Một số vấn đề về bảo đảm thực hiện hợp đồng song vụ bằng biện pháp cầm giữ tài sản
sản cầm giữ hay quy định về thời hạn mà
bên có nghĩa vụ buộc phải thực hiện đúng
và đầy đủ nghĩa vụ cho bên có quyền cầm
giữ tài sản kể từ thời điểm phát sinh biện
pháp cầm giữ. Chính vì lẽ đó, Bộ luật quy
định bên cầm giữ tài sản phải giữ gìn, bảo
quản tài sản, nếu làm mất hoặc hư hỏng
sẽ phải bồi thường. Vậy bên có quyền cầm
giữ phải bảo quản, giữ gìn tài sản đó như
thế nào, giữ trong thời gian bao lâu. thì
mới không vi phạm nghĩa vụ được quy
định tại Điều 346 BLDS năm 2015? Thực tế
quy định này rất dễ dẫn tới thực trạng là
bên có nghĩa vụ sẽ lạm dụng để trì hoãn
việc thực hiện nghĩa vụ và lấy đó là căn cứ
để yêu cầu chấm dứt biện pháp cầm giữ
tài sản, buộc bên cầm giữ tài sản phải bồi
thường thiệt hại. Kết hợp với những phân
tích ở mục 4 về hậu quả khi bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền
trong bài viết này, tác giả nhận thấy việc bổ
sung quy định về xử lý tài sản cầm giữ là
rất cấp thiết.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 183 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về bảo đảm thực hiện hợp đồng song vụ bằng biện pháp cầm giữ tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
47Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI
Cầm giữ tài sản là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, cụ thể là trong hợp đồng song vụ.
Trước khi BLDS năm 2015 được ban
hành, nhiều ý kiến cho rằng nên đưa quy
định về cầm giữ tài sản thành một biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ độc lập
để thể hiện chức năng của nó trong việc
thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng song
vụ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, việc
có quy định cầm giữ tài sản thành một biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ độc lập
hay không cũng không thật sự cần thiết,
bởi lẽ quyền cầm giữ tài sản trong hợp
đồng song vụ sẽ đương nhiên phát sinh khi
bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ. Nó
thể hiện lẽ công bằng trong quan hệ dân
sự. Mặc dù vậy, để tránh những tranh chấp
phát sinh trên thực tiễn, việc quy định cầm
giữ tài sản thành một biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự độc lập sẽ tạo
cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng để giải quyết
những tranh chấp đó là phù hợp. Hơn nữa,
nếu để quy định về cầm giữ tài sản là một
trong những nội dung nằm trong phần
hợp đồng thì nó chỉ phát sinh hiệu lực giữa
các bên trong hợp đồng. Các chủ thể khác
không có nghĩa vụ phải biết tài sản đó đang
là đối tượng của biện pháp cầm giữ tài sản,
do đó sẽ tạo ra nhiều rủi ro đối với các bên
khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản
cầm giữ.
Việc BLDS năm 2015 quy định biện
pháp cầm giữ tài sản thành một trong chín
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự độc lập đã phần nào giải quyết được vấn
đề này. Bởi lẽ, khi trở thành một biện pháp
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG SONG VỤ
BẰNG BIỆN PHÁP CẦM GIỮ TÀI SẢN
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI*
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật dân sự và Kiểm sát dân
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Cầm giữ tài sản từ một quy định nằm trong phần Thực hiện hợp đồng của Bộ
luật dân sự (BLDS) năm 2005 đến BLDS năm 2015 đã được nâng lên là một biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự độc lập. Tuy nhiên, quy định về biện pháp
cầm giữ tài sản theo BLDS năm 2015 còn nhiều bất cập, vướng mắc cần hoàn thiện
để phù hợp với thực tiễn.
Từ khóa: Hợp đồng, cầm giữ tài sản, biện pháp bảo đảm, tài sản.
Ngày nhận bài: 27/3/2020; Ngày biên tập xong: 10/4/2020; Ngày duyệt đăng:
15/4/2020.
Lien on property that a regulation of Performance of contracts part in the 2005
and 2015 Civil Code has been an independent security measure for performance
of civil obligations. However, that provision according to the 2015 Civil Code has
remained several obtacles which needs to complete to fit the reality.
