- Đối với Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia
do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý. Quỹ
chưa có khả năng tài chính độc lập do hằng năm
được NSNN vẫn cấp bổ sung vốn điều lệ để chi
hoạt động thường xuyên. Trong khi đó, theo
quy định [4]: Quỹ phải áp dụng cơ chế tài chính
giống NHPTVN nhưng trên thực tế quỹ đang
đang hoạt động theo mô hình là đơn vị sự
nghiệp. Vì vậy cần sửa đổi, bổ sung điều lệ tổ
chức và hoạt động và nghiên cứu chuyển đổi
mô hình hoạt động theo mô hình QTCNNS đảm
bảo cân đối thu, chi và việc cấp bổ sung vốn
điều lệ phải theo đúng quy định của
Luật NSNN.
- Đối với Quỹ Phát triển khoa học công
nghệ quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ
quản lý [8]. Nhiệm vụ chi trùng lặp với nhiệm
vụ chi của NSNN cho các chương trình KHCN
quốc gia. Hoạt động của Quỹ giống đơn vị sự
nghiệp (hoạt động quỹ hoàn toàn phụ thuộc vào
nguồn kinh phí NSNN cấp, 90% hoạt động hỗ
trợ, tài trợ là không hoàn lại) là chưa phù hợp
với khái niệm QTCNNS. Do vậy, cần xác định
rõ mô hình tổ chức và quản lý Quỹ theo mô
hình tổ chức KHCN công lập (Nghị định số
16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 và Nghị định
số 54/2017/NĐ-CP, ngày 14/6/2017) và đồng
thời nghiên cứu sửa đổi, cho hoạt động của Quỹ
đúng với Luật NSNN.
- Đối với Quỹ phòng chống tác hại thuốc lá
do Bộ Y tế quản lý [9]. Mặc dù nguồn thu của
quỹ không trùng với NSNN, nhưng khoản thu
chính của quỹ lại dựa trên giá tính thuế tiêu thụ
đặc biệt từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc
lá, cùng với đó hầu hết các nhiệm vụ chi trùng
với nhiệm vụ chi của NSNN và có một số
nhiệm vụ chi của quỹ có thể giao cho các đơn
vị thuộc Bộ Y tế thực hiện. Vì vậy, cần nghiên
cứu, điều chỉnh các quy định liên quan đến
nguồn thu, nhiệm vụ chi của Quỹ phù hợp với
thực tế và quy định của Luật NSNN và pháp
luật về thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Đối với Quỹ bảo vệ và phát triển rừng do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản
lý [10]. Nguồn thu của Quỹ cấp tỉnh từ tiền
trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử
dụng rừng sang mục đích khác, có tính chất
giống với thu tiền sử dụng đất khi chuyển đổi
mục đích sử dụng đất phải nộp NSNN; nhiệm
vụ chi trồng rừng và một số nhiệm vụ chi khác
đang sử dụng nguồn tài chính của QTCNNS
trùng với nhiệm vụ chi của NSNN. Do vậy, cần
thực hiện xem xét chuyển các nguồn thu này
vào trong cân đối NSNN, nghiên cứu loại bỏ
các nhiệm vụ chi trùng lặp với nhiệm vụ chi của
NSNN để đảm bảo các nhiệm vụ chi do quỹ
thực hiện là độc lập với NSNN.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về chính sách quản lý quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
11
Original Article
Managing the off-budget Funds:
Issues and Policies in Vietnam
Hoang Xuan Hoa1, Trinh Mai Van2,*
1Hanoi Party Commitee, No. 9, Ngo Quyen, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
2National Economics University, 207, Giai Phong, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam
Received 24 February 2020
Revised 25 February 2020; Accepted 17 March 2020
Abstract: In Vietnam, there are currently more than 40 State off-budget funds (off-budget funds)
operating. These are special financial institutions owned by the government that are not part of the
State budget and that established by the State to mobilize additional resources from the society to
facilitate the determined tasks. In recent years, off-budget funds have made important
contributions to ensuring social goals, attracting investment from domestic and foreign sources and
providing additional revenue to the State budget to support economic growth and social
development. However, according to many assessments, the tasks of managing, monitoring and
evaluating off-budget funds are still inadequate. Moreover, because the policy framework for
off-budget funds are still imperfect, these funds could not meet the expected efficiency level.
There are issues relating to the “self-controlling” spending problems, lack of unified framework
and mechanisms governing different types of off-budget funds, and the unique charter of each
fund. These issues have been causing the problems of overlapping objectives, tasks, revenue and
expenditure activities of off-budget funds with the State budget. In some cases, off-budget funds
are even relying on the annual state budget that fragmenting the State’s resources. This paper
presents an overview of the current situation and governing policies of the off-budget funds in
Vietnam, as well as analyzes some limitations and shortcomings of such funds and makes
suggestions for solutions to govern and manage off-budget funds efficiency expecting by the Party
and the government.
