5.1. Kết luận
Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam định hướng xây dựng hệ thống an sinh xã hội
toàn diện, đa dạng, đa tầng và linh hoạt, hiện đại và hội nhập quốc tế đảm bảo công
bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Hiện nay hệ thống an sinh xã hội đã được định
hình và phát triển với bốn trụ cột an sinh xã hội là tạo lao động, việc làm, thu nhập; bảo
hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu. Hệ
thống an sinh xã hội theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp là hệ thống các chương trình, chính
sách an sinh xã hội đã được ban hành và thực hiện đạt nhiều thành tựu nhất định như
giảm nghèo, tăng thu nhập, tăng mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội, mở rộng cơ hội
và nâng cao chất lượng bảo trợ xã hội và các dịch vụ xã hội cơ bản. Chương trình mục
tiêu quốc xây dựng nông thôn đã góp phần trực tiếp đảm bảo giảm nghèo và an sinh xã
hội đối với người dân và cộng đồng dân cư ở nông thôn. Kết quả thực hiện xây dựng
NTM là cơ sở để tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống an sinh xã hội ở nông thôn.
Tuy nhiên, một số vấn đề hệ thống của an sinh xã hội có thể cần tính đến để có
giải pháp phù hợp và hiệu quả. Đó là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới có cả một nội dung thành phần “giảm nghèo và an sinh xã hội” nhưng lại do
Bộ Lao động, thương binh và xã hội chủ trì thực hiện. Đồng thời, nhiều yếu tố của hệ
thống an sinh xã hội nằm rải rác trong các mục tiêu, nội dung và tiêu chí xây dựng nông
thôn mới và do các bộ ngành khác chủ trì thực hiện. Trong khi đó, trụ cột bảo hiểm xã
hội và trụ cột bảo trợ xã hội rất ít thậm chí khó tìm thấy trong mục tiêu, nội dung và tiêu
chí xây dựng nông thôn mới. Hệ thống an sinh xã hội nông thôn mới được xây dựng có
hiệu quả như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức, đánh giá thực trạng và những
vấn đề đặt ra trong xây dựng nông thôn mới.
5.2. Khuyến nghị
Từ những điều trình bày trên, có thể khuyến nghị ưu tiên nghiên cứu cơ sở lý luận
và đề xuất giải pháp thực tiễn xây dựng có hiệu quả hệ thống an sinh xã hội nông thôn
mới. Cụ thể là nghiên cứu tổng kết và đề xuất giải pháp xây dựng các mô hình xây dựng
nông thôn mới gắn với xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đa dạng, đa tầng,
linh hoạt, mang tính chia sẻ, công bằng và bền vững ở cấp xã. Nghiên cứu xây dựng bộ
tài liệu hướng dẫn thực hiện các mục tiêu, nội dung, tiêu chí của hệ thống an sinh xã hội
trong xây dựng nông thôn mới. Mọi sự thành bại, tốt xấu do do công tác cán bộ, do vậy
rất có thể cần phải nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao năng lực chủ trì, hướng dẫn,
phối hợp và thực hiện các mục tiêu, nội dung và tiêu chi về an sinh xã hội trong xây
dựng nông thôn mới. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hệ thống
an sinh xã hội trong xây dựng nông thôn mới để làm căn cứ đánh giá, kiểm tra, giám sát
từ đó đề xuất giải pháp kịp thời có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và
tính bền vững của các kết quả xây dựng nông thôn mới.
Một khuyến nghị khác bắt nguồn từ những phát hiện đã nêu ở trên. Đó là vấn đề
mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội đến các đối tượng trong đó có người dân ở
nông thôn. Do đó, rất có thể cần nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp để Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới có thể trực tiếp góp phần thực hiện cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về hệ thống an sinh xã hội nông thôn mới: Thực trạng, định hướng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI NÔNG THÔN MỚI:
THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
GS.TS Lê Ngọc Hùng34
1. HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI: MỤC TIÊU, THÀNH PHẦN, CẤU TRÚC
Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam chủ trương xây dựng hệ thống an sinh xã hội
toàn diện, đa dạng, linh hoạt với các trụ cột thành phần nhằm những mục tiêu nhất định,
cụ thể như sau:
(i) Tạo việc làm, thu nhập và giảm nghèo với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020,
tỉ lệ thất nghiệp chung dưới 3%, tỉ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%; thu nhập bình quân
đầu người của hộ nghèo tăng trên 3,5 lần so với năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm
1,5 - 2%/năm; các huyện, xã có tỉ lệ nghèo cao giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng
giai đoạn.
(ii) Bảo hiểm xã hội: năm 2012 xác định mục tiêu đến năm 2020 có khoảng 50%
lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, 35% lực lượng lao động tham gia bảo
hiểm thất nghiệp.
(iii) Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Phấn đấu
đến năm 2020 có khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên,
trong đó trên 30% là người cao tuổi.
(iv) Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người
dân: đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu
số. Trụ cột này có 5 cấu phần với một số mục tiêu cụ thể là:
Bảo đảm giáo dục tối thiểu: xây dựng đề án phổ cập mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi,
phấn đấu đến năm 2020 có 99% trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học, 95% ở bậc
trung học cơ sở, 98% người trong độ tuổi từ 15 trở lên biết chữ, trên 70% lao động qua
đào tạo.