Keywords: Contracts, lien on property, security measure, property.
48
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG SONG VỤ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
bảo đảm nghĩa vụ dân sự độc lập, nó sẽ
phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba1. Khi đó, tài sản đang là đối tượng của
biện pháp cầm giữ không chỉ buộc các bên
trong hợp đồng mà còn buộc tất cả các chủ
thể khác có nghĩa vụ phải biết và tôn trọng.
Đây cũng là quy định được hầu hết các
quốc gia như Pháp2, Bỉ3, Anh4,... ghi nhận.
Tuy nhiên, kể từ khi BLDS năm 2015
được ban hành và có hiệu lực, quy định về
biện pháp cầm giữ tài sản đã bộc lộ một số
bất cập, hạn chế. Những bất cập, hạn chế
này chủ yếu xuất phát từ quy định còn
thiếu, chưa rõ ràng, dẫn đến việc khó khăn
khi áp dụng trên thực tiễn. Trong khuôn
khổ của bài viết này, tác giả đề cập đến một
số vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong
quy định của BLDS năm 2015, qua đó đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định về biện pháp cầm giữ tài sản với bản
chất là một biện pháp bảo đảm thực hiện
trong hợp đồng song vụ.
BLDS năm 2015 quy định rõ ràng hơn
về việc xác lập quyền cầm giữ; quyền,
nghĩa vụ của bên cầm giữ và các trường
hợp chấm dứt cầm giữ tài sản, tuy nhiên
vẫn còn tồn tại một số bất cập như sau:
1. Về đối tượng của biện pháp cầm
giữ tài sản
1 Khoản 2 Điều 347 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định: “Cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm
giữ chiếm giữ tài sản.”
2 Điều 2286 Bộ luật dân sự Pháp
3 GS. Eric Van Den Haute trao đổi ý kiến về các
quy định liên quan đến biện pháp bảo đảm ở Bỉ
tại Hội thảo về Những điểm mới trong Bộ luật dân
sự năm 2015, tháng 3/2016, Đại học Luật TP. Hồ
chí Minh
4 TS. Bùi Đức Giang, Có nên coi quyền cầm giữ tài
sản là một biện pháp bảo đảm, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 22/2014
BLDS năm 2015 không có điều luật
quy định riêng về đối tượng của biện pháp
cầm giữ tài sản. Điều 346 khi quy định về
khái niệm cầm giữ tài sản cũng đã đề cập
đến đối tượng của biện pháp cầm giữ là tài
sản nói chung. Trong khi đó, theo quy định
tại Điều 105 BLDS năm 2015 thì tài sản là:
Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Như vậy, mọi tài sản theo quy định tài Điều
105 đều có thể trở thành đối tượng của biện
pháp cầm giữ tài sản hay chỉ có một số loại
tài sản nhất định mới có thể trở thành đối
tượng của biện pháp này? Bởi nói đến tài
sản thì đó có thể là tài sản hữu hình hoặc
tài sản vô hình.
Về bản chất pháp lý, cầm giữ tài sản
vốn gắn liền với việc chiếm giữ về mặt vật
chất của tài sản nên biện pháp cầm giữ tài
sản chỉ có thể áp dụng được với tài sản hữu
hình chứ không thể áp dụng được với tài
sản vô hình. Như vậy, chỉ có tài sản hữu
hình mới có thể trở thành đối tượng của
biện pháp cầm giữ tài sản. Do đó, việc quy
định tại Điều 346 BLDS năm 2015 sẽ dẫn
đến cách hiểu là mọi tài sản theo quy định
tại Điều 105 BLDS năm 2015 đều có thể trở
thành đối tượng của biện pháp cầm giữ tài
sản là chưa thực sự phù hợp. Bởi lẽ, tài sản
vô hình thì không thể nắm giữ về mặt vật
chất được mà chỉ có thể quản lý tài sản đó
thông qua giấy tờ chứng minh quyền sở
hữu. Hơn nữa, trên thực tế, có rất nhiều
loại tài sản vô hình được xác lập theo cơ
chế tự động mà không cần phải đăng ký
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
lại việc trở thành đối tượng của biện pháp
cầm giữ tài sản lại càng khó khăn hơn như:
Quyền tài sản đối với quyền tác giả, quyền
tài sản đối với quyền liên quan đến quyền
tác giả, Theo quan điểm của tác giả, cần
sửa đổi, làm rõ quy định về đối tượng của
biện pháp cầm giữ tài sản cho phù hợp
49Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI
theo hướng quy định chỉ những tài sản
hữu hình mới có thể trở thành đối tượng
của biện pháp cầm giữ tài sản.