Keywords: Mechanisms, policies, off-budget fund.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: trinhmaivan@hotmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4326
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
12
Một số vấn đề về chính sách quản lý quỹ tài chính nhà nước
ngoài ngân sách nhà nước ở Việt Nam
Hoàng Xuân Hòa1,*, Trịnh Mai Vân2
1Thành ủy Hà Nội, Số 9 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 207 Đường Giải Phóng, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 24 tháng 02 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Tại Việt Nam có hơn 40 quỹ tài chính ngoài Ngân sách Nhà nước (gọi tắt là Quỹ tài
chính ngoài Ngân sách - QTCNNS) đang hoạt động. Đây là một định chế tài chính của Nhà nước
hoạt động độc lập với Ngân sách Nhà nước (NSNN), do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định thành lập để huy động thêm nguồn lực từ xã hội thực hiện các nhiệm vụ được xác định. Trong
thời gian qua, các quỹ này đã có những đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo một số mục tiêu
xã hội, thu hút vốn trong và ngoài nước, bổ sung thêm nguồn tài chính hỗ trợ NSNN phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên theo đánh giá, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát còn
chưa triệt để, nhất là hệ thống chính sách đối với các QTCNNS hiện nay còn nhiều bất cập làm cho
hoạt động của một số quỹ còn chưa hiệu quả như: các quỹ “tự kiểm soát” chi tiêu, mỗi quỹ lại có
một điều lệ riêng chưa có khung pháp lý quản lý thống nhất, dẫn đến việc bị trùng lắp về mục
tiêu, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ, hoạt động thu, nhiệm vụ chi với NSNN, thạm chí nhiều quỹ vẫn
còn dựa vào nguồn vốn NSNN cấp hàng năm để hoạt động khiến nguồn lực của Nhà nước bị phân
tán. Bài viết sẽ trình bày những kết quả đạt được, chỉ ra một số hạn chế, bất cập và từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các
QTCNNS trong thời gian tới đáp ứng được yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Từ khóa: Cơ chế, chính sách, quỹ tài chính ngoài Ngân sách.
1. Vài nét chung về quỹ tài chính Nhà nước *
Nhà nước là chủ thể thành lập và quản lý
các QTCNNSS. Đây là một định chế tài chính
của Nhà nước hoạt động độc lập với ngân sách
nhà nước (NSNN). Việc thành lập các quỹ này
đều do cơ quan hành pháp là Chính phủ, cơ
quan của Chính phủ, Chính quyền địa phương
quyết định, một số quỹ lớn do Quốc hội quyết
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: trinhmaivan@hotmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4326
định (Quỹ Dự trữ quốc gia, Quỹ Bảo hiểm xã
hội,). Hoạt động của quỹ có tính thời điểm,
linh hoạt, phù hợp với một số tình huống cụ thể
mà không thể thực hiện theo quy trình NSNN,
hoặc có sự mâu thuẫn với nhiệm vụ chi NSNN.
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều quỹ tồn tại
lâu dài để phục vụ những nhu cầu của xã hội và
hỗ trợ Nhà nước thực hiện các hoạt động quản
lý, phát triển kinh tế - xã hội [1]. Tại ác nước
châu Âu như: Séc, Pháp, Hy Lạp, Hungari,
Italy, Hà Lan, thường có QTCNNS trong lĩnh
vực: chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, giao
thông và hưu trí. Còn Mỹ, có QTCNNS hình
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
13
thành những năm 80 để giải quyết các vấn đề
của các tổ chức tiết kiệm) [2]. Trên cơ sở đánh
giá những rủi ro trong quản lý QTCNNS, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) đã đưa ra những yêu cầu tương đối
toàn diện về quy định hình thành, quản lý hoạt
động của các QTCNNS và các nước có những
điều chỉnh trong quy định pháp lý của mình cho
phù hợp nhằm đảm bảo sử dụng quỹ hiệu quả,
minh bạch đặc biệt là vấn đề liên quan tới quản
lý tài chính từ lập lập dự toán đến kiểm tra,
giám sát việc thực hiện sử dụng điển hình như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Chile, Brazil, Mỹ, Anh,
Nam Phi, Trung Quốc, [1]. Có thế thấy rằng
QTCNNS là một mô hình được nhiều quốc gia
trên thế giới công nhận và Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hướng đó.
Các quỹ QTCNNS có thể phân loại theo
mục đích hình thành: (i) Nhóm quỹ dự trữ của
Nhà nước cơ chế tài chính có độ linh hoạt cao
với chức năng dự trữ, dự phòng rủi ro như thiên
tai, dịch bệnh, biến động của thị trường, Các
quỹ này có nguồn tài chính chủ yếu do NSNN
cấp, có kế hoạch hoạt động cụ thể, quản lý theo
nguyên tắc tập trung, thống nhất để đảm bảo tập
trung nguồn lực; (ii) Nhóm quỹ thực hiện một
số mục tiêu an sinh xã hội với cơ chế quản lý
tài chính chủ yếu là đảm bảo thu - chi đúng chế
độ, chính sách của Nhà nước, thực hiện trợ cấp
cho các đối tượng theo mục tiêu hoạt động (quỹ
Bảo hiểm xã hội, quỹ Bảo hiểm y tế, quỹ Xóa
đói giảm nghèo,); (iii) nhóm quỹ hỗ trợ các
hoạt động kinh tế - xã hội hoạt động với đặc
trưng hoạt động có tính chất thu hồi vốn gốc và
cho vay với lãi suất ưu đãi. Việc huy động vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế là rất quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của
nhóm quỹ này, còn nguồn NSNN chỉ mang tính
chất “vốn mồi” (quỹ Hỗ trợ phát triển, quỹ Đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quỹ Bảo lãnh tín
dụng,). Hay cũng có thể phân chia theo thiết
kế thể chế của quỹ: (i) Quỹ thành lập để giúp
Chính phủ giải quyết một số nhiệm vụ phát sinh
ngoài dự toán, do Bộ Tài chính, hoặc KBNN
quản lý (Quỹ Bình ổn giá xăng dầu); (ii) Quỹ
được thành lập với sự khác biệt về kiểm soát
chi áp dụng cho các đơn vị dự toán, do các bộ
chủ quản hoặc các cơ quan chi tiêu khác quản
lý (Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Bảo hiểm y tế,
Quỹ Bảo vệ môi trường) và (iii) Quỹ do chính
quyền địa phương quản lý để phục vụ cho đầu
tư phát triển tại địa phương [1].
