Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ
không đảm bảo các điều kiện về
vệ sinh an toàn thực phẩm, không
đáp ứng được các tiêu chuẩn, quy
chuẩn theo quy định, nên sản
phẩm chế biến ra có chất lượng
thấp. Do đó, sản phẩm chè Nghệ
An không chỉ khó xâm nhập vào
các thị trường tiềm năng có giá
trị cao như: Tây Âu, Bắc Âu,
Nhật Bản và Bắc Mỹ. mà còn có
nguy cơ bị mất thị phần các thị
trường truyền thống như: Nga,
các nước Đông Âu, Đài Loan.
Sự phối hợp giữa doanh
nghiệp kinh doanh chè và một số
đơn vị, địa phương chưa thật chặt
chẽ trong cả việc thực hiện kế
hoạch trồng mới cũng như tổ
chức thu mua nguyên liệu. Hình
thức liên kết giữa người sản xuất,
nhà chế biến và tiêu thụ sản
phẩm chè vẫn bộc lộ những hạn
chế. Các chế tài ràng buộc sự liên
kết lỏng lẻo, quy mô liên kết nhỏ
hẹp, một số doanh nghiệp chưa
thực sự quan tâm và chia sẻ lợi
ích với nông dân nên thiếu tính
bền vững. Một số hộ trồng chè
vì lợi ích trước mắt sẵn sàng thu
hái nguyên liệu không đạt tiêu
chuẩn và bán cho cơ sở chế biến
không đầu tư vùng nguyên liệu
để lấy tiền và trốn nợ đầu tư của
các đơn vị đã đầu tư vùng nguyên
liệu, làm cho chất lượng nguyên
liệu, sản phẩm chè thấp. Dẫn đến
cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, làm mất ổn
định của ngành chè.
Trong những năm qua, Nghệ
An đã có nhiều chính sách hỗ trợ
phát triển cây chè và sản phẩm
chè. Tuy nhiên, những chính sách
vẫn chủ yếu hỗ trợ ở khâu đầu
vào, chưa chú trọng đến sản
phẩm đầu ra, nên chưa mang lại
hiệu quả như mong muốn.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè ở Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [43]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN
VÀ TIÊU THỤ CHÈ Ở NGHỆ AN
n Nguyễn Thị Trang Thanh
Trường Đại học Vinh 1. Tình hình sản xuất chè
Diện tích chè Nghệ An tăng nhanh từ
3.678ha năm 2000 lên 7.851ha năm 2010 và
7.056ha năm 2014. Chè được trồng tập trung ở
6 huyện miền núi phía Tây Nam: Thanh
Chương (4.136ha), Anh Sơn (2.001ha), Kỳ Sơn
(423ha), Con Cuông (334ha), Quỳ Hợp và Quế
Phong (243ha). Diện tích thu hoạch chè công
nghiệp năm 2014 là 5.610ha. Diện tích trồng
chè của tỉnh từ năm 2010 đến nay có xu hướng
giảm do một số vườn chè đến thời kỳ đốn chặt,
một phần do gặp nắng hạn.
Năng suất chè tăng từ 56,7 tạ/ha năm 2002
tăng lên 66,4 tạ/ha năm 2005; 92,7 tạ/ha năm
2010 và đạt 113,2 tạ/ha năm 2014; cao nhất ở
huyện Con Cuông (125,1 tạ/ha), Thanh Chương
(119 tạ/ha). Một số vùng chè nguyên liệu ở
Hạnh Lâm, Ngọc Lâm, Bãi Phủ, Thanh Mai có
năng suất cao 200-250 tạ/ha.
Cùng với việc mở rộng diện tích, nâng cao
năng suất, sản lượng chè cũng tăng hàng năm.