2. Về căn cứ xác lập cầm giữ tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 347
BLDS năm 2015, “cầm giữ tài sản phát sinh từ
thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ”. Như vậy, căn cứ để xác lập
biện pháp cầm giữ tài sản là cứ khi đến hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng
thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có
quyền được cầm giữ tài sản để buộc bên
có nghĩa vụ phải thực hiện đúng, đầy đủ
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ mà
các bên đã thỏa thuận. Dựa trên quy định
này, có thể thấy rằng căn cứ xác lập biện
pháp cầm giữ là theo luật định chứ không
dựa trên sự thỏa thuận5. Có nhiều ý kiến
cho rằng, cầm giữ tài sản chỉ là một biện
pháp bảo đảm chứ không phải là một giao
dịch bảo đảm, bởi biện pháp này chỉ được
xác lập dựa trên căn cứ luật định mà không
dựa trên sự thỏa thuận của các chủ thể
giống như biện pháp cầm cố, thế chấp,
Bên có quyền sẽ ngay lập tức được chiếm
giữ tài sản khi bên có nghĩa vụ vi phạm
nghĩa vụ do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng mà không cần có bất kỳ một sự thỏa
thuận nào về việc cầm giữ. Bên có quyền
chỉ phải trả lại tài sản cầm giữ cho bên có
nghĩa vụ khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ nếu các bên không có thỏa
thuận khác.
Với những quy định của BLDS năm
2015, tác giả cũng đồng tình với quan điểm
cầm giữ tài sản chỉ là một biện pháp bảo
5 PGS.TS. Phùng Trung Tập, Bàn về cầm giữ tài sản
- Một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Tạp chí
Kiểm sát, số 9/2018
đảm chứ không phải là một giao dịch bảo
đảm. Tuy nhiên, nếu quy định căn cứ xác
lập cầm giữ tài sản chỉ theo quy định của
luật thì việc này đã hạn chế rất nhiều về
phạm vi áp dụng của biện pháp này. Theo
quan điểm của tác giả, nên bổ sung thêm
quy định về căn cứ xác lập biện pháp cầm
giữ theo thỏa thuận. Đây cũng là quy định
được pháp luật của nhiều quốc gia như
Pháp6, Anh, ghi nhận7. Bởi lẽ, quy định
như vậy sẽ mở rộng phạm vi áp dụng biện
pháp cầm giữ và thể hiện được bản chất
của một quan hệ dân sự. Ở đó, các chủ thể
được tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận,
miễn là cam kết, thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội.
3. Về tài sản là đối tượng của hợp
đồng song vụ
Điều 346 BLDS năm 2015 quy định tài
sản cầm giữ chính là đối tượng của hợp
đồng song vụ. Một vấn đề đặt ra là hợp
đồng song vụ nào thì bên có quyền được
cầm giữ tài sản và hợp đồng nào thì không?
Nếu theo quy định tại Điều 346 thì có thể
hiểu rằng trong mọi hợp đồng song vụ,
bên có quyền đều được cầm giữ tài sản, kể
cả đó là hợp đồng song vụ có đền bù hay
không có đền bù.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là đối
với những hợp đồng có đối tượng là công
việc như: Hợp đồng dịch vụ, hợp đồng gửi
giữ tài sản, hợp đồng vận chuyển tài sản,
thì bên có quyền có được cầm giữ tài sản
không? Bởi lẽ, về mặt lý thuyết, đối tượng
của những hợp đồng này là công việc, còn
tài sản chỉ là đối tượng của công việc đó.