2. Cơ sở pháp lý về việc hình thành và mô
hình hoạt động quỹ tài chính Nhà nước tại
Việt Nam
2.1. Về cơ sở pháp lý thành lập và mô hình
hoạt động
Dựa trên nền tảng của Hiến pháp 2013 (Điều
70), các QTCNNS được thành lập và hoạt động
theo quy định của pháp luật, trong đó có quỹ
được hình thành theo quy định của luật, pháp
lệnh, nghị định, quyết định (Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và
giao cho các bộ, cơ quan trung ương quản lý, sử
dụng cho các mục tiêu chung của quốc gia, của
ngành đối với quỹ ở trung ương; còn quỹ địa
phương do UBND tỉnh ra quyết định thành lập,
quản lý và sử dụng cho các mục tiêu phát triển
KT-XH địa phương). Mục đích, tính chất, phạm
vi hoạt động của các quỹ là khá đa dạng, như:
hỗ trợ hoạt động môi trường; hỗ trợ phát triển
khoa học và công nghệ; hỗ trợ giải quyết việc
làm, phát triển kinh tế, xóa đói giảm hỗ trợ
doanh nghiệp; đầu tư phát triển; phòng, chống
các tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị trật
tự an toàn xã hội; thực hiện các chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội,...
Hiện nay, Việt Nam có hơn 40 QTCNNS
được thành lập và hoạt động. Tại trung ương,
có 17 bộ, cơ quan trung ương thành lập hoặc
được giao quản lý 28 quỹ (không kể Quỹ Hỗ trợ
phát triển du lịch và Quỹ có quyết định thành
lập nhưng chưa hoạt động), chiếm khoảng 95%
tổng nguồn vốn hoạt động các QTNNN với 10
quỹ có vốn và nguồn thu, nhiệm vụ chi lớn
gồm: Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Bảo hiểm y tế,
Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, Quỹ Hỗ trợ sắp xếp
và phát triển doanh nghiệp, Quỹ Tích lũy trả
nợ, Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, Quỹ
Dịch vụ viễn thông công ích, Quỹ Bình ổn giá
xăng dầu, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam,
Quỹ Bảo trì đường bộ trung ương (bộ máy dừng
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
14
hoạt động từ 01/2020 theo Nghị định
09/2020/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ). Tại
các địa phương có khoảng trên 20 quỹ được
thành lập với quy mô chủ yếu dưới 5 tỷ đồng.
Một số quỹ được thành lập tại hầu hết các địa
phương (Quỹ phát triển đất, Quỹ bảo trì đường
bộ, Quỹ bảo vệ môi trường, Quỹ bảo vệ và phát
triển rừng, Quỹ phòng chống thiên tai, Quỹ
phòng chống tội phạm, Quỹ hỗ trợ phát triển
hợp tác xã,...) nhưng cũng có quỹ chỉ thành lập
phù hợp với thực tế, đặc thù của từng địa
phương (Quỹ Hỗ trợ ngư dân của Quang Nam,
Đà Nẵng và Quảng Ngãi; Quỹ Xúc tiến thương
mại của Điện Biên; Quỹ hỗ trợ phát triển du
lịch ở Tuyên Quang; Quỹ Bảo vệ phát huy giá
trị nhà vườn Huế ở Thừa Thiên Huế,...) [3].
Theo thống kê, hiện có khoảng hơn 100 văn
bản pháp luật điều chỉnh các loại QTCNNS ở cả
trung ương và địa phương. Trong đó, các quỹ
này đều có chế độ quản lý tài chính riêng, phù
hợp với đặc thù hoạt động (Bộ Tài chính đã ban
hành hoặc phối hợp với các bộ có liên quan ban
hành trên 40 văn bản hướng dẫn thực hiện chế
độ quản lý tài chính, kế toán đối với các quỹ
trung ương và một số quỹ địa phương để
thực hiện).
Mô hình tổ chức hoạt động của các quỹ
được quy định tại văn bản thành lập và đều có
điều lệ hoạt động riêng do cơ quan có thẩm
quyền ban hành. Nguồn thu, nhiệm vụ chi phải
tuân thủ theo quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam.
Bảng 1. Số liệu một số Quỹ tài chính Nhà nước được giao biên chế
Tên quỹ Số người
1. Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia 55
2. Quỹ Viễn thông công ích 55
3. Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia 52
4. Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài Tối đa 7
5. Quỹ Hỗ trợ vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài 9
6. Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước 6
7. Quỹ Hỗ trợ nông dân trung ương 12
8. Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã 23
9. Quỹ Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 16
10. Quỹ Phòng chống tác hại thuốc lá (Ban tư vấn không quá 9 thành viên kiêm nhiệm, Ban
kiểm soát không quá 5 thành viên, cơ quan điều hành quỹ 35 người)
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Bộ Tài chính [3].
