá đắt của toàn Trái đất và nhân loại. Hiện 
nay, nền kinh tế mới đang nổi lên ở nhiều nước, với số lượng dân lớn hơn rất nhiều và 
họ cũng đang theo đuổi con đường của các nước đi trước. Nếu chúng ta không tỉnh 
táo, biết dừng ngay những hành động phí phạm Trái đất, mà vẫn chú ý nhiều đến lợi 
ích trước mắt, không tìm mọi biện pháp để sử dụng tài nguyên một cách có hiệu quả 
và bền vững, tạo nên một kiểu sống mới hòa hợp với thiên nhiên, thì tương lai của loài 
người rất ít sáng sủa. 
22 
2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM 
2.1. Độ che phủ và chất lượng rừng giảm sút nghiêm trọng 
Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật quý giá nhất của đất nước ta. Rừng không những là 
cơ sở phát triển kinh tế-xã hội, mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. 
Qua quá trình phát triển, độ che phủ của rừng ở Việt Nam đã giảm sút đến mức báo 
động. Chất lượng của rừng ở các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức. Trước đây, 
toàn bộ đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ mới mấy thập kỷ qua, rừng bị 
suy thoái nặng nề. Diện tích rừng toàn quốc đã giảm xuống từ năm 1943, chiếm 
khoảng 43% diện tích tự nhiên, thì đến năm 1990, chỉ còn 28,4%. Tình trạng suy thoái 
rừng ở nước ta là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có sự tàn phá của chiến 
tranh, nhất là chiến tranh hóa học của Mỹ. Trong mấy năm qua, diện tích rừng có 
chiều hướng tăng lên, 28,8% năm 1998 và đến năm 2000, độ che phủ rừng là 33,2%, 
năm 2002 đã đạt 35,8% và đến cuối năm 2004 đã lên đến 36,7%. Đây là một kết quả 
hết sức khả quan. 
Chúng ta vui mừng là độ che phủ rừng nước ta đã tăng lên khá nhanh trong những năm 
gần đây, tuy nhiên chất lượng rừng lại giảm sút đáng lo ngại (xem Hình 2.1). 
Hình 2.1. So sánh chất lượng rừng năm 1990 và năm 2004 
Các số liệu chính thức gần đây đã xác định độ che phủ rừng của Việt Nam, bao gồm cả 
rừng tự nhiên và rừng trồng, là 12,3 triệu ha, chiếm hơn 37% tổng diện tích tự nhiên 
toàn quốc. Khoảng 18% diện tích này là rừng trồng. Chỉ có 7% diện tích rừng là rừng 
“nguyên sinh” và gần 70% diện tích rừng còn lại được coi là rừng thứ sinh nghèo (theo 
thống kê chính thức của Cục Kiểm lâm năm 2004). Diện tích rừng trên đầu người ở 
Việt Nam vào năm 1943 là 0,7 ha, đến năm 2004 chỉ còn 0,15 ha, rất thấp so với diện 
tích trung bình trên đầu người của các nước ASIAN là 0,42 ha vào năm 2000 (FAO, 
2001). 
Trên thực tế, rừng tự nhiên vẫn còn bị xâm hại, hiện nay vẫn liên tục giảm, khai thác 
rừng vẫn vượt quá mức quy định, khai thác bất hợp pháp chưa ngăn chặn được. Rừng 
trồng không đạt chỉ tiêu. Khuynh hướng suy giảm tài nguyên còn tiếp diễn (Báo các 
23 
tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” Mã số 
KHCN 07, tháng 12/2001). 
Trong 10 năm qua, đất nông nghiệp tại Tây Nguyên tăng lên rất nhanh, từ 8,0% năm 
1991 lên đến 22,6% năm 2000 (454,3 nghìn ha so với 1.233,6 nghìn ha, gấp 2,7 lần), 
trong lúc đó, đất lâm nghiệp giảm từ 59,2% xuống còn 54,9% đất tự nhiên (3,329 triệu 
ha so với 2,993 triệu ha), giảm 11%. So sánh trong cả nước thì trong vòng 10 năm qua, 
Tây Nguyên là vùng mà rừng bị giảm sút với mức độ đáng lo ngại nhất, nhất là ở Đắk 
Lắk. Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do dân số tăng nhanh, nhất là 
dân di cư tự do, đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn đến 
việc biến nhiều vùng có hệ sinh thái rừng tốt tươi, ổn định thành vùng mà hệ sinh thái 
bị đảo lộn, mất cân bằng, dẫn đến lũ lụt, sụt lở đất trong mùa mưa và hạn hán ngày 
càng nặng trong mùa khô, không những đối với nguồn nước mặt mà cả nguồn nước 
ngầm cũng bị giảm sút nghiêm trọng. Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này 
đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành vùng đất hoang cằn cỗi. 
Tuy trong những năm qua, việc quản lý rừng đã được tăng cường, nhưng trong 6 tháng 
đầu năm 2005, cũng đã phát hiện được 275 vụ vi phạm khai thác lâm sản trái phép, 
1.525 vụ mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép. Đầu năm 2008, nhiều vụ phá rừng 
đã xẩy ra ở nhiều nơi, ngay cả trong các khu bảo tồn thiên nhiên, như ở Vườn Quốc 
gia Yok Đôn, Đắk Lắk, rừng đầu nguồn Thượng Cửu, Phú Thọ, rừng Khe Diêu, Quế 
Sơn... Sau một tháng ra quân, đoàn kiểm tra liên ngành tỉnh Quảng Nam đã mở nhiều 
cuộc tấn công vào sào huyệt lâm tặc đang lộng hành trên địa bàn tỉnh, bước đầu phát 
hiện và bắt giữ gần 620 vụ vận chuyển trái phép, với số lượng gỗ bị bắt giữ ở mức kỷ 
lục: 1.300 m3. 
Chắc chắn rằng, những số vụ vi phạm khai thác rừng trái phép được phát hiện là rất ít 
so với thực tế phá rừng đang xẩy ra ở khắp mọi nơi có rừng ở nước ta. Trong giai đoạn 
từ 1990 đến nay, chiều hướng biến chuyển rừng cơ bản vẫn ở tình trạng suy thoái, còn 
xa mức ổn định và đạt được hiệu quả bảo vệ môi trường. Một số diện tích rừng thứ 
sinh tự nhiên mới được phục hồi và rừng trồng chưa đến tuổi thành thục đã bị xâm hại, 
đốn chặt, “khai hoang”. Từ năm 2005-2007, diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng 
giảm gần 500.000 ha. 
Những sự mất mát về rừng là không thể bù đắp được và đã gây ra nhiều tổn thất lớn về 
kinh tế, về công ăn việc làm và cả về phát triển xã hội một cách lâu dài. Những trận lụt 
rất lớn trong mấy năm qua ở hầu khắp các vùng của đất nước, từ Bắc chí Nam, từ miền 
núi đến miền đồng bằng, đã gây tổn thất hết sức to lớn lên tài sản và nhân mạng tại 
nhiều vùng, có nguyên nhân chính là diện tích rừng nước ta đã bị giảm sút quá mức, 
làm mất cân bằng sinh thái. 