Sản lượng chè tăng từ 11.984 tấn năm 2002 lên
55.028 tấn năm 2010 và đạt 63.480 tấn năm
2014. Tốc độ tăng sản lượng bình quân trong
giai đoạn 2000-2014 là 16,5%/năm. Địa
phương có sản lượng chè nhiều nhất là Thanh
Chương, đạt 39.472 tấn, chiếm 62,2% sản
lượng chè toàn tỉnh (năm 2014); tiếp đến huyện
Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An
Ở Nghệ An, chè được xác định là mộttrong 12 cây công nghiệp chủ lực, cólợi thế trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm qua, sản xuất chè của Nghệ An
đã tăng cả về số lượng và chất lượng, hình thành
được vùng chè công nghiệp tập trung gắn với chế
biến, tiêu thụ sản phẩm, có sự liên kết của doanh
nghiệp trong đầu tư sản xuất, thu mua, chế biến
chè. Tuy nhiên, sản xuất chè ở Nghệ An còn nhiều
hạn chế: diện tích chè trong các hộ dân còn manh
mún, nhỏ lẻ; tốc độ mở rộng vùng nguyên liệu
chậm, làm mất cân đối giữa công nghiệp chế biến
và sản xuất nguyên liệu; hiện tượng tranh mua
nguyên liệu vẫn thường xuyên xảy ra giữa các nhà
máy và các cơ sở chế biến tư nhân; chất lượng
nguyên liệu chưa đồng đều, chất lượng sản phẩm
còn nhiều hạn chế Vì vậy, tìm hiểu thực trạng,
mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền
vững sản xuất chè ở Nghệ An là rất cần thiết.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [44]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Anh Sơn 12.126 tấn, chiếm
19,1%; huyện Kỳ Sơn 3.506 tấn;
huyện Con Cuông 3.339 tấn;
huyện Quỳ Hợp 990 tấn.
Cơ cấu giống chè của tỉnh đã
có sự thay đổi cơ bản, các giống
chè có năng suất thấp, chất lượng
không đảm bảo được thay thế
bằng các giống chè có năng suất
cao, chất lượng tốt và trồng bằng
phương pháp dâm cành. Cơ cấu
giống chè trước năm 2010 của
tỉnh bao gồm: giống LDP1,
LDP2 chiếm 57,5%; giống PH1
chiếm 31,45%, tập trung ở vùng
Thanh Chương; giống Shan tuyết
chiếm 5,21%; giống Trung du
chiếm 5,83%. Hiện nay, trên địa
bàn tỉnh phát triển giống chè
chính là LDP1, LDP2 chịu hạn
tốt, năng suất cao, phù hợp với
điều kiện đất đai, khí hậu của
tỉnh. Năm 2014, giống chè
LDP1,2 có diện tích trên
6.216,99 ha, chiếm 88,1% tổng
diện tích trồng chè toàn tỉnh, tập
trung chủ yếu ở huyện Thanh
Chương, Anh Sơn; Giống chè
Shan chiếm 6% tổng diện tích,
chỉ trồng ở huyện Kỳ Sơn; Giống
PH1 giảm diện tích nhanh, chỉ
còn 239,7ha, chiếm 3,4% do khả
năng chịu hạn, nóng kém.
Từ năm 2006, sản xuất và thu
hái chè bắt đầu được cơ giới hóa
từ khâu làm đất đến thu hoạch.
Số lượng máy hái chè tăng
nhanh. Năm 2011, cả tỉnh có
khoảng 685 máy hái chè, trong
đó huyện Anh Sơn có 150 máy,
huyện Thanh Chương có 200
máy, các xí nghiệp chè có 300
máy, Tổng đội Thanh niên xung
phong 1 (TNXP) có 20 máy,
Tổng đội THXP 2 có 15 máy.
Đến năm 2014, toàn tỉnh đã có
trên 1.100 máy hái chè, trong đó
Công ty TNHH MTV Đầu tư và
phát triển chè Nghệ An có nhiều
nhất với 950 máy. Công nghệ hái
chè bằng máy đến nay đã được
áp dụng rộng rãi, giúp người dân
giảm được công lao động, hiệu
quả sản xuất tăng lên rõ rệt.