Bộ máy tổ chức của các QTCNNS thường
bao gồm: hội đồng quản lý, ban kiểm soát, và
cơ quan chuyên môn (Quỹ Phát triển khoa học
và công nghệ quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ
quốc gia, Quỹ Phòng chống tác hại thuốc lá,
Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ Hỗ trợ phát triển
hợp tác xã; Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa,...) hoặc ban giám đốc và bộ phận nghiệp
vụ quỹ (Quỹ Viễn thông công ích, Quỹ Bảo hộ
công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài,
Quỹ Hỗ trợ vận động cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài, Quỹ Hỗ trợ các hoạt động
ngoại giao phục vụ kinh tế, Quỹ Hỗ trợ người
nhiễm HIV/AIDS; Quỹ Hỗ trợ nông dân trung
ương,...). Tùy theo quy mô và tính chất hoạt
động, tổ chức bộ máy quỹ có thể hình thành bộ
máy riêng biệt hoặc theo chế độ kiêm nhiệm,
nhất là các quỹ có quy mô nhỏ ở địa phương.
Một số quỹ được giao biên chế, trong khi
những quỹ khác không được giao biên chế
(Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, Quỹ Đền ơn
đáp nghĩa, Quỹ Phòng chống tội phạm, Quỹ Hỗ
trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam, Quỹ Bảo vệ và
phát triển rừng). Riêng các quỹ có quy mô lớn,
phạm vi hoạt động rộng do Bảo hiểm xã hội
Việt Nam quản lý là bảo hiểm xã hội (BHXH),
Bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp
BHTN thì bộ máy được tổ chức theo hệ thống
dọc, tập trung, thống nhất từ trung ương đến
cấp tỉnh và cấp huyện.
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
15
Nhìn chung, hoạt động của các QTCNNS
đều không vì mục đích lợi nhuận, một số quỹ
được sử dụng tiền nhàn rỗi để đầu tư theo
nguyên tắc bảo toàn và tăng trưởng quỹ, quỹ có
tư cách pháp nhân, mở tài khoản tại Kho bạc
Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại.
2.2. Nguồn vốn và cơ chế và tình hình tài chính
của các quỹ tài chính Nhà nước
a, Về nguồn vốn
Nguồn vốn hoạt động của các QTCNNS
khá đa dạng, phong phú và tùy thuộc vào tính
chất hoạt động, bao gồm:
Một là, vốn từ nguồn NSNN. Cụ thể:
(i) Quỹ được cấp để hình thành vốn điều lệ
(bảng 2.2.); (ii) Quỹ được cấp bổ sung kinh phí
trong quá trình hoạt động (Quỹ BHXH để chi
lương hưu và trợ cấp BHXH cho đối tượng
được hưởng trước 01/01/1995, Quỹ Bảo hiểm y
tế đóng BHYT để đảm bảo chi trả cho các đối
tượng được NSNN đảm bảo 100% mức đóng và
đối tượng được hỗ trợ một phần, Quỹ Bảo hiểm
thất nghiệp để duy trì số dư hằng năm bằng 2
lần tổng các khoản chi các chế độ BHTN và chi
phí quản lý BHTN, Quỹ Phát triển khoa học
công nghệ quốc gia để tài trợ các dự án, đề tài
khoa học, Quỹ bảo vệ môi trường để chi hỗ trợ
các các dự án, nhiệm vụ hoạt động phòng,
chống, khắc phục ô nhiễm và sự cố môi trường,
chi trợ giá điện gió,...; Quỹ Bảo hộ công dân và
pháp nhân ở nước ngoài thực hiện tạm ứng
trong trường hợp khẩn cấp khi công dân ở nước
ngoài tạm thời không có năng lực về tài chính,
Quỹ Bảo trợ trẻ em để chi cho hỗ trợ cho các
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,..., Quỹ
Hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật chi hỗ trợ các tài năng
sáng tạo kỹ thuật trong việc phát huy sáng kiến
và NCKH) và (iii) Quỹ được NSNN cấp vốn
một lần hỗ trợ ban đầu khi thành lập (Quỹ Hỗ
trợ người nhiễm HIV/AIDS, Quỹ Bảo vệ và
phát triển rừng Việt Nam, Quỹ Hỗ trợ các hoạt
động ngoại giao phục vụ kinh tế, Quỹ Hỗ trợ
vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài) (Bảng 2).
Từ năm ngân sách 2017, ngoại trừ các quỹ
được NSNN cấp kinh phí để thực hiện nghĩa vụ
của Nhà nước còn lại các quỹ đang nhận hỗ trợ
kinh phí hoạt động đều phải thực hiện rà soát lại
nguồn thu, nhiệm vụ chi theo đúng quy định
của Luật Ngân sách nhà nước (2015). Trường
hợp, hỗ trợ vốn điều lệ cho các quỹ cần phải
xem xét khả năng đáp ứng của NSNN và các
điều kiện như: quỹ được thành lập và hoạt động
phải đúng quy định của pháp luật, có khả năng
tài chính độc lập, có nguồn thu, nhiệm vụ chi
không trùng với nguồn thu, nhiệm vụ chi của
NSNN. Đồng thời, theo Luật Ngân sách nhà
nước (2015) sẽ hướng tới về cơ bản NSNN sẽ
không hỗ trợ các quỹ (hiện nay Quỹ hỗ trợ sắp
xếp và phát triển doanh nghiệp, Quỹ bình ổn
giá xăng dầu, Quỹ tích lũy trả nợ,... đã không
được NSNN cấp bổ sung vốn điều lệ, cũng như
kinh phí trong quá trình hoạt động).