2.2. Đa dạng sinh học ở Việt Nam 
Việt Nam được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về đa 
dạng sinh học. Do sự khác biệt lớn về khí hậu, từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận 
24 
nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên tính đa dạng sinh học cao ở Việt 
Nam. 
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều 
thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay, đã 
thống kê được 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch và hàng nghìn loài thực vật bậc 
thấp như rêu, tảo, nấm, v.v... Theo dự đoán của các nhà khoa học, số loài thực vật bậc 
cao có mạch ở Việt Nam ít nhất là 20.000 loài, trong đó có khoảng trên 5.000 loài đã 
được nhân dân ta dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn 
cho gia súc... 
Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 310 loài thú, 
870 loài chim, 296 loài bò sát, 162 loài ếch nhái, trên 1.000 loài cá nước ngọt, hơn 
2.000 loài cá biển và thêm vào đó là hàng chục ngàn loài động vật không xương sống 
ở cạn, ở biển và ở nước ngọt. Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần 
loài, nhiều loài có ý nghĩa kinh tế cao, mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng 
Đông Nam Á. 
Ở nước ta, trong hơn chục năm gần đây, đã phát hiện được nhiều loài động vật cỡ lớn 
và trung bình mới cho khoa học, trong đó có 5 loài thú, 3 loài chim và 2 loài cá. Chúng 
ta tin rằng ở Việt Nam, chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà 
khoa học biết đến. 
Ngoài ra, Việt Nam còn có phần nội thủy và lãnh hải rộng khoảng 226.000 km2, trong 
đó có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều rạn san hô phong phú, là nơi sinh sống của 
hàng ngàn loài động vật, thực vật có giá trị. 
Nguồn tài nguyên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân 
Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua, mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc 
Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, thay vì phải bảo tồn và sử dụng một 
cách hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này, ở nhiều nơi, dưới danh nghĩa phát triển 
kinh tế, một số người/tổ chức/địa phương đã và đang khai thác quá mức và phí phạm, 
không những thế, còn sử dụng các biện pháp hủy diệt như dùng các chất nổ, chất độc, 
kích điện để săn bắt. Việc làm suy thoái các hệ sinh thái, như mất rừng, đất ngập nước 
đã làm mất nơi cư trú mà nhiều loài động, thực vật quý cũng đang bị suy thoái theo, 
một số loài đang trên đường bị tiêu diệt. 
Nếu được quản lý tốt và biết sử dụng đúng mức, nguồn tài nguyên sinh học của Việt 
Nam có thể trở thành tài sản rất có giá trị. Nhưng rất tiếc, nguồn tài nguyên này đang 
bị suy thoái nhanh chóng. 
2.3. Sự khai thác quá mức các loài động, thực vật hoang dã là đáng lo ngại 
Ngoài việc rừng, đất ngập nước, các rạn san hô bị phá hủy, nguyên nhân quan trọng 
nữa gây nên sự tổn thất đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng giống như nhiều nước đang 
phát triển khác trên thế giới, đó là mâu thuẫn giữa cung và cầu. Tài nguyên thiên nhiên 
thì có hạn mà nhu cầu của con người thì ngày càng tăng, một mặt là để đáp ứng cuộc 
25 
sống của số dân tăng thêm hàng năm và mặt khác là mức độ tiêu dùng của mỗi người 
cũng tăng thêm không ngừng. 
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, việc buôn bán và xuất khẩu các sản phẩm sinh 
vật, các động vật và thực vật, kể cả những loài được bảo vệ, tăng lên rất nhanh chóng. 
Vì thiếu kế hoạch hợp lý, hoặc thiếu sự kiểm tra chặt chẽ trong việc khai thác các tài 
nguyên sinh vật rừng, mà ở nhiều vùng, một số loài động vật như tê giác, hổ, báo, voi, 
gấu, khỉ, vượn, voọc, các loài cây như pơmu, trầm hương, gõ đỏ... đã ngày càng trở 
nên rất hiếm. Nhiều loài động vật thông thường như tê tê, các loài rùa, rắn, kỳ đà, ếch, 
ba ba đang được xuất khẩu một cách nhộn nhịp sang Hồng Kông, Thái Lan và nhất là 
Trung Quốc trong thời gian gần đây là mối đe dọa lớn đối với sự tồn tại của đa dạng 
sinh học. Giá trị xuất khẩu cao của các loài nói trên đã thúc đẩy nhiều người kém hiểu 
biết tìm đủ mọi cách săn bắt chúng ở khắp mọi nơi. Ở các ruộng trồng lúa và hoa màu, 
chủng quần của các loài rắn, ếch nhái, chim và nhiều loài động vật nhỏ có ích khác bị 
giảm sút nhanh chóng, dẫn đến hậu quả khó tránh khỏi về vấn đề môi trường, làm mất 
cân bằng sinh thái, dẫn đến sự bùng phát dịch bệnh và cả chuột nữa, gây tổn thất lớn 
về mùa màng mà chúng ta khó lường trước được. 
2.4. Diện tích đất trồng trọt trên đầu người ngày càng giảm 
Ở Việt Nam, tuy đất nông nghiệp chiếm 28,4% diện tích đất tự nhiên, song bình quân 
diện tích đất canh tác trên đầu người rất thấp, xếp thứ 159 trong tổng số 200 nước trên 
thế giới và bằng 1/6 bình quân trên thế giới. Năm 1940, đất canh tác bình quân/người 
ở nước ta là 0,2 ha, năm 1960 là 0,16 ha, năm 1970, 0,13 ha, năm 1992, 0,11 ha và 
năm 2000 là 0,10 ha. Tỷ lệ này sẽ hạ thấp hơn nữa trong những năm sắp tới do dân số 
còn tăng và đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp lại rất hạn chế (chỉ chiếm 25% đất 
nông nghiệp), chủ yếu thuộc các vùng đồng bằng. Diện tích đất nông nghiệp ngày 
càng bị thu hẹp do bị thoái hóa, ô nhiễm và chuyển đổi mục đích sử dụng, nhất là để 
xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, đường giao thông, sân gôn..., làm mất đi hơn 
500.000 hecta đất nông nghiệp trong khoảng 10 năm qua. Theo thống kê chưa đầy đủ, 
trong mấy năm gần đây, trung bình hàng năm có khoảng 72.000 ha đất nông nghiệp 
được chuyển đổi mục đích sử dụng. Nông dân ở nhiều nơi không còn đất canh tác, gặp 
phải những hoàn cảnh éo le, khốn đốn, nên đã đổ xô đến các thành phố để kiếm ăn. 
