Một số vấn đề trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè ở Nghệ An

Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ không đảm bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm, không đáp ứng được các tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định, nên sản phẩm chế biến ra có chất lượng thấp. Do đó, sản phẩm chè Nghệ An không chỉ khó xâm nhập vào các thị trường tiềm năng có giá trị cao như: Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản và Bắc Mỹ. mà còn có nguy cơ bị mất thị phần các thị trường truyền thống như: Nga, các nước Đông Âu, Đài Loan. Sự phối hợp giữa doanh nghiệp kinh doanh chè và một số đơn vị, địa phương chưa thật chặt chẽ trong cả việc thực hiện kế hoạch trồng mới cũng như tổ chức thu mua nguyên liệu. Hình thức liên kết giữa người sản xuất, nhà chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè vẫn bộc lộ những hạn chế. Các chế tài ràng buộc sự liên kết lỏng lẻo, quy mô liên kết nhỏ hẹp, một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và chia sẻ lợi ích với nông dân nên thiếu tính bền vững. Một số hộ trồng chè vì lợi ích trước mắt sẵn sàng thu hái nguyên liệu không đạt tiêu chuẩn và bán cho cơ sở chế biến không đầu tư vùng nguyên liệu để lấy tiền và trốn nợ đầu tư của các đơn vị đã đầu tư vùng nguyên liệu, làm cho chất lượng nguyên liệu, sản phẩm chè thấp. Dẫn đến cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp, làm mất ổn định của ngành chè. Trong những năm qua, Nghệ An đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển cây chè và sản phẩm chè. Tuy nhiên, những chính sách vẫn chủ yếu hỗ trợ ở khâu đầu vào, chưa chú trọng đến sản phẩm đầu ra, nên chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.

pdf4 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè ở Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [43] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN VÀ TIÊU THỤ CHÈ Ở NGHỆ AN n Nguyễn Thị Trang Thanh Trường Đại học Vinh 1. Tình hình sản xuất chè Diện tích chè Nghệ An tăng nhanh từ 3.678ha năm 2000 lên 7.851ha năm 2010 và 7.056ha năm 2014. Chè được trồng tập trung ở 6 huyện miền núi phía Tây Nam: Thanh Chương (4.136ha), Anh Sơn (2.001ha), Kỳ Sơn (423ha), Con Cuông (334ha), Quỳ Hợp và Quế Phong (243ha). Diện tích thu hoạch chè công nghiệp năm 2014 là 5.610ha. Diện tích trồng chè của tỉnh từ năm 2010 đến nay có xu hướng giảm do một số vườn chè đến thời kỳ đốn chặt, một phần do gặp nắng hạn. Năng suất chè tăng từ 56,7 tạ/ha năm 2002 tăng lên 66,4 tạ/ha năm 2005; 92,7 tạ/ha năm 2010 và đạt 113,2 tạ/ha năm 2014; cao nhất ở huyện Con Cuông (125,1 tạ/ha), Thanh Chương (119 tạ/ha). Một số vùng chè nguyên liệu ở Hạnh Lâm, Ngọc Lâm, Bãi Phủ, Thanh Mai có năng suất cao 200-250 tạ/ha. Cùng với việc mở rộng diện tích, nâng cao năng suất, sản lượng chè cũng tăng hàng năm. Sản lượng chè tăng từ 11.984 tấn năm 2002 lên 55.028 tấn năm 2010 và đạt 63.480 tấn năm 2014. Tốc độ tăng sản lượng bình quân trong giai đoạn 2000-2014 là 16,5%/năm. Địa phương có sản lượng chè nhiều nhất là Thanh Chương, đạt 39.472 tấn, chiếm 62,2% sản lượng chè toàn tỉnh (năm 2014); tiếp đến huyện Đồi chè Anh Sơn - Nghệ An Ở Nghệ An, chè được xác định là mộttrong 12 cây công nghiệp chủ lực, cólợi thế trong nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua, sản xuất chè của Nghệ An đã tăng cả về số lượng và chất lượng, hình thành được vùng chè công nghiệp tập trung gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, có sự liên kết của doanh nghiệp trong đầu tư