Bảng 2. Quỹ TCNN được cấp kinh phí
bổ sung vốn điều lệ
Đơn vị: tỷ đồng
Tên quỹ
Kinh
phí
1. Phát triển KHCN quốc gia 500*
2. Đổi mới công nghệ quốc gia 804
3. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 837
4. Bảo vệ môi trường Việt Nam 733.8
5. Hỗ trợ nông dân trung ương 640
6. Hỗ trợ phát triển hợp tác xã 100
7. Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam 100
8. Hỗ trợ phụ nữ nghèo 90
* Hàng năm NSNN cấp bổ sung để bảo đảm mức
vốn tối thiểu 500 tỷ đồng, nếu tính cả số cấp bổ sung
hàng năm thì đến hết năm 2017 tổng số
cấp cho quỹ là 1.796 tỷ đồng).
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của Bộ Tài chính [3].
Hai là, vốn từ nguồn thu cụ thể của các
QTCNNS theo quy định như: Quỹ Dịch vụ viễn
thông công ích có nguồn thu từ đóng góp bắt
buộc của doanh nghiệp viễn thông theo tỷ lệ
phần trăm trên doanh thu, Quỹ Phòng chống tác
hại thuốc lá có nguồn thu từ đóng góp theo tỷ lệ
phần trăm giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt từ các
cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc lá, Quỹ Bảo vệ
và phát triển rừng có nguồn thu từ dịch vụ môi
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
16
trường rừng; Quỹ BHXH, Quỹ BHYT, Quỹ
BHTN có nguồn thu từ đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động tham gia bảo
hiểm,...
Ba là, vốn từ hoạt động nghiệp vụ của quỹ
được cơ quan thẩm quyền cho phép trong
quyết định thành lập bao gồm: lãi cho vay đầu
tư; tiền từ huy động, đóng góp, tài trợ từ các tổ
chức, cá nhân; vốn ủy thác và các nguồn thu
hợp pháp khác theo các quy định của pháp luật.
b. Về cơ chế quản lý tài chính
Trong cơ chế quản lý tài chính, một số quỹ
thực hiện áp dụng cơ chế giống đơn vị sự
nghiệp công lập có thu như: Quỹ Đổi mới công
nghệ quốc gia [4], Quỹ Phát triển KHCN quốc
gia, Quỹ Bảo trợ trẻ Em Việt Nam, Quỹ Dịch
vụ viễn thống công ích, Quỹ Bảo vệ và phát
triển rừng Việt Nam,... Một số quỹ lại áp dụng
cơ chế như đối với doanh nghiệp nhà nước như:
Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Quỹ
hỗ trợ phát triển hợp tác xã Việt Nam. Đồng
thời, các quỹ này cũng áp dụng chế độ tiền
lương tương ứng theo đơn vị sự nghiệp công
lập, doanh nghiệp nhà nước và cán bộ quản lý
quỹ nếu là công chức kiêm nhiệm thì được
hưởng chế độ phụ cấp kiêm nhiệm (riêng đối
với Bảo hiểm xã hội Việt Nam chế độ lương
thực hiện theo Nghị quyết số
528/2018/UBTVQH14, ngày 26/5/2018 QĐ số
15/2016/QĐ-TTg, ngày 5/4/2016).
c. Về tình hình tài chính
Hoạt động báo cáo tài chính của các
QTCNNS được thực hiện hàng năm theo đúng
quy định của Luật NSNN (2015) và các văn bản
pháp luật có liên quan, đặc biệt là Quyết định số
192/2004/QĐ-TTg, ngày 26/11/2004 và Chỉ thị
số 22/CT-TTg ngày 27/8/2015. Trong từng
trường hợp cụ thể, một số quỹ phải được tiến
hành kiểm toán theo quy định của Thủ tướng
Chính phủ. Theo đánh giá, hầu hết các
QTCNNS cấp trung ương đã thực hiện thu, chi
theo đúng quy định và bám sát kế hoạch tài
chính được cấp có thẩm quyền phê duyệt; đồng
thời cũng đã có sự tăng cường kiểm tra, kiểm
soát để nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ.
- Đối với các quỹ do trung ương quản lý.
Tổng số thu các quỹ như sau: năm 2017:
536.200 tỷ đồng, trong đó dành 88.200 tỷ
NSNN cấp và hỗ trợ chủ yếu cho Quỹ BHXH:
46.000 tỷ, Quỹ BHYT: 34.100 tỷ, Quỹ
BTĐBTW: 7.700 tỷ); Tương ứng năm 2018
thu: 495.200 tỷ, cấp và hỗ trợ: 98.700 tỷ (Quỹ
BHXH: 54.000 tỷ, Quỹ BHYT: 35.700 tỷ, Quỹ
BTĐBTW: 8.300 tỷ và theo kế hoạch năm 2019
thu: 502.100 tỷ, dự kiến cấp và hỗ trợ: 100.000
tỷ (Quỹ BHXH: 57.100 tỷ, Quỹ BHYT: 38.700
tỷ, Quỹ BTĐBTW 3.800 tỷ). Còn Tổng chi các
quỹ: Năm 2017: 373.800 tỷ; năm 2018: 411.900
tỷ; 2019 (dự kiến): 434.100 tỷ.
Tính đến đầu năm 2017 tổng số dư của các
quỹ là khoảng 594.200 tỷ đồng (trong đó
khoảng 559.100 tỷ đồng, chiếm 94,1% là do
Quỹ BHXH, Quỹ BHYT và Quỹ BHTN quản
lý). Và số kết dư của các QTCNNS đạt như sau:
cuối năm 2017: khoảng 756.600 tỷ đồng (3 quỹ
BH: 646.000 tỷ, chiếm 85,4%). Cối năm 2018
khoảng: 839.300 tỷ (3 quỹ BH là 755.500 tỷ,
chiếm 90%) và dự kiến cuối năm 2019 đạt
khoảng 907.000 tỷ (3 quỹ BH là 865.100 tỷ
đồng, chiếm 95,4%). Sau 3 năm, quy mô số dư
các quỹ dự kiến tăng khoảng 52,7% so
với 2017.