Theo TS. Trần Võ Hưng, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, chi 
nhánh Cần Thơ (VCCI Cần Thơ), “khả năng tăng năng suất lương thực rất chậm, trong 
khi đó tốc độ mất đất nông nghiệp lại xẩy ra hết sức nhanh chóng. Nếu không có biện 
pháp chấn chỉnh sẽ đe dọa đến an ninh lương thực. Tại đồng bằng sông Cửu Long, 
người ta cũng lấy lý do “đất không hiệu quả” để chuyển sang đất phi nông nghiệp. Tại 
An Giang, theo quy hoạch, đến năm 2010, sẽ giảm 17.000 ha đất nông nghiệp và đến 
năm 2020, giảm 31.000 ha. Nếu tính con số bình quân và nhân cho các tỉnh đồng bằng 
sông Cửu Long thì số diện tích nông nghiệp bị mất cũng trên 200.000 ha, tức là lớn 
hơn diện tích của tỉnh Vĩnh Long (khoảng 149.000 ha)”. 
26 
Trong khoảng 3 năm trở lại đây, việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp diễn ra 
hết sức ồ ạt ở các địa phương. Tỉnh nào cũng có khu công nghiệp, khiến một phần 
không nhỏ đất nông nghiệp tốt bị chuyển đổi mục đích sử dụng. 
Năm 2000, cả nước có gần 4,47 triệu hecta đất trồng lúa, thì đến năm 2006, con số này 
giảm xuống còn 4,13 triệu hecta. Từ năm 2005-2007, đất lúa giảm 45.977 ha. Do đó, 
dù năng suất lúa tăng bình quân hơn 2%/năm, nhưng sản lượng lúa tăng không đáng 
kể, ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh lương thực. Theo một báo cáo của Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển Nông thôn, cả nước phải giữ được ít nhất 3,9 triệu hecta đất trồng 
lúa, muốn thế, Chính phủ phải sớm có quy hoạch tổng thể về đất nông nghiệp của cả 
nước để các địa phương tuân theo. 
2.5. Thoái hóa đất 
Theo thống kê mới năm 2010, Việt Nam có 28.328.939 ha đất đã được sử dụng, chiếm 
85,70% diện tích đất tự nhiên, trong đó, đất nông-lâm nghiệp có 24.997.153 ha, chiếm 
75,48%, đất phi nông nghiệp khoảng 3.385.786 ha, chiếm 10,22%. Đất chưa sử dụng 
là 4.732.786 ha, chiếm 13,30%. Đất nông nghiệp tăng trong khi diện tích đất trồng lúa 
giảm (45,977 ha). Nhìn chung, đất sản xuất nông nghiệp có nhiều hạn chế, với 50% 
diện tích là “đất có vấn đề” như đất phèn, đất cát, đất xám bạc màu, đất xói mòn mạnh 
trơ sỏi đá, đất ngập mặn, đất lầy úng, và có diện tích khá lớn là đất có tầng mặt mỏng ở 
vùng đồi núi (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường, 2004). 
Những quan trắc từ nhiều năm qua cho thấy, thoái hóa đất là xu thế phổ biến đối với 
nhiều vùng đất rộng lớn, đặc biệt là vùng đồi núi, nơi tập trung hơn 3/4 quỹ đất, nơi 
cân bằng sinh thái đã bị phá vỡ nghiêm trọng do không có rừng che phủ. Mặn hóa, 
phèn hóa, lầy hóa trên quy mô diện tích hàng triệu ha vùng đồng bằng cũng là nguyên 
nhân chủ yếu làm ngừng trệ khả năng sản xuất của đất. Tại nhiều vùng, sự suy thoái 
đất còn kéo theo cả suy thoái về hệ thực vật, động vật, môi trường địa phương và đồng 
thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người giảm xuống đến mức báo động. 
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội, những 
biến động về tài nguyên đất ngày càng trở nên rõ rệt. Về môi trường đất, lượng phân 
bón dùng trên một hecta gieo trồng còn thấp so với mức trung bình thế giới (80 kg/ha 
so với 87 kg/ha), và mới chỉ bù đắp được khoảng 30% lượng dinh dưỡng do cây trồng 
lấy đi. Mặt khác, sự mất cân bằng trong sử dụng phân hóa học đang là thực trạng phổ 
biến. Tình hình đó là nguyên nhân của việc giảm độ phì nhiêu của đất và hiện tượng 
thiếu kali hoặc lưu huỳnh ở một số nơi, ảnh hưởng tới năng suất cây trồng. Về hóa 
chất bảo vệ thực vật, trong danh mục 109 loại đang được sử dụng tại đồng bằng sông 
Hồng, có những loại đã bị cấm sử dụng. Trong các vùng thâm canh, tần suất sử dụng 
thuốc khá cao, nhất là đối với rau quả, cho nên dư lượng trong đất khá cao, kể cả trong 
sản phẩm (Báo cáo tổng kết Chương trình “Sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi 
trường”, mã số KHCN 07, tháng 12 năm 2001). 
Tác động của việc thoái hóa đất và giảm diện tích đất canh tác làm cho nước ta đang 
đứng trước những thử thách lớn phải giải quyết nhiều vấn đề nghiêm trọng về môi 
27 
trường đất, nhằm đảm bảo an toàn lương thực và sự tồn tại của cả dân tộc với gần 100 
triệu dân vào những năm 2020. 
Trong mấy năm qua, Nhà nước đã có những biện pháp để đẩy mạnh việc trồng rừng, 
đặc biệt là trên các vùng đất trống, đồi núi trọc. Điều cần lưu ý là chất lượng đất ở 
nhiều nơi, đặc biệt là ở miền Bắc và cao nguyên Trung Bộ đã suy giảm nghiêm trọng, 
do thâm canh, đốt nương làm rẫy và phá rừng. Tất cả những hoạt động đó đã làm mất 
đi lớp đất mặt và các chất dinh dưỡng, trong đó, nguyên nhân xói mòn và rửa trôi là 
chính. Bởi vậy, tại nhiều vùng trên rẻo cao và trung du có dân cư đông đúc, như ở một 
số tỉnh thuộc các vùng Tây Bắc và Đông Bắc, nạn xói mòn đất và những vấn đề về 
cuộc sống của người dân địa phương sẽ khó khắc phục nếu không tìm được nguồn thu 
nhập khác thay thế và không giảm nhẹ được sức ép về dân số. 
2.6. Thiếu nước ngọt và nhiễm bẩn nước ngọt ngày càng trầm trọng 
Việt Nam là một trong những nước có tài nguyên nước phong phú trên thế giới. Lượng 
mưa bình quân nhiều năm là 1.944 mm, trong đó, 1.003 mm bốc hơi trở lại không 
trung, 941 mm còn lại hình thành trên lãnh thổ nước ta một lượng nước mặt khoảng 
310 tỷ m3. Mùa mưa kéo dài 6-7 tháng, tuy nhiên, thời kỳ bắt đầu và kết thúc mùa mưa 
có sự khác nhau giữa các vùng. Nhờ có mạng lưới sông ngòi dày, nên nước được phân 
bố tương đối đều trong cả nước, đáp ứng được nhu cầu nước khá đồng đều trong các 
khu vực. Tài nguyên nước mặt có thể khai thác để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng 
ngày của nhân dân cũng như làm thủy điện, nông nghiệp và phát triển giao thông 
đường thủy. Tiềm năng nước ngầm là khoảng 48 tỷ m3/năm (131,5 triệu m3/ngày) và 
trữ lượng khai thác dự báo 6-7 tỷ m3/năm (17-20 triệu m3/ngày). 