sản xuất, thu mua, chế biến chè. Tuy nhiên, sản xuất chè ở Nghệ An còn nhiều hạn chế: diện tích chè trong các hộ dân còn manh mún, nhỏ lẻ; tốc độ mở rộng vùng nguyên liệu chậm, làm mất cân đối giữa công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu; hiện tượng tranh mua nguyên liệu vẫn thường xuyên xảy ra giữa các nhà máy và các cơ sở chế biến tư nhân; chất lượng nguyên liệu chưa đồng đều, chất lượng sản phẩm còn nhiều hạn chế Vì vậy, tìm hiểu thực trạng, mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển bền vững sản xuất chè ở Nghệ An là rất cần thiết. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [44] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Anh Sơn 12.126 tấn, chiếm 19,1%; huyện Kỳ Sơn 3.506 tấn; huyện Con Cuông 3.339 tấn; huyện Quỳ Hợp 990 tấn. Cơ cấu giống chè của tỉnh đã có sự thay đổi cơ bản, các giống chè có năng suất thấp, chất lượng không đảm bảo được thay thế bằng các giống chè có năng suất cao, chất lượng tốt và trồng bằng phương pháp dâm cành. Cơ cấu giống chè trước năm 2010 của tỉnh bao gồm: giống LDP1, LDP2 chiếm 57,5%; giống PH1 chiếm 31,45%, tập trung ở vùng Thanh Chương; giống Shan tuyết chiếm 5,21%; giống Trung du chiếm 5,83%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh phát triển giống chè chính là LDP1, LDP2 chịu hạn tốt, năng suất cao, phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu của tỉnh. Năm 2014, giống chè LDP1,2 có diện tích trên 6.216,99 ha, chiếm 88,1% tổng diện tích trồng chè toàn tỉnh, tập trung chủ yếu ở huyện Thanh Chương, Anh Sơn; Giống chè Shan chiếm 6% tổng diện tích, chỉ trồng ở huyện Kỳ Sơn; Giống PH1 giảm diện tích nhanh, chỉ còn 239,7ha, chiếm 3,4% do khả năng chịu hạn, nóng kém. Từ năm 2006, sản xuất và thu hái chè bắt đầu được cơ giới hóa từ khâu làm đất đến thu hoạch. Số lượng máy hái chè tăng nhanh. Năm 2011, cả tỉnh có khoảng 685 máy hái chè, trong đó huyện Anh Sơn có 150 máy, huyện Thanh Chương có 200 máy, các xí nghiệp chè có 300 máy, Tổng đội Thanh niên xung phong 1 (TNXP) có 20 máy, Tổng đội THXP 2 có 15 máy. Đến năm 2014, toàn tỉnh đã có trên 1.100 máy hái chè, trong đó Công ty TNHH MTV Đầu tư và phát triển chè Nghệ An có nhiều nhất với 950 máy. Công nghệ hái chè bằng máy đến nay đã được áp dụng rộng rãi, giúp người dân giảm được công lao động, hiệu quả sản xuất tăng lên rõ rệt. 2. Thực trạng chế biến chè Toàn tỉnh hiện nay có 86 cơ sở chế biến với tổng công suất thiết kế 527 tấn búp tươi/ngày, với nhu cầu lượng nguyên liệu chế biến là 120.000 tấn/năm (thời gian chế biến 230 ngày/năm). Trong đó: Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển chè Nghệ An có 4 dây chuyền chè CTC và 9 dây chuyền chè xanh, công suất chế biến thiết kế là 243 tấn/ngày, khả năng chế biến 55.000-60.000 tấn búp tươi/năm (thời gian chế biến 230 ngày/năm), tương đương 10.000- 12.000 tấn chè khô/năm. Sản phẩm chè CTC chiếm 40%, chè xanh chiếm 60%. Công ty TNHH Chè Trường Thịnh có 2 dây chuyền chế biến với công suất chế biến thiết kế là 28 tấn búp tươi/ngày. Trong đó, 1 dây chuyền chế biến chè xanh công suất 12 tấn/ngày và 1 dây chuyền chế biến chè đen công suất 16 tấn/ngày. Công ty Cổ phần Rồng Phương Đông có 2 dây chuyền chế biến với công suất chế biến thiết kế là 24 tấn búp tươi/ngày. Trong đó, 1 dây chuyền chế biến chè xanh công suất 12 tấn búp tươi/ngày và 1 dây chuyền chế biến chè đen công suất 12 tấn búp tươi/ngày. Công ty TNHH Nông nghiệp MTV 3/2 có 1 dây chuyền chế biến chè xanh với công suất thiết kế là 15 tấn búp tươi/ngày. Ngoài ra còn có 75 cơ sở