Bảng 3. Số liệu tài chính của QTCNNS do Trung
ương quản lý giai đoạn 20017 - 2019
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Tổng thu Tổng chi Chênh lệch
2017 536.200 373.800 162.400
2018 495.200 411.900 83.300
2019
(KH/DK)
≈ 502.100 434.100 68.000
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của Bộ Tài chính [3].
- Đối với quỹ do địa phương quản lý
Theo số liệu của 41 địa phương thì tổng số
dư các QTCNNS giai đoạn 2013 - 2018 tương
ứng là: 8.074 tỷ; 9.862 tỷ; 13.569 tỷ; 14.880 tỷ;
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
17
17.198 tỷ; 18.268 tỷ. Trong đó 5 quỹ có quy mô
lớn, chiếm khoảng 85% tổng số dư là: Quỹ Phát
triển đất (27 quỹ với số dư chiếm khoảng 33%
QTCNNS địa phương); Quỹ Đầu tư phát triển
(23 quỹ với số dư khoảng 30%); Quỹ Bảo vệ
môi trường (30 quỹ với số dư khoảng 8%); Quỹ
Phát triển nhà ở (có 04 địa phương là: Thừa
Thiên Huế, Bình Dương, Lâm Đồng, Bà Rịa -
Vũng Tàu với số dư chiếm khoảng 6%) và Quỹ
Bảo vệ và phát triển rừng (25 quỹ với số dư
khoảng 6%. Các quỹ tài chính khác có số dư từ
2013-2018 tương ứng là 1.267 tỷ; 1.447 tỷ;
1.650 tỷ; 2.174 tỷ; 2.600 tỷ và 2.862 tỷ đồng
(chiếm khoảng 15% tổng số dư các QTCNNS
địa phương).
Bảng 4. Số dư của một số Quỹ do địa phương quản lý giai đoạn 2013 - 2018
Đơn vị: tỷ đồng
Tên quỹ 2013 2014 2015 2016 2017 2018
1. Quỹ Phát triển đất 2.624 3.427 4.583 4.948 5.651 5.896
2. Quỹ đầu tư phát triển 2.393 2.651 4.447 4.615 5.593 5.330
3. Quỹ bảo vệ môi trường 803 1.049 1.251 1.452 1.592 1.900
4. Quỹ phát triển nhà ở 495 633 734 928 918 1.004
5. Quỹ bảo vệ và phát triển rừng 491 656 904 762 843 1.277
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của Bộ Tài chính [3].
3. Một số đánh giá về các quỹ tài chính Nhà
nước ở Việt Nam hiện nay
3.1. Một số kết quả đạt được
Một là, đã xây dựng được hệ thống pháp
luật tương đối đầy đủ cho việc thành lập và hoạt
động của các QTCNNS bảo đảm nguyên tắc, cơ
chế trong quản lý và sử dụng quỹ. Đi cùng với
đó là những quy định về thanh tra, kiểm tra,
giám sát các hoạt động góp phần nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của các QTCNNS,
bảo đảm nguồn lực của Nhà nước được quản lý,
sử dụng hiệu quả, công khai và minh bạch [4].
Hai là, hoạt động của các QTCNNS thời
gian qua cơ bản đáp ứng được yêu cầu đúng với
chủ trương của Đảng và Nhà nước khi quyết
định thành lập các QTCNNS là huy động thêm
nguồn lực tài chính trong xã hội để thực hiện
những mục tiêu phát triển KT-XH, góp phần
ứng phó kịp thời với những tình huống cấp
bách xảy ra, giảm bớt gánh nặng cho NSNN.
Ba là, góp phần phát triển, mở rộng đa dạng
các hoạt động tài chính Nhà nước, thúc đẩy sự
phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ
qua các hoạt động đầu tư của một số QTCNNS
trên các thị trường này.
Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán các QTCNNS đã được quan tâm, góp phần
chấn chỉnh các sai phạm và tăng cường hiệu
quả trong việc quàn lý, sử dụng của một số
Quỹ [5].
4.1. Một số tồn tại cần khắc phục
Thứ nhất, hiện nay vẫn có nhiều các văn
bản đối với các QTCNNS dẫn đến khó khăn
trong công tác quản lý. Các quy phạm pháp luật
còn chồng chéo, chưa phân định rõ ràng chủ thể
quản lý trực tiếp làm giảm chất lượng hoạt động
của các quỹ, giảm khả năng kiểm tra, giám sát
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; còn
thiếu những quy định về trách nhiệm cũng như
các biện pháp xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá
nhân trong quá trình quản lý và sử dụng
quỹ [6].
Thứ hai, còn thiếu một khung pháp lý
chung, thống nhất để điều chỉnh hoạt động và
đặc biệt là quản lý tài chính các QTCNNS dẫn
đến việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát gặp
nhiều khó khăn, làm giảm kỷ cương, kỷ luật tài
chính do hoạt động thu, chi của quỹ không
được kiểm soát chặt chẽ như các nhiệm vụ chi
của NSNN dẫn đến khả năng dễ vi phạm quy
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
18
định về chế độ sử dụng kinh phí sai (ví dụ như
theo quy định của pháp luật, việc thực hiện cơ
chế chi trả NSNN chịu sự kiểm soát hệ thống
Kho bạc nhà nước. Tuy nhiên, đối với các
QTCNNS sẽ không chịu sự điều chỉnh bởi quy
định này).