2. Thực trạng chế biến chè
Toàn tỉnh hiện nay có 86 cơ sở
chế biến với tổng công suất thiết
kế 527 tấn búp tươi/ngày, với nhu
cầu lượng nguyên liệu chế biến là
120.000 tấn/năm (thời gian chế
biến 230 ngày/năm). Trong đó:
Công ty TNHH MTV Đầu tư và
Phát triển chè Nghệ An có 4 dây
chuyền chè CTC và 9 dây chuyền
chè xanh, công suất chế biến thiết
kế là 243 tấn/ngày, khả năng chế
biến 55.000-60.000 tấn búp
tươi/năm (thời gian chế biến 230
ngày/năm), tương đương 10.000-
12.000 tấn chè khô/năm. Sản
phẩm chè CTC chiếm 40%, chè
xanh chiếm 60%. Công ty TNHH
Chè Trường Thịnh có 2 dây
chuyền chế biến với công suất
chế biến thiết kế là 28 tấn búp
tươi/ngày. Trong đó, 1 dây
chuyền chế biến chè xanh công
suất 12 tấn/ngày và 1 dây chuyền
chế biến chè đen công suất 16
tấn/ngày. Công ty Cổ phần Rồng
Phương Đông có 2 dây chuyền
chế biến với công suất chế biến
thiết kế là 24 tấn búp tươi/ngày.
Trong đó, 1 dây chuyền chế biến
chè xanh công suất 12 tấn búp
tươi/ngày và 1 dây chuyền chế
biến chè đen công suất 12 tấn
búp tươi/ngày. Công ty TNHH
Nông nghiệp MTV 3/2 có 1 dây
chuyền chế biến chè xanh với
công suất thiết kế là 15 tấn búp
tươi/ngày. Ngoài ra còn có 75 cơ
sở chế biến nhỏ lẻ với tổng công
suất chế biến chè xanh thiết kế là
217 tấn/ngày (bình quân 01 cơ sở
có công suất chế biến 03 tấn búp
tươi/ngày). Hiện nay, Công ty
TNHH MTV Đầu tư và Phát
triển chè Nghệ An đạt 58% công
suất thiết kế, các cơ sở chế biến
chè còn lại chỉ đạt 40-45% công
suất thiết kế.
Sản lượng và giá trị sản xuất
chè tăng lên không ngừng trong
những năm qua. Năm 2010, sản
lượng chè búp khô toàn tỉnh đạt
10.010 tấn, giá trị sản xuất đạt
218.518 triệu đồng. Năm 2014,
sản lượng chè búp khô đạt 11.542
tấn, giá trị sản xuất đạt 261.768
triệu đồng, trong đó chế biến chè
tại các công ty và tổng đội chiếm
62% tổng sản lượng chè khô,
64,7% giá trị sản xuất chè toàn
tỉnh, sản lượng còn lại thuộc các
cơ sở chế biến nhỏ lẻ.
3. Thực trạng tiêu thụ chè
Sản phẩm chè ở Nghệ An
được tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu sang các nước khác như:
Pakistan, Nga, Ba Lan, Trung
Quốc và Phần Lan. Sản lượng
chè xuất khẩu hàng năm của
Nghệ An trung bình từ 4-5 nghìn
tấn, phụ thuộc vào nhu cầu thị
trường, chiếm khoảng 35-55%
tổng sản lượng chè của tỉnh. Năm
2007, xuất khẩu 5.500 tấn, kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 5,7 triệu
USD. Năm 2010, xuất khẩu
5.379 tấn, chiếm 53,7% sản
lượng chè toàn tỉnh, kim ngạch
xuất khẩu đạt 5,16 triệu USD.
Năm 2014, xuất khẩu 4.221 tấn,
chiếm 36,6%, giá trị xuất khẩu
đạt 6,46 triệu USD.