Nhìn chung, tài nguyên nước ngọt Việt Nam tương đối cao, “tuy nhiên, với tiến trình 
gia tăng dân số, thâm canh nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô 
thị hóa, tài nguyên và môi trường nước Việt Nam đang thay đổi hết sức nhanh chóng, 
đối mặt với nguy cơ cạn kiệt về số lượng, ô nhiễm về chất lượng, tác động tiêu cực tới 
cuộc sống của nhân dân và sự lành mạnh về sinh thái của cả nước” (Hội Bảo vệ Thiên 
nhiên và Môi trường, 2004). 
Việc phá rừng mà hậu quả là hiện tượng bồi lắng ở mức độ cao do xói mòn đất đã làm 
giảm hiệu năng của những dòng kênh và tuổi thọ của các hồ chứa. Năm 1991, hai công 
trình thủy điện quan trọng ở miền Trung là Đa Nhim và Trị An đã không vận hành 
được bình thường vào mùa khô vì thiếu nước nghiêm trọng. Những hồ nhỏ hơn như 
Cấm Sơn, Sông Hiếu, Bộc Nguyên ở miền Bắc đã bị bồi lắng trầm trọng sau 10 năm 
hoàn thành công trình. Trong mấy năm gần đây, do mưa nắng thất thường, nhiều hồ 
chứa đã không đủ nước trong mùa khô và quá thừa nước trong mùa mưa. 
Do độ che phủ của rừng đang giảm dần, nên lụt lội và hạn hán trên nhiều vùng xẩy ra 
thường xuyên hơn, đặc biệt là ở miền Bắc và miền Trung, kể cả Tây Nguyên. Trong 
hai thập kỷ qua, tần suất hạn hán có chiều hướng gia tăng, ví dụ như ở Đắk Lắk, trung 
bình ba năm xẩy ra một lần. Lũ quét, lũ bùn đá xuất hiện với tần suất cao hơn và mức 
độ ác liệt hơn. Qua tính toán thử trên một số lưu vực, cho phép dự báo nhiều lưu vực 
28 
nhỏ ở Tây Nguyên đều có nguy cơ xẩy ra lũ quét (Báo cáo tổng kết chương trình “Sử 
dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, mã số KHCN 07, tháng 12 năm 2001). 
Nhiều vùng bị thiếu nước trầm trọng, nhất là Đồng Văn, Lai Châu, Hà Tĩnh và Quảng 
Trị, ở đó vào mùa khô, nhiều nơi nhân dân phải đi 5-10 km để kiếm nước. Một số làng 
bản đã phải dời đi nơi khác vì thiếu nước trong mùa khô. Năm 2005, nước ta bị hạn 
hán nặng, nhất là các tỉnh Nam Trung Bộ, không những thiếu nước sản xuất nông 
nghiệp mà còn không đủ nước cho người và gia súc trong một thời gian dài, gây nhiều 
thiệt hại về kinh tế và xã hội. Năm 2008, nhiều vùng đã thiếu nước trầm trọng cho 
nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. Và hiện nay, giữa tháng 3/2011, nhiều vùng 
đang bị hạn nặng, như các tỉnh Tây Nguyên, nhất là Gia Lai, Kon Tum, cà phê không 
đủ nước đã bị chết hay cháy hoa, nhân dân nhiều vùng không có đủ nước cho sinh 
hoạt. 
Tình trạng ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đã trở thành 
vấn đề quan trọng tại nhiều thành phố, thị xã, đặc biệt là tại các thành phố lớn như TP. 
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội và tại các khu công nghiệp. Ô nhiễm nước do hoạt 
động nông nghiệp cũng là vấn đề nghiêm trọng tại nhiều miền thôn quê, đặc biệt tại 
châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Hiện tượng nhiễm mặn hay chua hóa do quá 
trình tự nhiên và do hoạt động của con người đang là vấn đề nghiêm trọng ở vùng châu 
thổ sông Cửu Long. 
Ở một số vùng ven biển, nguồn nước ngầm đã bị nhiễm bẩn do thấm mặn hoặc thấm 
chua phèn trong quá trình thăm dò hoặc khai thác (TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, 
Quảng Ninh, Vinh). Trong mấy năm qua, việc khai thác nước ngầm quá mức đã làm 
giảm lượng nước, như ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Tây Nguyên và đồng bằng sông 
Cửu Long. Việc khai thác nước ngầm tại Hà Nội trong những năm qua đã làm giảm 
mực nước từ 29 cm đến 35 cm. Nhiễm bẩn vi sinh vật và kim loại nặng đã xẩy ra ở 
một số nơi, chủ yếu do nhiễm bẩn từ trên mặt đất, như các hố chôn lấp rác. 
Mặc dù Việt Nam có tài nguyên nước phong phú, nhưng thực tế ở nhiều vùng, hiện 
tượng thiếu nước và nhiễm bẩn nước do hóa chất nông nghiệp, công nghiệp, chất thải 
và nước thải sinh hoạt đã trở thành vấn đề quan trọng và ngày càng gia tăng. 
Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch hiện nay là khoảng 50%, trong đó, đô thị chiếm 70% 
và nông thôn chỉ 30%. Từ nay cho đến năm 2040, tổng nhu cầu nước ở Việt Nam có 
thể chưa vượt quá 50% tổng nguồn nước, song vì có sự khác biệt lớn về nguồn nước 
tại các vùng khác nhau, vào các mùa khác nhau và do nạn ô nhiễm gia tăng, nếu không 
có chính sách đúng đắn thì nhiều nơi sẽ bị thiếu nước trầm trọng. 
2.7. Nạn ô nhiễm ngày càng khó giải quyết 
2.7.1. Phát triển đô thị và vấn đề môi trường 
Đô thị hóa và công nghiệp hóa ở nước ta phát triển khá nhanh trong hơn 10 năm qua, 
đã gây áp lực lớn đối với khai thác đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nhất là rừng và 
nước. Nhiều diện tích nông nghiệp đã chuyển thành đất đô thị, đất công nghiệp, đất 
giao thông, sân gôn..., ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người nông dân và an toàn 
29 
lương thực quốc gia. Đô thị hóa, công nghiệp hóa trong khi hạ tầng cơ sở kỹ thuật và 
xã hội yếu kém, làm nẩy sinh nhiều vấn đề môi trường bức bách như thiếu nước sạch, 
thiếu dịch vụ xã hội, thiếu nhà ở, úng ngập, tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, 
tiếng ồn, ô nhiễm nước và chất thải rắn. Tỷ lệ số người bị các bệnh do ô nhiễm môi 
trường ngày càng tăng, như các bệnh đường hô hấp, bệnh đường tiêu hóa, các bệnh dị 
ứng và các bệnh ung thư. 