chế biến nhỏ lẻ với tổng công suất chế biến chè xanh thiết kế là 217 tấn/ngày (bình quân 01 cơ sở có công suất chế biến 03 tấn búp tươi/ngày). Hiện nay, Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển chè Nghệ An đạt 58% công suất thiết kế, các cơ sở chế biến chè còn lại chỉ đạt 40-45% công suất thiết kế. Sản lượng và giá trị sản xuất chè tăng lên không ngừng trong những năm qua. Năm 2010, sản lượng chè búp khô toàn tỉnh đạt 10.010 tấn, giá trị sản xuất đạt 218.518 triệu đồng. Năm 2014, sản lượng chè búp khô đạt 11.542 tấn, giá trị sản xuất đạt 261.768 triệu đồng, trong đó chế biến chè tại các công ty và tổng đội chiếm 62% tổng sản lượng chè khô, 64,7% giá trị sản xuất chè toàn tỉnh, sản lượng còn lại thuộc các cơ sở chế biến nhỏ lẻ. 3. Thực trạng tiêu thụ chè Sản phẩm chè ở Nghệ An được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang các nước khác như: Pakistan, Nga, Ba Lan, Trung Quốc và Phần Lan. Sản lượng chè xuất khẩu hàng năm của Nghệ An trung bình từ 4-5 nghìn tấn, phụ thuộc vào nhu cầu thị trường, chiếm khoảng 35-55% tổng sản lượng chè của tỉnh. Năm 2007, xuất khẩu 5.500 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5,7 triệu USD. Năm 2010, xuất khẩu 5.379 tấn, chiếm 53,7% sản lượng chè toàn tỉnh, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,16 triệu USD. Năm 2014, xuất khẩu 4.221 tấn, chiếm 36,6%, giá trị xuất khẩu đạt 6,46 triệu USD. Các công ty chế biến chè chủ yếu để xuất khẩu, còn các cơ sở chế biến nhỏ lẻ chủ yếu tiêu thụ trong nước. Sản lượng chè xuất khẩu của tỉnh phần lớn là của Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển chè Nghệ An. Năm 2010, sản lượng chè xuất khẩu của Công ty là 4.800 tấn, chiếm 89,2% tổng sản lượng chè xuất khẩu của Nghệ An. Năm 2014, sản lượng xuất khẩu là 3.680, chiếm 87,2%. Các công ty tư nhân khác, sản lượng chè xuất Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [45] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI khẩu nhỏ, không ổn định. Trong năm 2014, có 2 công ty tư nhân mới thành lập và tham gia vào xuất khẩu chè nhưng sản lượng không nhiều, đó là Công ty chè Thành Đạt và Công ty nông phẩm AGRONA. Thị trường xuất khẩu của Nghệ An chủ yếu là các nước Trung Âu, Đông Âu và một số quốc gia khác. Trong đó, Pakistan, Apganixtan, Ba Lan và Liên bang Nga là những bạn hàng truyền thống với sản lượng xuất khẩu chè nhiều và tương đối ổn định. Năm 2014, giá trị xuất khẩu chè sang nước Pakixtan đạt 2.874,7 nghìn USD, chiếm 44,5% giá trị xuất khẩu chè của toàn tỉnh; Tiếp đến là nước Ap- ganixtan, chiếm 18,6% giá trị chè xuất khẩu. Cùng với chiến lược mở rộng thị trường, chè của Nghệ An đã xuất khẩu sang một số các nước khác như Trung Quốc, Anh, Israel, Iran và Đài Loan. Sản lượng chè xuất khẩu sang những nước này chưa nhiều, tuy nhiên đây là dấu hiệu đáng mừng trong việc phát triển thị trường xuất khẩu chè trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, giá trị chè xuất khẩu của Nghệ An không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới. Các thị trường xuất khẩu chè truyền thống của Nghệ An đang thu hẹp dần. Giá trị chè xuất khẩu sang Nga và Ba Lan giảm nhanh từ năm 2012 đến nay. Từ năm 2011, Phần Lan thì không nhập khẩu chè của Nghệ An. Về thị trường trong nước, chè của Nghệ An tiêu thụ nhiều, nhưng giá trị thấp do chủ yếu là sơ chế. Năm 2010, sản lượng chè tiêu thụ trong nước là 4.631 tấn, chiếm 46,3% tổng sản lượng chè; năm 2014 là 7.321 tấn, chiếm 63,4%. Sản phẩm gồm chè xanh rời, chè xanh đóng gói, chè hoa sen, chè túi lọc