Nếu xét theo logic thì quy định về cầm giữ
6 Điều 2286 Bộ luật dân sự Pháp
7 TS. Bùi Đức Giang, tlđd.
50
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG SONG VỤ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2020
tài sản không áp dụng được với những hợp
đồng có đối tượng là công việc, bởi lẽ Điều
346 BLDS năm 2015 đã quy định rõ là biện
pháp cầm giữ tài sản chỉ phát sinh trong
hợp đồng song vụ mà có đối tượng là tài
sản. Thế nhưng trên thực tế, biện pháp cầm
giữ tài sản lại được áp dụng rất phổ biến
đối với những loại hợp đồng này. Điển
hình của hợp đồng dịch vụ thường phát
sinh việc cầm giữ tài sản là hợp đồng sửa
chữa tài sản. Ví dụ: A là chủ sở hữu của
chiếc ô tô, A mang chiếc ô tô này đến cửa
hàng của B để sửa chữa. Đến hạn, A đến
lấy xe nhưng không thanh toán đủ tiền sửa
chữa xe cho B. Trong trường hợp này, B có
quyền cầm giữ chiếc xe ô tô cho đến khi nào
A thanh toán đủ tiền sửa xe. Như vậy, biện
pháp cầm giữ tài sản đã phát sinh ngay kể
từ thời điểm đến hạn nhưng A không thanh
toán đủ tiền sửa xe cho B. Hơn nữa, đối với
những loại hợp đồng mà đối tượng của nó
là công việc thuần túy chứ không phải là
công việc được vật thể hóa như: hợp đồng
làm gia sư, hợp đồng dịch vụ pháp lý,
thì không thể áp dụng được biện pháp cầm
giữ tài sản, vì thực chất trong các hợp đồng
này thường không có tài sản để bên có
quyền có thể cầm giữ khi bên có nghĩa vụ
vi phạm nghĩa vụ. Do đó, không phải mọi
hợp đồng song vụ đều có thể áp dụng biện
pháp cầm giữ tài sản.
Theo quan điểm của tác giả, cần thiết
phải sửa đổi, bổ sung quy định này để làm
rõ hơn phạm vi hợp đồng song vụ nào thì
bên có quyền được cầm giữ tài sản. Có thể
sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ từ “đối
tượng” trong cụm từ “tài sản là đối tượng
của hợp đồng song vụ” đi, thay vào đó là
cụm từ “tài sản trong hợp đồng song vụ”.
4. Về hậu quả khi bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ với bên có
quyền
Trong trường hợp quy định về các
biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp
khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm
có quyền xử lý tài sản bảo đảm, BLDS năm
2015 lại chưa dự liệu quy định về trường
hợp bên có tài sản không thực hiện nghĩa vụ
thì hậu quả giải quyết sẽ như thế nào. Quy
định trong BLDS năm 2015 về cầm giữ tài
sản từ Điều 346 đến Điều 350 không đề cập
gì đến vấn đề xử lý tài sản cầm giữ khi bên
có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ. Điều này vô
tình đã tạo ra sự yếu thế cho bên có quyền
cầm giữ tài sản, bởi nếu các bên không có
thỏa thuận gì khác thì bên có quyền cầm
giữ tài sản chỉ đạt được mục đích khi bên
có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ
nghĩa vụ. Việc thực hiện nghĩa vụ này hoàn
toàn phụ thuộc vào ý chí của bên có nghĩa
vụ. Điều này thể hiện rất rõ nét qua quy
định tại Điều 348 và Điều 350 BLDS năm
2015 khi Bộ luật không đề cập gì đến việc
xử lý tài sản cầm giữ. Điều 348 BLDS năm
2015 quy định về quyền của bên cầm giữ,
cụ thể:
“1. Yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ.
2. Yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán
chi phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài
sản cầm giữ.
3. Được khai thác tài sản cầm giữ để
thu hoa lợi, lợi tức nếu được bên có nghĩa vụ
đồng ý.
Giá trị của việc khai thác tài sản cầm giữ
được bù trừ vào giá trị nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ.”