Ô nhiễm nước mặt, đặc biệt là nồng độ ô nhiễm các chất hữu cơ có chiều hướng gia 
tăng, nguyên nhân chủ yếu là hầu hết nước thải đô thị và công nghiệp chưa được xử lý, 
thải thẳng vào ao hồ, sông ngòi. Mới chỉ 3% nước thải đô thị được xử lý (năm 2008). 
100% đô thị không có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chỉ có khoảng 20/82 khu 
công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải. Phần lớn các sông ngòi chảy qua khu vực đô 
thị và công nghiệp chỉ đạt tiêu chuẩn nước loại B (trước năm 1975 rất nhiều sông còn 
đạt tiêu chuẩn loại A). Sông ngòi nằm trong đô thị, đặc biệt là Hà Nội, TP. Hồ Chí 
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, bị ô nhiễm nặng hơn, nhiều sông ngòi, kênh rạch đã 
bốc mùi hôi thối, hay trở thành sông chết. 
Phần hạ lưu sông Đồng Nai đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nguyên nhân gây ô nhiễm là 
do chịu nhiều nguồn nước thải từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, khai thác 
khoáng sản, làng nghề, sinh hoạt, y tế, nông-lâm nghiệp. Thực trạng ô nhiễm nước đã 
gây nhiều thiệt hại cho sự phát triển kinh tế-xã hội của khu vực nói riêng và cho cả 
vùng trọng điểm phát triển kinh tế phía Nam nói chung (Chu Thái Thành, 2008). 
Nhiều đô thị ở nước ta đang bị ô nhiễm chất thải rắn chưa thu gom theo đúng quy 
định. Trong khi đó, khí thải, tiếng ồn, bụi... từ các phương tiện giao thông nội thị và 
mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém càng làm cho 
điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng báo động. 
Hệ thống cấp thoát nước lạc hậu, xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng 
tăng. Mức ô nhiễm về bụi và các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép 
nhiều lần, đặc biệt là tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, vượt tiêu 
chuẩn cho phép đến 2-3 lần. 
2.7.2. Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh 
Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu 
kém. Việc sử dụng không hợp lý các loại hóa chất nông nghiệp cũng đã và đang làm 
cho môi trường nông thôn bị ô nhiễm và suy thoái. 
Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề và cơ sở chế biến ở một số vùng do 
công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong khu dân cư và 
hầu như không có thiết bị thu gom và xử lý chất thải, đã gây ô nhiễm môi trường 
nghiêm trọng. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1.450 làng nghề truyền thống, trong đó, 
800 làng tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng, đã và đang làm chất lượng môi 
trường khu vực ngày càng suy giảm. Điều kiện môi trường của dân làng nghề rất thấp 
kém. Kết quả điều tra mới đây cho biết: điều kiện và môi trường lao động tại các làng 
nghề là đáng lo ngại, 60-90% số người lao động tiếp xúc với bụi, hóa chất, độ nóng, 
mà không được trang bị phòng hộ. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề 
30 
ngày càng gia tăng. Các chất thải rắn, lỏng, khí trong quá trình sản xuất không được xử 
lý, không được thu gom, thải bừa bãi ra môi trường xung quanh ngay trong các khu 
dân cư đã làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. 
Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường ở các vùng nông thôn là vấn đề cấp bách. Điều 
kiện vệ sinh môi trường nông thôn vẫn chưa được cải thiện đáng kể, tỷ lệ số hộ có hố 
xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28-30% và số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh là 30-
40% (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2000-2010). 
3. XÂY DỰNG XÃ HỘI TRONG TƯƠNG LAI, SỐNG HÒA HỢP VỚI THIÊN NHIÊN 
ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
3.1. Những xu thế chung trên thế giới 
Như đã trình bày ở trên, đã từ lâu loài người chỉ tập trung vào phát triển kinh tế mà rất 
ít chú ý đến tác động của các hoạt động kinh tế lên thiên nhiên, cơ sở của sự sống còn 
của chúng ta. Tuy nhiên, mặc cho các nhà khoa học đã cảnh báo là vào cuối thế kỷ 
XX, thiên nhiên đã bị suy thoái nghiêm trọng, hầu như mọi nơi vẫn tiếp tục ưu tiên 
phát triển kinh tế, để đến nay, loài người đang phải đối mặt với những vấn đề môi 
trường toàn cầu rất khó giải quyết. 
Từ năm 1987, Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển Bền vững thuộc Liên 
Hợp Quốc (Hội đồng Brundland), đã cho xuất bản báo cáo có tên Tương lai chung của 
chúng ta (Our Common Future), trong đó, Hội đồng đã đề xuất quan điểm mới về phát 
triển, “phát triển bền vững” là “phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người 
trong hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ 
mai sau”. Quan điểm này đã được Hội nghị thượng đỉnh Rio de Janeiro về Môi trường 
và Phát triển năm 1992 và Hội nghị thượng đỉnh về Phát triển Bền vững được tổ chức 
tại Johannesburg năm 2002 đồng tình và khuyến khích thực hiện rộng rãi trên toàn thế 
giới. Tuy nhiên, theo tài liệu mới nhất có được (UNEP, 2010), “xã hội loài người đã 
làm suy thoái hơn 60% các loại dịch vụ của hệ sinh thái và đa dạng sinh học, ảnh 
hưởng đến sự bền vững, hạnh phúc, sức khỏe và an ninh. Sự suy thoái môi trường làm 
tăng thêm tác động xấu của các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, lũ quét.., gây thiệt hại 
hàng năm cho khoảng 270 triệu người và 124.000 người bị thiệt mạng trên toàn thế 
giới, trong đó 85% ở châu Á và trong một số trường hợp, là nguyên nhân khởi đầu của 
thiên tai”. Tất cả các hoạt động đó không chỉ tác động đến từng quốc gia, từng vùng 
mà đã tác động xấu đến toàn cầu, và rõ ràng nhất là đã gây nên hiện tượng nóng lên 
toàn cầu. Biến đổi khí hậu do nóng lên toàn cầu rõ ràng không chỉ là mối nguy mà 
thực sự đã là thảm họa, cần phải có hành động cấp bách để kịp thời giải quyết khủng 
hoảng khí hậu. Bảo tồn các hệ sinh thái có lẽ là cách hiệu quả nhất, là hành động hàng 
đầu trong những nỗ lực của chúng ta để giải quyết khủng hoảng hiện nay về khí hậu. 
Công việc này phải được thực hiện toàn cầu và làm ngay mới đạt được hiệu quả 
(IUCN, 2009). 
Mới đây, UNEP đã đưa ra mô hình “kinh tế xanh” mới và khẳng định mô hình này sẽ 
không những giúp giảm bớt tình trạng đói nghèo kinh niên ở nhiều nước, mà còn hạn 
31 
chế được tối đa các hành động xâm hại của con người đối với các hệ sinh thái tự nhiên. 
Đồng thời, chiến lược phát triển mới này cũng hứa hẹn tạo ra sức tăng trưởng tương 
đương hoặc cao hơn so với mô hình phát triển truyền thống. 
Cũng có thể nói: nền kinh tế xanh là một hệ thống kinh tế phản ánh sự tích hợp giữa 
các hệ sinh thái và đảm bảo khả năng phục hồi của các hệ thống hỗ trợ sự sống, hòa 
hợp với thiên nhiên. 