Các công ty chế biến chè chủ
yếu để xuất khẩu, còn các cơ sở
chế biến nhỏ lẻ chủ yếu tiêu thụ
trong nước. Sản lượng chè xuất
khẩu của tỉnh phần lớn là của
Công ty TNHH MTV Đầu tư và
Phát triển chè Nghệ An. Năm
2010, sản lượng chè xuất khẩu
của Công ty là 4.800 tấn, chiếm
89,2% tổng sản lượng chè xuất
khẩu của Nghệ An. Năm 2014,
sản lượng xuất khẩu là 3.680,
chiếm 87,2%. Các công ty tư
nhân khác, sản lượng chè xuất
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [45]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
khẩu nhỏ, không ổn định. Trong
năm 2014, có 2 công ty tư nhân
mới thành lập và tham gia vào
xuất khẩu chè nhưng sản lượng
không nhiều, đó là Công ty chè
Thành Đạt và Công ty nông
phẩm AGRONA.
Thị trường xuất khẩu của
Nghệ An chủ yếu là các nước
Trung Âu, Đông Âu và một số
quốc gia khác. Trong đó, Pakistan,
Apganixtan, Ba Lan và Liên
bang Nga là những bạn hàng
truyền thống với sản lượng xuất
khẩu chè nhiều và tương đối ổn
định. Năm 2014, giá trị xuất khẩu
chè sang nước Pakixtan đạt
2.874,7 nghìn USD, chiếm
44,5% giá trị xuất khẩu chè của
toàn tỉnh; Tiếp đến là nước Ap-
ganixtan, chiếm 18,6% giá trị chè
xuất khẩu. Cùng với chiến lược
mở rộng thị trường, chè của
Nghệ An đã xuất khẩu sang một
số các nước khác như Trung
Quốc, Anh, Israel, Iran và Đài
Loan. Sản lượng chè xuất khẩu
sang những nước này chưa nhiều,
tuy nhiên đây là dấu hiệu đáng
mừng trong việc phát triển thị
trường xuất khẩu chè trong giai
đoạn tới.
Tuy nhiên, giá trị chè xuất
khẩu của Nghệ An không ổn định,
phụ thuộc nhiều vào thị trường thế
giới. Các thị trường xuất khẩu chè
truyền thống của Nghệ An đang
thu hẹp dần. Giá trị chè xuất khẩu
sang Nga và Ba Lan giảm nhanh
từ năm 2012 đến nay. Từ năm
2011, Phần Lan thì không nhập
khẩu chè của Nghệ An.
Về thị trường trong nước, chè
của Nghệ An tiêu thụ nhiều,
nhưng giá trị thấp do chủ yếu là
sơ chế. Năm 2010, sản lượng chè
tiêu thụ trong nước là 4.631 tấn,
chiếm 46,3% tổng sản lượng chè;
năm 2014 là 7.321 tấn, chiếm
63,4%. Sản phẩm gồm chè xanh
rời, chè xanh đóng gói, chè hoa
sen, chè túi lọc được tiêu thụ
cho Hải Phòng, Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh và nội tỉnh.
Hiện nay, thương hiệu chè Nghệ
An tiêu thụ trong nước chỉ mới
có chè Kim Liên của Công ty
TNHH MTV Đầu tư và Phát
triển Chè Nghệ An. Phần lớn
lượng chè bán cho các thương lái
ở các tỉnh khác với giá thành rất
thấp (chỉ khoảng 40.000 đồng/kg
chè khô), sau đó được chế biến
lại và đóng gói với nhãn mác
khác. Còn thương hiệu chè Nghệ
An hầu như tiêu thụ rất ít, ngay
cả thị trường nội tỉnh.
4. Đánh giá chung
4.1. Những thành tựu
Sản xuất chè đã tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người dân,
khai thác có hiệu quả quỹ đất, tạo
việc làm ổn định cho khoảng trên
20.000 lao động, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh
cũng như trên địa bàn các huyện
miền Tây. Phát triển vùng chuyên
canh chè đã huy động được nhiều
thành phần kinh tế tham gia sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp,
đặc biệt là việc phát huy vai trò
của các doanh nghiệp nông
nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Việc ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất
ngày càng được đẩy mạnh, như
tiêu chuẩn VietGap, thủy lợi tưới,
cơ giới hóa, nhất là khâu thu
hoạch chè, đổi mới công nghệ
chế biến..., qua đó nâng cao năng
suất, chất lượng chè, năng suất
lao động và giá trị sản xuất.