được tiêu thụ cho Hải Phòng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nội tỉnh. Hiện nay, thương hiệu chè Nghệ An tiêu thụ trong nước chỉ mới có chè Kim Liên của Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển Chè Nghệ An. Phần lớn lượng chè bán cho các thương lái ở các tỉnh khác với giá thành rất thấp (chỉ khoảng 40.000 đồng/kg chè khô), sau đó được chế biến lại và đóng gói với nhãn mác khác. Còn thương hiệu chè Nghệ An hầu như tiêu thụ rất ít, ngay cả thị trường nội tỉnh. 4. Đánh giá chung 4.1. Những thành tựu Sản xuất chè đã tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, khai thác có hiệu quả quỹ đất, tạo việc làm ổn định cho khoảng trên 20.000 lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như trên địa bàn các huyện miền Tây. Phát triển vùng chuyên canh chè đã huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, đặc biệt là việc phát huy vai trò của các doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng được đẩy mạnh, như tiêu chuẩn VietGap, thủy lợi tưới, cơ giới hóa, nhất là khâu thu hoạch chè, đổi mới công nghệ chế biến..., qua đó nâng cao năng suất, chất lượng chè, năng suất lao động và giá trị sản xuất. Trong sản xuất chè đã hình thành mối liên kết giữa sản xuất và chế biến, giữa hộ nông dân và doanh nghiệp, nhà nước tạo chuỗi giá trị sản xuất chè ổn định. Sản lượng chè trong chuỗi này chủ yếu xuất khẩu sang nước ngoài. Hàng năm, giá trị chè xuất khẩu đạt từ 6-7 triệu USD. Năm 2010, giá trị xuất khẩu chè của Nghệ An chiếm 3,7% giá trị xuất khẩu hàng hóa của toàn tỉnh và năm 2014 là 1,7%. Mặc dù giá trị xuất khẩu chưa nhiều, nhưng đây cũng là mặt hàng tiềm năng của tỉnh trong thời gian tới. Chè được trồng tập trung ở những vùng đồi núi, góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn rửa trôi, bảo vệ Dây chuyền chế biến chè thành phẩm của Công ty Đầu tư phát triển chè Nghệ An Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 5/2016 [46] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI môi trường sinh thái. Mặt khác, phát triển vùng chuyên canh chè, thúc đẩy nông nghiệp miền núi phát triển, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập của người dân. 4.2. Tồn tại, hạn chế Tuy đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng sản xuất chè ở Nghệ An đang bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế: Diện tích chè hiện nay đạt được còn thấp so với mục tiêu và quy hoạch phát triển đã được phê duyệt. Nguyên nhân do khí hậu thời tiết diễn biến bất thường, chi phí sản xuất tăng cao, trong khi hiệu quả sản xuất chè còn thấp nên người trồng chè không mặn mà trong việc đầu tư mở rộng diện tích. Một số diện tích quy hoạch trồng chè bị cạnh tranh bởi các cây trồng khác như mía, sắn và trồng rừng nguyên liệu. Quỹ đất của các doanh nghiệp không còn nhiều để mở rộng diện tích, trong khi việc liên kết giữa các doanh nghiệp với người trồng chè để đầu tư mở rộng diện tích gặp khó khăn do thiếu cơ chế ràng buộc. Một số doanh nghiệp không thực hiện đầu tư vùng nguyên liệu như đã cam kết trong dự án đầu tư. Diện tích chè trong hộ dân manh mún, nhỏ lẻ nên khó khăn trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư thâm canh. Việc tổ chức sản xuất và quản lý ngành chè còn nhiều bất cập. Trong đó, vấn đề nổi cộm nhất là mất cân đối giữa công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu, phá vỡ các mối quan hệ hợp tác, liên kết giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ đã được hình thành lâu nay. Nguyên nhân do vùng nguyên liệu phát triển chậm, trong khi các cơ sở chế biến nhỏ lẻ trong vùng mọc lên ồ ạt không theo quy hoạch. Hiện tại, toàn tỉnh có 75 cơ sở chế biến nhỏ lẻ với công suất 217 tấn/ngày. Thực tế hiện nay nguyên liệu chỉ đáp ứng được 40- 45% công suất chế biến. Sự mất cân đối giữa công nghiệp chế biến và sản xuất nguyên liệu đã dẫn đến tranh mua, tranh bán nguyên liệu giữa các cơ sở chế biến làm mất ổn định thị trường. Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ không có vùng nguyên liệu, khi thị trường thuận lợi thì tranh mua nguyên liệu, đẩy giá thu mua lên cao, tạo sự hỗn loạn trên thị trường; khi thị trường khó khăn thì không tham gia thu mua dẫn đến hiện tượng nguyên liệu chè dư thừa cục bộ, gây khó khăn cho người sản xuất chè. Việc thu hái chè không đúng quy trình không những ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu mà còn ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của vườn chè, ảnh hưởng trực tiếp đến các vụ thu hoạch sau. Các cơ sở chế biến nhỏ lẻ không đảm bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm, không đáp ứng được các tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định, nên sản phẩm chế biến ra có chất lượng thấp. Do đó, sản phẩm chè Nghệ An không chỉ khó xâm nhập vào các thị trường tiềm năng có giá trị cao như: Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản và Bắc Mỹ... mà còn có nguy cơ bị mất thị phần các thị trường truyền thống như: Nga, các nước Đông Âu, Đài Loan... Sự phối hợp giữa doanh nghiệp kinh doanh chè và một số đơn vị, địa phương chưa thật chặt chẽ trong cả việc thực hiện kế hoạch trồng mới cũng như tổ chức thu mua nguyên liệu. Hình thức liên kết giữa người sản xuất, nhà chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè vẫn bộc lộ những hạn chế. Các chế tài ràng buộc sự liên kết lỏng lẻo, quy mô liên kết nhỏ hẹp, một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và chia sẻ lợi ích với nông dân nên thiếu tính bền vững... Một số hộ trồng chè vì lợi ích trước mắt sẵn sàng thu hái nguyên liệu không đạt tiêu chuẩn và bán cho cơ sở chế biến không đầu tư vùng nguyên liệu để lấy tiền và trốn nợ đầu tư của các đơn vị đã đầu tư vùng nguyên liệu, làm cho chất lượng nguyên liệu, sản phẩm chè thấp. Dẫn đến cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp, làm mất ổn định của ngành chè. Trong những năm qua, Nghệ An đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển cây chè và sản phẩm chè. Tuy nhiên, những chính sách vẫn chủ yếu hỗ trợ ở khâu đầu vào, chưa chú trọng đến sản phẩm đầu ra, nên chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. 5. Một số giải pháp thúc đẩy sản xuất chè bền vững Để có thể sản xuất chè bền vững, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có giá trị trên thị trường thế giới, UBND tỉnh cần: Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch phát triển chè công nghiệp đã được phê duyệt. Rà soát quỹ đất, xây dựng dự án/kế hoạch chi tiết đầu tư phát triển vùng nguyên liệu chè trên địa bàn, đặc biệt là các vùng sản xuất chè an toàn. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch cơ sở chế biến chè, đảm bảo cân đối giữa sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến. Tiến hành phân vùng nguyên liệu cụ thể cho từng cơ sở chế biến. Hạn chế việc hình thành nhiều cơ sở chế biến chè nhỏ lẻ không có vùng nguyên liệu và công nghệ chế biến không đồng đều, chất lượng sản phẩm không cao. (Xem tiếp trang 49)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_van_de_trong_san_xuat_che_bien_va_tieu_thu_che_o_nghe.pdf