Nền kinh tế xanh là nền kinh tế làm tăng thêm phúc lợi và công bằng, trong lúc đó lại 
giảm tác động xấu lên hệ sinh thái và môi trường. 
Nền kinh tế xanh là nền kinh tế tăng thêm thu nhập và việc làm bằng các biện pháp sản 
xuất sạch hơn, giảm ô nhiễm, khuyến khích việc sử dụng bền vững đa dạng sinh học 
và các dịch vụ sinh thái, là nền kinh tế cacbon thấp, hoặc nền kinh tế ít sử dụng nhiên 
liệu hóa thạch, là một nền kinh tế có lượng phát thải tối thiểu các khí nhà kính vào bầu 
khí quyển, đặc biệt là CO2. 
Để thực hiện nền kinh tế xanh, việc hồi phục các hệ sinh thái có thể được xem như là 
một động cơ kinh tế, đồng thời tăng thêm công ăn việc làm xanh, và kết quả của các 
dự án đã thực hiện trong mấy năm qua tại nhiều nước là sự khích lệ các nhà quản lý 
thực hiện các dự án hồi phục các hệ sinh thái đã bị suy thoái (UNEP, 2010). 
Xu thế sử dụng năng lượng trong tương lai là giảm dần năng lượng hóa thạch và tăng 
dần tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo. Trong các loại năng lượng mà con người có 
khả năng sử dụng, năng lượng ánh sáng mặt trời là vô hạn, lại không gây ô nhiễm; 
năng lượng sức gió và năng lượng sóng biển, là dạng năng lượng gián tiếp của năng 
lượng mặt trời, cũng khá dồi dào; rồi đến năng lượng địa nhiệt. Tuy nhiên, các loại 
năng lượng này còn mới mẻ, chưa phát triển, vì giá thành còn quá cao, nhưng rồi đây 
năng lượng mặt trời và năng lượng gió có nhiều triển vọng nhất và giá thành sẽ rẻ hơn 
rất nhiều và điều quan trọng nhất là an toàn. Nói chung, nên phát triển và sử dụng các 
nguồn năng lượng sạch, ít phát thải và phải hết sức thận trọng với năng lượng hạt 
nhân, nhất là sau sự cố thảm họa ở Nhật Bản về động đất và sóng thần vào ngày 11/3 
vừa qua. 
Nhà khoa học Đức Hans Joachim Schellnhuber, chuyên gia vật lý và nghiên cứu khí 
tượng nổi tiếng thế giới, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn về Thay đổi Toàn cầu của Đức, Cố 
vấn của Thủ tướng Đức Angela Merkel, đã có cuộc trò chuyện với Tạp chí Spiegel 
(23/3/2011), đã chia sẻ những suy nghĩ của ông về những bài học rút ra từ thảm họa ở 
Nhật Bản vừa qua, và cũng là lý do vì sao cần phải thay đổi cho một tương lai an toàn 
hơn cho loài người. Sau đây là một số suy nghĩ của ông mà chúng ta phải suy ngẫm: 
+ Chúng ta phải chấm dứt thái độ tảng lờ những vấn đề thật sự có hại cho xã hội. 
Ngoài những thảm họa về hạt nhân, còn là viễn cảnh mà Trái đất sẽ nóng hơn 6-
8oC vào năm 2200. Chỉ khi chúng ta đánh giá đầy đủ và suy nghĩ nghiêm túc về 
những thiệt hại cao nhất có thể gặp phải, thì chúng ta mới có thể quyết định sẽ 
phải sử dụng loại hình công nghệ cụ thể nào. 
32 
+ Kế hoạch tạm đóng cửa 7 nhà máy hạt nhân của Đức là đúng đắn. Điều đã xẩy ra 
ở Nhật Bản có thể xẩy ra ở Đức nếu một chi tiết không may trong rất nhiều việc 
không may xẩy ra. 
+ Hội đồng Tư vấn về Thay đổi Toàn cầu của Đức mà tôi là Chủ tịch sẽ sớm đưa ra 
một kế hoạch vĩ mô cho sự chuyển hướng của Chính phủ và của xã hội. Chúng ta 
cần một cam kết với xã hội thế kỷ XXI để đảm bảo cho mong ước chung, nhằm 
tạo ra một nền công nghiệp bền vững. Chúng ta phải giải quyết dứt khoát một lần 
và cho tất cả, để có thể để lại cho thế hệ tương lai nhiều hơn là một di sản chỉ 
toàn những thảm họa hạt nhân và biến đổi khí hậu. Điều này cần có sự thấu hiểu 
vượt lên không gian và thời gian. Để thực hiện điều này, quyền của các thế hệ 
tương lai cần phải được xem là quyền thiêng liêng trong Hiến pháp Đức. 
+ Mức tiêu thụ dầu của chúng ta trong một năm qua tương đương với mức dầu 
được thiên nhiên tạo ra trong 5,3 triệu năm. Chúng ta đang cướp của cả quá khứ 
và tương lai để nuôi hiện tại. 
+ Bây giờ, mọi người mới hiểu là việc phụ thuộc hoàn toàn vào nhiên liệu hóa 
thạch sẽ không có tương lai, do vậy, phải đầu tư lớn vào nguồn năng lượng tái 
tạo. Phải biết tiết kiệm năng lượng, tiêu thụ năng lượng một cách hợp lý. Nếu ở 
Đức sử dụng năng lượng hiệu quả, chúng ta đã có thể tiết kiệm được ít nhất 30% 
nhu cầu năng lượng hiện tại mà không cần phải đánh đổi gì hết. Để làm được 
việc này, phải dựa vào thay đổi văn hóa. Đây mới chính là loại thay đổi mà tôi 
cảm thấy khó nhất. 
3.2. Nước ta phải làm gì để phát triển bền vững 
Từ một nước nghèo, lại trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt, mong ước của 
tất cả chúng ta là nước ta sớm vượt lên thành nước có đời sống kinh tế khá giả và cuộc 
sống của mọi người ổn định, yên bình. Chúng ta mong muốn có một nền kinh tế tăng 
trưởng cao là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ rằng, những nền 
kinh tế tăng trưởng cao trong thời gian ngắn, đều phải đối đầu với vần đề suy thoái 
môi trường. Riêng Việt Nam, nhiều chuyên gia ước tính, trong 10 năm tới, khi GDP 
của đất nước tăng gấp đôi, nếu không có giải pháp hữu hiệu thì ô nhiễm môi trường sẽ 
tăng gấp 3 lần, đó là chưa nói đến lượng tài nguyên bị khai thác. 