Trong sản xuất chè đã hình
thành mối liên kết giữa sản xuất
và chế biến, giữa hộ nông dân và
doanh nghiệp, nhà nước tạo
chuỗi giá trị sản xuất chè ổn định.
Sản lượng chè trong chuỗi này
chủ yếu xuất khẩu sang nước
ngoài. Hàng năm, giá trị chè xuất
khẩu đạt từ 6-7 triệu USD. Năm
2010, giá trị xuất khẩu chè của
Nghệ An chiếm 3,7% giá trị xuất
khẩu hàng hóa của toàn tỉnh và
năm 2014 là 1,7%. Mặc dù giá trị
xuất khẩu chưa nhiều, nhưng đây
cũng là mặt hàng tiềm năng của
tỉnh trong thời gian tới.
Chè được trồng tập trung ở
những vùng đồi núi, góp phần
phủ xanh đất trống đồi núi trọc,
chống xói mòn rửa trôi, bảo vệ
Dây chuyền chế biến chè thành phẩm của Công ty Đầu tư phát triển chè Nghệ An
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [46]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
môi trường sinh thái. Mặt khác,
phát triển vùng chuyên canh chè,
thúc đẩy nông nghiệp miền núi
phát triển, xóa đói, giảm nghèo,
nâng cao thu nhập của người dân.
4.2. Tồn tại, hạn chế
Tuy đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng, nhưng sản xuất chè ở
Nghệ An đang bộc lộ nhiều tồn
tại, hạn chế:
Diện tích chè hiện nay đạt
được còn thấp so với mục tiêu và
quy hoạch phát triển đã được phê
duyệt. Nguyên nhân do khí hậu
thời tiết diễn biến bất thường, chi
phí sản xuất tăng cao, trong khi
hiệu quả sản xuất chè còn thấp
nên người trồng chè không mặn
mà trong việc đầu tư mở rộng
diện tích. Một số diện tích quy
hoạch trồng chè bị cạnh tranh bởi
các cây trồng khác như mía, sắn
và trồng rừng nguyên liệu. Quỹ
đất của các doanh nghiệp không
còn nhiều để mở rộng diện tích,
trong khi việc liên kết giữa các
doanh nghiệp với người trồng
chè để đầu tư mở rộng diện tích
gặp khó khăn do thiếu cơ chế
ràng buộc. Một số doanh nghiệp
không thực hiện đầu tư vùng
nguyên liệu như đã cam kết trong
dự án đầu tư. Diện tích chè trong
hộ dân manh mún, nhỏ lẻ nên
khó khăn trong việc ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
đầu tư thâm canh.
Việc tổ chức sản xuất và quản
lý ngành chè còn nhiều bất cập.
Trong đó, vấn đề nổi cộm nhất là
mất cân đối giữa công nghiệp chế
biến và sản xuất nguyên liệu, phá
vỡ các mối quan hệ hợp tác, liên
kết giữa sản xuất nguyên liệu,
chế biến và tiêu thụ đã được hình
thành lâu nay. Nguyên nhân do
vùng nguyên liệu phát triển
chậm, trong khi các cơ sở chế
biến nhỏ lẻ trong vùng mọc lên ồ
ạt không theo quy hoạch. Hiện
tại, toàn tỉnh có 75 cơ sở chế biến
nhỏ lẻ với công suất 217
tấn/ngày. Thực tế hiện nay
nguyên liệu chỉ đáp ứng được 40-
45% công suất chế biến. Sự mất
cân đối giữa công nghiệp chế
biến và sản xuất nguyên liệu đã
dẫn đến tranh mua, tranh bán
nguyên liệu giữa các cơ sở chế
biến làm mất ổn định thị trường.
Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ không
có vùng nguyên liệu, khi thị
trường thuận lợi thì tranh mua
nguyên liệu, đẩy giá thu mua lên
cao, tạo sự hỗn loạn trên thị
trường; khi thị trường khó khăn
thì không tham gia thu mua dẫn
đến hiện tượng nguyên liệu chè
dư thừa cục bộ, gây khó khăn cho
người sản xuất chè.
Việc thu hái chè không đúng
quy trình không những ảnh
hưởng đến chất lượng nguyên
liệu mà còn ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển bền vững của vườn
chè, ảnh hưởng trực tiếp đến các
vụ thu hoạch sau.
Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ
không đảm bảo các điều kiện về
vệ sinh an toàn thực phẩm, không
đáp ứng được các tiêu chuẩn, quy
chuẩn theo quy định, nên sản
phẩm chế biến ra có chất lượng
thấp. Do đó, sản phẩm chè Nghệ
An không chỉ khó xâm nhập vào
các thị trường tiềm năng có giá
trị cao như: Tây Âu, Bắc Âu,
Nhật Bản và Bắc Mỹ... mà còn có
nguy cơ bị mất thị phần các thị
trường truyền thống như: Nga,
các nước Đông Âu, Đài Loan...
Sự phối hợp giữa doanh
nghiệp kinh doanh chè và một số
đơn vị, địa phương chưa thật chặt
chẽ trong cả việc thực hiện kế
hoạch trồng mới cũng như tổ
chức thu mua nguyên liệu. Hình
thức liên kết giữa người sản xuất,
nhà chế biến và tiêu thụ sản
phẩm chè vẫn bộc lộ những hạn
chế. Các chế tài ràng buộc sự liên
kết lỏng lẻo, quy mô liên kết nhỏ
hẹp, một số doanh nghiệp chưa
thực sự quan tâm và chia sẻ lợi
ích với nông dân nên thiếu tính
bền vững... Một số hộ trồng chè
vì lợi ích trước mắt sẵn sàng thu
hái nguyên liệu không đạt tiêu
chuẩn và bán cho cơ sở chế biến
không đầu tư vùng nguyên liệu
để lấy tiền và trốn nợ đầu tư của
các đơn vị đã đầu tư vùng nguyên
liệu, làm cho chất lượng nguyên
liệu, sản phẩm chè thấp. Dẫn đến
cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, làm mất ổn
định của ngành chè.
Trong những năm qua, Nghệ
An đã có nhiều chính sách hỗ trợ
phát triển cây chè và sản phẩm
chè. Tuy nhiên, những chính sách
vẫn chủ yếu hỗ trợ ở khâu đầu
vào, chưa chú trọng đến sản
phẩm đầu ra, nên chưa mang lại
hiệu quả như mong muốn.
5. Một số giải pháp thúc đẩy
sản xuất chè bền vững
Để có thể sản xuất chè bền
vững, tạo ra sản phẩm xuất khẩu
có giá trị trên thị trường thế giới,
UBND tỉnh cần:
Tăng cường công tác chỉ đạo,
kiểm tra việc thực hiện quy hoạch
phát triển chè công nghiệp đã được
phê duyệt. Rà soát quỹ đất, xây
dựng dự án/kế hoạch chi tiết đầu tư
phát triển vùng nguyên liệu chè
trên địa bàn, đặc biệt là các vùng
sản xuất chè an toàn. Rà soát, điều
chỉnh quy hoạch cơ sở chế biến
chè, đảm bảo cân đối giữa sản xuất
nguyên liệu với công nghiệp chế
biến. Tiến hành phân vùng nguyên
liệu cụ thể cho từng cơ sở chế biến.
Hạn chế việc hình thành nhiều cơ
sở chế biến chè nhỏ lẻ không có
vùng nguyên liệu và công nghệ chế
biến không đồng đều, chất lượng
sản phẩm không cao.
(Xem tiếp trang 49)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_van_de_trong_san_xuat_che_bien_va_tieu_thu_che_o_nghe.pdf