Thứ ba, như đã đề cập ở trên, thời gian qua
số lượng QTCNNS tăng khá nhanh dẫn đến một
quỹ còn trùng lặp nguồn thu, nhiệm vụ chi với
NSNN, một số quỹ còn trùng lặp cả về mục
tiêu, nguồn thu, nhiệm vụ chi và đối tượng phục
vụ (Quỹ đầu tư phát triển địa phương và Quỹ
phát triển nhà địa phương chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ, Quỹ phòng chống thiên tai và
Quỹ phòng chống lụt bão có cùng mục tiêu là
khắc phục thiên tai lụt bão trên địa bàn hay các
Quỹ hỗ trợ nông dân, Quỹ hỗ trợ phát triển hợp
tác xã, có cùng đối tượng phục vụ là người
nông dân,... [3]). Tại các địa phương với số
lượng các QTCNNS nhiều cũng làm phát sinh
chi phí quản lý và tổ chức biên chế.
Thứ tư, nguồn tài chính hình thành một số
QTCNNS chưa đảm bảo hoạt động độc lập với
NSNN theo quy định, việc huy động của một số
quỹ còn hạn chế, nguồn vốn hoạt động của một
số quỹ chủ yếu do NSNN đảm bảo hoặc có
nguồn gốc từ NSNN, dư nguồn lớn tại nhiều
quỹ, quy định về tỷ lệ thu, mức thu và chi thực
hiện nhiệm vụ ở một số QTCNNS còn chưa
hợp lý [5].
Thứ năm, hầu hết thành viên hội đồng quản
lý các QTCNNS là kiêm nhiệm dẫn đến hiệu
quả hoạt động còn thấp. Bên cạnh đó, công tác
kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động
của các quỹ chưa được quan tâm đúng mức dẫn
đến tính công khai minh bạch chưa đảm bảo
đúng yêu cầu đề ra.
5. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế,
chính sách quản lý các quỹ tài chính Nhà
nước Việt Nam thời gian tới
Từ những phân tích, đánh giá về thực trạng
quản lý, hoạt động QTCNNS ở trên cũng như
dựa trên báo cáo của Bộ tài chính 2019 [3] và
Nghị quyết số 792/NQ-UBTVQH14, ngày
22/10/2019 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
xin đưa ra gợi ý đề xuất giải pháp về chính sách
đối vối một số QTCNNS như sau:
5.1. Nhóm giải pháp chung
Một là, cần triển khai rà soát các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan, từ đó đề xuất
sửa đổi, bổ sung, xây dựng và ban hành một
khung pháp luật thống nhất để điều chỉnh hoạt
động các QTCNNS bảo đảm nguyên tắc công
khai, minh bạch, rõ thẩm quyền, trách nhiệm,
chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân
được giao quản lý các QTCNNS phù hợp với
điều kiện thực tế và đúng với quy định của luật
pháp Việt Nam.
Hai là, tăng cường vai trò giám sát đối với
việc chấp hành các quy định pháp luật về quản lý,
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và giám sát hoạt
động các QTCNNS. Nghiên cứu kiện toàn bộ
máy, nâng cao năng lực đội ngũ để đảm bảo
quản lý, sử dụng nguồn lực hiệu quả, công khai,
minh bạch, giảm thất thoát, lãng phí và tiêu cực tại
các QTCNNS từ trung ương đến địa phương.
Ba là, thực hiện rà soát, đánh giá hiệu quả
hoạt động của QTCNNS, đặc biệt là các quỹ
không có khả năng tự cân đối hoặc các quỹ có
sự trùng lắp về mục tiêu, đối tượng phục vụ hay
nguồn thu, nhiệm vụ chi trùng với nhiệm vụ
thu, chi NSNN để tiến hành cơ cấu lại, sáp nhập
hay dừng hoạt động hoặc giải thể nhằm giảm
đầu mối, tập trung nguồn lực và thực hiện tốt
hơn nhiệm vụ đặt ra.
Bốn là, chỉ xem xét thành lập mới các
QTCNNS trong trường hợp thật sự cần thiết và
phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của
Luật NSNN là hoạt động độc lập với NSNN, có
khả năng tự cân đối tài chính và nguồn thu,
nhiệm vụ chi không trùng với NSNN.
Năm là, tiếp tục sử lý, chấn chỉnh các sai
phạm và khẩn trương khắc phục các tồn tại, hạn
chế thời gian qua và xử lý trách nhiệm của tập
thể, cá nhân để xảy ra vi phạm làm thất thoát,
sử dụng kém hiệm quả nguồn lực nhà nước tại
các QTCNNS [5].
5.2. Đề xuất điều chỉnh, sửa đổi chính sách
quản lý một số quỹ tài chính Nhà nước
- Đối với Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam
do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý [7].
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
19
Quỹ có nguồn thu lệ phí từ bán Chứng chỉ giảm
phát thải khí nhà kính mà theo quy định của
Luật Phí, lệ phí thì đây là khoản thu của NSNN.
Cùng với đó, hằng năm NSNN vẫn bố trí kinh
phí sự nghiệp môi trường cho quỹ để chi các
nhiệm vụ trợ giá trong đó có các hoạt động
phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và
sự cố môi trường là chưa phù hợp với quy định
của Luật NSNN. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi
các văn bản pháp quy theo hướng chuyển vào
cân đối NSNN đối với các nguồn thu, nhiệm vụ
chi của quỹ trùng với nguồn thu, nhiệm vụ chi
của NSNN.