Như đã trình bày ở trên, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, mở rộng đô thị, phát triển 
nông thôn, nâng cao cuộc sống cho nhân dân, xây dựng hạ tầng cơ sở, cùng với tăng 
dân số đang gây áp lực ngày càng nặng nề lên môi trường. Tài nguyên thiên nhiên, 
nhất là rừng, đất, nước mặt và nước ngầm, các hệ sinh thái tự nhiên ngày càng có nguy 
cơ bị suy thoái nặng, các loài động vật, thực vật hoang dã, các nguồn gen quý và đa 
dạng sinh học nói chung đang có nguy cơ bị giảm sút nhanh chóng. Ô nhiễm công 
nghiệp, thành thị, nông thôn ngày càng trầm trọng đã đến mức quá tải, thiên nhiên 
không thể xử lý được. Tất cả đang tác động ngày càng xấu đến cuộc sống của mọi 
người chúng ta và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của cả đất nước. 
33 
Nói đến môi trường, hầu hết chúng ta ai cũng bức xúc, từ lãnh đạo đến người dân 
thường, vì tất cả chúng ta đang phải chịu đựng hàng ngày. Chúng ta đều than phiền và 
thường là đỗ lỗi cho người khác mà ít người nghĩ đến trách nhiệm của bản thân mình. 
Cần phải có nhận thức cao hơn của cộng đồng về vấn đề môi trường và phát triển bền 
vững mới có thể chuyển thành hành động thực sự được. 
Chúng ta đã và đang cố gắng giải quyết vấn đề môi trường, nhưng chỉ mới thực hiện 
được một số vụ việc nghiêm trọng xẩy ra, theo kiểu chữa cháy. Việc làm này là rất cần 
thiết để giảm bớt những thất thiệt trước mắt, nhưng không thể giải quyết tận gốc được 
vấn đề. 
Với sự chỉ đạo của Chính phủ, thực hiện “Định hướng chiến lược Phát triển bền vững 
ở Việt Nam” (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam), chúng ta đã đạt được những 
thành tựu đáng khích lệ về bảo vệ môi trường. Các khu công nghiệp đã có nhiều cố 
gắng góp phần ngăn chặn việc đổ phế thải, nước chưa qua xử lý ra đồng ruộng, ao hồ, 
kênh rạch và tích cực trồng các vùng cây nguyên liệu có giá trị. Mặc dù chúng ta đã cố 
gắng, nhưng tình hình môi trường vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Ý thức tự giác 
bảo vệ môi trường của cộng đồng chưa trở thành thói quen trong cách sống của đại bộ 
phận dân cư (Chu Thái Thành, 2008). 
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề môi trường, Đại hội lần thứ X của Đảng đã 
đề ra mục tiêu đến năm 2010 khá cụ thể. Quốc hội khóa XII cũng nêu chỉ tiêu về môi 
trường phải thực hiện trong năm 2008 khá cao, phải đạt được khoảng 60 đến 80% các 
mức chỉ tiêu mà Đảng đề ra với một số giải pháp cụ thể. 
Các giải pháp nêu trên là cần thiết, nhưng vì không có đầu mối chỉ đạo thống nhất với 
kế hoạch tổ chức sát sao, không tổ chức các cuộc vận động một cách rộng rãi, để động 
viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện một cách nghiêm túc, nên kết quả đạt được còn 
rất khiêm tốn. 
Trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, thử thách đối 
với công tác bảo vệ môi trường đang trở nên phức tạp hơn và khó khăn hơn, đòi hỏi 
việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và công tác quản lý môi trường tốt hơn. 
Ngày nay, vấn đề môi trường không còn là vấn đề cục bộ mà đã trở thành một hợp 
phần quan trọng không thể tách rời khỏi sự phát triển kinh tế và xã hội của cả đất nước 
ta. Ngoài những vấn đề ngắn hạn hay cấp bách phải giải quyết ngay đã đạt được, cần 
thiết phải sớm xây dựng quy hoạch tổng thể và lâu dài về sử dụng đất đai của cả nước 
và của từng vùng, từng địa phương theo hướng đạt được một sự phát triển hài hòa với 
môi trường, phù hợp với những điều kiện thiên nhiên của cả nước và của từng vùng, 
trong xu thế tác động ngày càng mạnh của nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu, mà 
không nên tiếp tục cách tùy tiện mà chúng ta đang thực hiện, không có quy hoạch tổng 
thể. Cách làm đó đã gây ra nhiều mâu thuẫn và tổn thất hết sức nặng nề về tài nguyên 
và môi trường, khó lòng hồi phục lại được như chúng ta đang phải đối đầu. 
Điều cần thiết là phải có những chính sách, chiến lược, pháp chế rõ ràng. Cũng cần 
phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, nâng cao ý thức cho mọi người 
34 
dân về bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách khôn ngoan và 
bền vững. 
Trong việc giải quyết vấn đề môi trường hiện nay của nước ta, cần có sự tham gia hết 
sức tích cực của mọi tầng lớp nhân dân với sự hiểu biết sâu sắc về vấn đề môi trường 
và phát triển bền vững, trong đó, các lực lượng thanh niên giữ vai trò hết sức quan 
trọng. Thanh niên có mặt ở khắp mọi cơ quan, doang nghiệp, thôn bản, là lực lượng 
chủ yếu trong việc tuyên truyền và giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân ở tất cả mọi 
nơi, mọi vùng của cả nước. Thanh niên còn là lực lượng gương mẫu, tuyên truyền và 
thực hiện các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ và sử dụng 
hợp lý tài nguyên và môi trường. Bằng cách tổ chức và sáng kiến của mình, lực lượng 
thanh niên có thể làm được nhiều việc hết sức bổ ích cho đất nước. 
Làm thế nào để có thể đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đẩy 
mạnh sự phát triển của đất nước mà không tàn phá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ được 
môi trường trong lành? Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có một chương 
trình lâu dài dựa trên các nguyên tắc về sinh thái (bảo tồn) và kinh tế (phát triển). 
Không phát triển thì không bảo tồn được, và nếu không bảo tồn thì kinh tế không thể 
phát triển bền vững được và xã hội cũng không tiến lên được. 
Để có thể hoàn thành được nhiệm vụ khó khăn này cần phải động viên được sự đồng 
thuận của đông đảo nhân dân với nhận thức sâu sắc về vấn đề môi trường. Phát động 
phong trào rộng rãi trong toàn dân về bảo vệ môi trường, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài 
nguyên thiên nhiên, đồng thời đẩy mạnh chương trình kế hoạch hóa gia đình và sớm 
hoàn thành công việc xóa đói giảm nghèo là những công việc cấp bách cần phải hoàn 
thành. 
KẾT LUẬN 
Vào đầu thế kỷ XXI, bên cạnh những thành tựu rực rỡ về khoa học, công nghệ và phát 
triển kinh tế, chúng ta cũng đang phải đối mặt với hàng loạt những thách thức về nhiều 
mặt, những mâu thuẫn khó giải quyết trong quá trình phát triển. 