Theo quy định trên thì bên cầm giữ tài
sản chỉ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ
phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh
51Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2020
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI
từ hợp đồng song vụ chứ không được xử
lý tài sản cầm giữ. Vì vậy, cần thiết phải
cho phép bên cầm giữ có quyền xử lý tài
sản cầm giữ để bù trừ nghĩa vụ nếu bên có
nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ cho bên
cầm giữ tài sản. Theo quan điểm của tác
giả, BLDS cần bổ sung thêm quy định về
xử lý tài sản cầm giữ theo hướng: Trường
hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên
cầm giữ có quyền bán tài sản hoặc nhận tài sản
để thanh toán nghĩa vụ. Nếu giá trị của tài sản
cầm giữ lớn hơn nghĩa vụ thì bên cầm giữ phải
thanh toán phần chênh lệch cho bên có tài sản
cầm giữ8. Đồng thời, bổ sung thêm quy định
về xử lý tài sản cầm giữ là một trong những
căn cứ chấm dứt cầm giữ quy định tại Điều
450 BLDS năm 2015. Có như vậy mới đảm
bảo được quyền của bên cầm giữ tài sản và
phát huy được bản chất của một biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
5. Về nghĩa vụ của bên cầm giữ
tài sản
Điều 349 BLDS năm 2015 quy định về
nghĩa vụ của bên cầm giữ tài sản, trong đó
có nghĩa vụ giữ gìn, bảo quản tài sản cầm
giữ; bồi thường thiệt hại nếu làm mất hoặc
hư hỏng tài sản cầm giữ. Nếu xét những
quy định về nghĩa vụ này trong phạm vi
Điều 349 thì hoàn toàn phù hợp, nhưng
xét trong tổng thể các quy định của BLDS
năm 2015 về cầm giữ tài sản thì lại tồn tại
sự bất cập. Đó là việc trong tất cả các quy
định về biện pháp cầm giữ tài sản, BLDS
năm 2015 không có quy định nào về việc
bên có quyền cầm giữ tài sản được xử lý tài
8 TS. Nguyễn Minh Tuấn, Những nội dung của phần
nghĩa vụ và hợp đồng còn nhiều bất cập, Hội thảo về
Góp ý dự thảo bộ luật dân sự 2005 sửa đổi, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tháng 3/2015
sản cầm giữ hay quy định về thời hạn mà
bên có nghĩa vụ buộc phải thực hiện đúng
và đầy đủ nghĩa vụ cho bên có quyền cầm
giữ tài sản kể từ thời điểm phát sinh biện
pháp cầm giữ. Chính vì lẽ đó, Bộ luật quy
định bên cầm giữ tài sản phải giữ gìn, bảo
quản tài sản, nếu làm mất hoặc hư hỏng
sẽ phải bồi thường. Vậy bên có quyền cầm
giữ phải bảo quản, giữ gìn tài sản đó như
thế nào, giữ trong thời gian bao lâu... thì
mới không vi phạm nghĩa vụ được quy
định tại Điều 346 BLDS năm 2015? Thực tế
quy định này rất dễ dẫn tới thực trạng là
bên có nghĩa vụ sẽ lạm dụng để trì hoãn
việc thực hiện nghĩa vụ và lấy đó là căn cứ
để yêu cầu chấm dứt biện pháp cầm giữ
tài sản, buộc bên cầm giữ tài sản phải bồi
thường thiệt hại. Kết hợp với những phân
tích ở mục 4 về hậu quả khi bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền
trong bài viết này, tác giả nhận thấy việc bổ
sung quy định về xử lý tài sản cầm giữ là
rất cấp thiết.
Như vậy, việc đưa biện pháp cầm giữ
tài sản trở thành một trong các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại Điều 292
BLDS năm 2015 là phù hợp với thực tiễn.
Hầu hết các quốc gia có nền lập pháp phát
triển như Anh, Pháp, Nhật Bản, đều quy
định biện pháp cầm giữ tài sản là những
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự. Tuy nhiên, quy định trong BLDS năm
2015 về biện pháp cầm giữ tài sản vẫn còn
chung chung, mang tính chất nguyên tắc
chứ chưa quy định cụ thể và bao quát hết
được những vấn đề pháp lý liên quan đến
biện pháp bảo đảm này. Do đó, BLDS năm
2015 cần có những chỉnh sửa, bổ sung để
biện pháp cầm giữ tài sản thực sự phát huy
được giá trị của nó trên thực tế, cũng như
bảo vệ được lợi ích của bên có quyền trong
biện pháp bảo đảm này./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_bao_dam_thuc_hien_hop_dong_song_vu_bang_bie.pdf