- Đối với Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia
do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý. Quỹ
chưa có khả năng tài chính độc lập do hằng năm
được NSNN vẫn cấp bổ sung vốn điều lệ để chi
hoạt động thường xuyên. Trong khi đó, theo
quy định [4]: Quỹ phải áp dụng cơ chế tài chính
giống NHPTVN nhưng trên thực tế quỹ đang
đang hoạt động theo mô hình là đơn vị sự
nghiệp. Vì vậy cần sửa đổi, bổ sung điều lệ tổ
chức và hoạt động và nghiên cứu chuyển đổi
mô hình hoạt động theo mô hình QTCNNS đảm
bảo cân đối thu, chi và việc cấp bổ sung vốn
điều lệ phải theo đúng quy định của
Luật NSNN.
- Đối với Quỹ Phát triển khoa học công
nghệ quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ
quản lý [8]. Nhiệm vụ chi trùng lặp với nhiệm
vụ chi của NSNN cho các chương trình KHCN
quốc gia. Hoạt động của Quỹ giống đơn vị sự
nghiệp (hoạt động quỹ hoàn toàn phụ thuộc vào
nguồn kinh phí NSNN cấp, 90% hoạt động hỗ
trợ, tài trợ là không hoàn lại) là chưa phù hợp
với khái niệm QTCNNS. Do vậy, cần xác định
rõ mô hình tổ chức và quản lý Quỹ theo mô
hình tổ chức KHCN công lập (Nghị định số
16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 và Nghị định
số 54/2017/NĐ-CP, ngày 14/6/2017) và đồng
thời nghiên cứu sửa đổi, cho hoạt động của Quỹ
đúng với Luật NSNN.
- Đối với Quỹ phòng chống tác hại thuốc lá
do Bộ Y tế quản lý [9]. Mặc dù nguồn thu của
quỹ không trùng với NSNN, nhưng khoản thu
chính của quỹ lại dựa trên giá tính thuế tiêu thụ
đặc biệt từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc
lá, cùng với đó hầu hết các nhiệm vụ chi trùng
với nhiệm vụ chi của NSNN và có một số
nhiệm vụ chi của quỹ có thể giao cho các đơn
vị thuộc Bộ Y tế thực hiện. Vì vậy, cần nghiên
cứu, điều chỉnh các quy định liên quan đến
nguồn thu, nhiệm vụ chi của Quỹ phù hợp với
thực tế và quy định của Luật NSNN và pháp
luật về thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Đối với Quỹ bảo vệ và phát triển rừng do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản
lý [10]. Nguồn thu của Quỹ cấp tỉnh từ tiền
trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử
dụng rừng sang mục đích khác, có tính chất
giống với thu tiền sử dụng đất khi chuyển đổi
mục đích sử dụng đất phải nộp NSNN; nhiệm
vụ chi trồng rừng và một số nhiệm vụ chi khác
đang sử dụng nguồn tài chính của QTCNNS
trùng với nhiệm vụ chi của NSNN. Do vậy, cần
thực hiện xem xét chuyển các nguồn thu này
vào trong cân đối NSNN, nghiên cứu loại bỏ
các nhiệm vụ chi trùng lặp với nhiệm vụ chi của
NSNN để đảm bảo các nhiệm vụ chi do quỹ
thực hiện là độc lập với NSNN.
Lời cảm ơn
Bài viết nằm trong nghiên cứu của Đề tài
KHCN cấp Quốc gia mã số: ĐTĐL.XH-04/19
và KX01.27/16-20.
Tài liệu tham khảo
[1] Institute of Financial Strategy and Policy,
Off-budget funds: Literature review, Cases in
several countries and recommendations dated
29/09/2017.
https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/k/o/k
hhd/khhd_chitiet?dDocName=MOFUCM115058&d
ID=120134&_afrLoop=60047817355168852/, 2017
(accessed 01 November 2019).
[2] Tran Vu Hai, Nguyen Thi Hong Nhung,
Off-budget funds: Current situation and solutions
dated 01/07/2013.
[3] Ministry of Finance, Assessment of the situation,
operational efficiency and solutions to improve
the mechanism of management of state off-budget
funds dated 25/3/2019.
[4] Ministry of Science and Technology (2014), Joint
Circular No. 120/2014/TTLT-BTC-BKHCN
H.X. Hoa, T.M. Van / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 11-20
20
dated 25/9/2017 of the Ministry of Finance,
Ministry of Agriculture and Rural Development
(2008), Decision No. 114/2008 /QD - BNN dated
28/11/2008.
[5] National Assembly (2019), Resolution
No.792/NQ-UBTVQH14 dated 22/10/2019.
[6] Do Quang Minh, The legal framework for State
off-budget funds in Vietnam - Situation and
solutions dated 29/6/2017. (Legislative Scientific
Information Bulletin, Scientific Research Center,
Legislative Research Institute, 2017.
[7] The Prime Minister, Decision No. 82/2002/QĐ-
TTg dated 26/6/2002.
[8] The Government, Decree No. 122/2003 / ND-CP
dated 22/10/2003.
[9] The Prime Minister, Decision No. 47/2013/QĐ-TTg
dated 29/7/2013.
[10] Ministry of Agriculture and Rural Development,
the fund was established under Decision
No. 114/2008/QĐ - BNN dated 28/11/2008.
P
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_chinh_sach_quan_ly_quy_tai_chinh_nha_nuoc_n.pdf