Cuộc sống của chúng ta liên quan mật thiết với những nguồn tài nguyên mà Trái đất 
cung cấp như không khí, đất, nước, khoáng sản, thực vật, động vật và cả môi trường 
sống phù hợp. Tuy nhiên, mọi thứ tài nguyên cần thiết cho cuộc sống của chúng ta lại 
có hạn, không thể khai thác quá mức chịu đựng. Nền văn minh của chúng ta ngày càng 
lâm nguy bởi vì chúng ta đang lạm dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và làm rối loạn 
các hệ tự nhiên. Chúng ta đang gây áp lực lên Trái đất đến giới hạn chịu dựng cuối 
cùng. Nhưng, mặc dù đã khai thác thiên nhiên nhiều như vậy, hiện nay cũng còn có 
hơn một tỷ người vẫn đang phải vật lộn với nạn đói, không đạt được một đời sống tạm 
đủ, không kiếm đủ thức ăn để duy trì cuộc sống, trong lúc đó dân số loài người vẫn 
đang tăng. 
Nạn ô nhiễm môi trường đã lan ra không khí, nước, kể cả đại dương và đang ngày 
càng trở thành mối nguy cơ đe dọa đến sức khỏe con người và các hệ tự nhiên. Nhiệt 
độ của Trái đất đang ấm dần lên, mức nước biển dâng lên sẽ nhấn chìm những vùng 
35 
đất thấp, nơi có đông dân cư sinh sống, thiên tai ngày càng gia tăng cả về cường độ và 
sức tàn phá. 
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện nay mỗi năm có khoảng 11 triệu trẻ em 
dưới 5 tuổi bị chết và 15 triệu trẻ em bị chết do các nguyên nhân có thể phòng ngừa 
được. Nhiều bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS, cúm gia cầm... đang có nguy cơ bùng 
phát thành đại dịch lớn, nhiều bệnh tật mới đang nẩy sinh, bệnh lao, bệnh sốt rét, bệnh 
tả đang có nguy cơ lan truyền trên nhiều vùng. 
Để tồn tại và phát triển, chúng ta phải xây dựng được một kiểu phát triển kinh tế-xã 
hội mới, lấy con người làm trung tâm và dựa trên cơ sở bảo tồn, có nghĩa là cải thiện 
chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người trên cơ sở duy trì tính đa dạng và năng suất 
của thiên nhiên. Để đạt được mục tiêu đó, cần phải hành động trên nhiều lĩnh vực, 
nhưng việc thực hiện được những ý đồ mới đó thật không dễ dàng, trừ phi chúng ta 
phải có những thay đổi trong mọi quyết định và tổ chức hành động cho từng người 
cũng như cả cộng đồng. Cần phải xác định lại các vấn đề ưu tiên, lấy phát triển bền 
vững là mục đích chủ chốt trong mọi hoạt động ở tất cả các bình diện cá nhân, cộng 
đồng, quốc gia và toàn thế giới, như Chương trình Nghị sự phát triển bền vững toàn 
cầu đã được bổ sung, đó là: “Quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài 
hòa giữa ba mặt của sự phát triển, là: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ 
môi trường, nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người trong hiện tại, nhưng không 
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. 
Cuối cùng, trước lúc kết thúc bài viết này, tôi muốn chia sẻ với tất cả các đồng chí và 
các bạn về một suy nghĩ riêng tư. Thảm họa ở Nhật Bản vừa qua gây nên tổn thất vô 
cùng to lớn cho nhân dân Nhật Bản, nhưng cũng là bài học thật quý giá cho tất cả mọi 
người, cho những ai muốn làm người trong thời đại ngày nay. Trong thảm họa vừa qua 
ở Nhật Bản, việc tổ chức của những người lãnh đạo đến cách ứng xử của từng người 
một, từ trẻ con đến người lớn tuổi, người già cả, dù mất mát, đau đớn, khổ sở, đói rét, 
nhưng không hề có hành động lộn xộn, tranh giành, cướp bóc hay hôi của như thường 
thấy ở hầu hết các nước mỗi khi bị thiên tai, kể cả ở Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Chi Lê... 
Người Nhật có một tinh thần tương thân tương ái kỳ lạ, nhường nhịn nhau thật đáng 
kính phục, ở đâu cũng trật tự, không hề chen lấn, sẵn sàng hy sinh cho đồng loại mỗi 
khi gặp nạn. Một dân tộc như vậy thì khó khăn mấy rồi họ cũng sẽ vượt qua. 
Suy cho cùng, tất cả đều xuất phát từ phẩm chất con người: ý thức trách nhiệm với 
cộng đồng cao đẹp, có trình độ dân trí và ý thức đạo đức công dân cao. Đến bao giờ 
nước ta, dân ta mới đạt được trình độ như vậy. 
Cũng như mọi người, tôi rất bồi hồi xúc động khi chứng kiến động đất, sóng thần và 
thảm họa hạt nhân cùng lúc ở Nhật và đặc biệt là cách ứng xử của người Nhật trước 
thảm họa. Thật là quá khâm phục, quá ngưỡng mộ họ. Cứ như một thời Nghiêu Thuấn 
đang hiện hữu trên nước Nhật trong thế kỷ XXI này. Chính trị, văn hóa, giáo dục, tổ 
chức của người ta cao quá. Nghĩ cũng buồn và tủi hổ cho chúng ta. 
36 
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 
1. Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2004. Định hướng Chiến lược phát 
triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Hà Nội. 
2. Crutzen P.J., 2005. The Anthropocene: The Current Human-dominated 
Geological Era: Human Impacts on Climate and Environment. Paper Presented 
at GEA International Conference 05: Climate Change and its Effects on 
Sustainable Development. October 15-16, 2005. Tokyo, Japan. 
3. FAO, 2001. State of World’s Forest. Rome. 
4. Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường, 2004. Việt Nam – Môi trường và cuộc 
sống. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 
5. IPCC, 2007. Climate Change 2007: The Physical Science Basis. Summary for 
Policymakers. Contribution of Working Group I to the Fourth Assessment 
Report of the Intergovermental Panel on Climate Change. Geneva. 
6. IUCN, 2009. Last Call Climate and Nature. World Conservation. October 
2009. 
7. Jenifer L. Molnar, 2010. The Atlas of Global Conservation. Changes, 
Challenges, and Opportunities to Make a Difference. University of California, 
Berkeley Los Angeles London. 
8. MA (Millennium Ecosystem Assessment), 2005. Ecosystems and Human 
Well-being: Synthesis. Washington, DC. Island Press. 
9. Petit J.R. et al., 1999. Climate and Atmospheric History of the Past 420,000 
Years from the Vostok Ice Core, Antarctica. Nature 399: 429-436. 
10. Chu Thái Thành, 2008. Phát huy thành quả, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu của 
Quốc hội về bảo vệ môi trường. Bảo vệ Môi trường, Số 2. 
11. The Asahi Glass Foundation, 2010. Condition for Survival. Toward a “Solar 
Energy-Based Society” Full of Vibrant Life. Tokyo. Japan. 
12. UNEP, 2007. GEO 4, Global Environment Outlook Environment for 
Development. 
13. UNEP, 2010. Dead Planet, Living Planet, Biodiversity and Ecosystem 
Restoration for Sustainable Development. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 mot_so_van_de_moi_truong_toan_cau_va_viet_nam_than_thien_voi.pdf mot_so_van_de_moi_truong_toan_cau_va_viet_nam_than_thien_voi.pdf