Bảo đảm y tế tối thiểu: Đến năm 2020, trên 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng
đầy đủ; tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân 10%. Đến năm 2020 trên
80% dân số tham gia bảo hiểm y tế.
Bảo đảm nhà ở tối thiểu: Cải thiện điều kiện nhà ở cho người nghèo,
Bảo đảm nước sạch: Đến năm 2020, 100% dân cư nông thôn được sử dụng nước
sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 70% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Bảo đảm thông tin: Tăng cường thông tin truyền thông đến người dân nghèo,
vùng nghèo, vùng khó khăn. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia đưa
thông tin về cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.
2. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
Theo nghĩa hẹp, từ góc độ chi ngân sách nhà nước, chính sách an sinh xã hội chỉ
bao gồm các khoản trợ cấp bằng tiền, lương hưu, trợ cấp và khoản khác cho những người
có công và những người trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. An sinh xã hội theo nghĩa
hẹp chỉ bao gồm các khoản trợ cấp bằng tiền, lương hưu và trợ cấp đã tăng về giá trị
34 Đại học quốc gia Hà Nội
56
tuyệt đối tính theo giá hiện hành và tăng tỉ trọng trong GDP và tổng chi thường xuyên.
Tuy nhiên, trong tổng chi xã hội, khoản chi cho an sinh xã hội với tỉ trọng 31,3% năm
2004, chiếm vị trí thứ hai sau chi giáo dục và đào tạo, đã giảm xuống còn gần 30% năm
2012. Ở vị trí thứ ba là chi y tế, tăng từ gần 11,0% lên gần 17,0% trong cùng thời kỳ
này. Tỉ trọng chi an sinh xã hội trong GDP tăng từ 2,2% năm 2004 lên 3,0% năm 2012,
đồng thời tỉ trọng chi an sinh xã hội trong tổng chi thường xuyên cũng tăng từ 9,2% lên
11,4% năm 2004-2012.
Theo nghĩa rộng, từ góc độ chi ngân sách nhà nước, chính sách an sinh xã hội
theo nghĩa rộng bao gồm an sinh xã hội theo nghĩa hẹp, các chương trình giảm nghèo,
các chương trình điều tiết thị trường lao động và các chương trình khác. Theo nghĩa
rộng, an sinh xã hội bao gồm chín hợp phần chính sách, cụ thể như sau: (i) Các chương
trình giảm nghèo (Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình
135 và Chương trình 30a) và chính sách giảm nghèo (trừ hỗ trợ giáo dục và bảo hiểm y
tế; (ii) Các chương trình điều tiết thị trường lao động (dạy nghề, xuất khẩu lao động và
việc làm); (iii) Bảo hiểm xã hội và thất nghiệp (ngân sách chi trả lương hưu cho người
nghỉ hưu trước 1995 và hỗ trợ bảo hiểm tự nguyện; (iv) Hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế;
(v) Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo; (vi) Hỗ trợ giáo dục (miễn giảm học phí, học bổng,
hỗ trợ học nội trú và ăn trưa); (vii) Chăm sóc xã hội; (viii) Trợ giúp đột xuất; (ix) Trợ
giúp xã hội (hỗ trợ tiền mặt hàng tháng theo Nghị định 67, 13, 136).
Tổng chi tiêu ngân sách nhà nước cho tất cả chín loại chương trình an sinh xã hội
theo nghĩa rộng này đã tăng từ 2.6% GDP năm 2008 lên tới mức cao nhất là 3.36% GDP
năm 2010 và sau đó đã giảm xuống còn 2.8% GDP năm 2013. Nếu tính cả chi tiêu 1.07%
GDP cho chính sách đối với người có công thì mức chi cho an sinh xã hội theo nghĩa
rộng là 3.87% GDP năm 2013. So với các nước trong khu vực, mức chi ngân sách cho
an sinh xã hội của Việt Nam thuộc loại thấp. Trên thực tế, theo nghĩa hẹp, cấu trúc tổng
chi an sinh xã hội của Việt Nam bao gồm bốn khoản lần lượt như sau:
(i) Các khoản trợ cấp bằng tiền gồm phúc lợi trợ cấp bằng tiền hàng tháng, trợ
cấp đột xuất trong trường hợp thảm họa thiên tai; trợ cấp cho người có thu nhập thấp;
trợ cấp tiền điện (kể từ năm 2011); (ii) Phúc lợi bảo hiểm xã hội bao gồm lương hưu
trong đó có lương hưu cho những người nghỉ hưu trước tháng 7 năm 1995 (do ngân sách
nhà nước chi trả) và lương hưu cho những người nghỉ hưu sau tháng năm 1995 (do Bảo
hiểm Việt Nam chi trả); (iii) Trợ cấp cho người có công với cách mạng; (iv) Miễn phí
thủy lợi: đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp do Bảo hiểm Việt Nam quản lý (kể từ
năm 2009), hỗ trợ công chức làm việc tại các vùng khó khăn (kể từ năm 2011), hỗ trợ
xây dựng công trình ngăn lũ, tái định cư cá nhóm đồng bào dân tộc thiểu số (kể từ năm
2009); hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn (kể từ
2009); trợ cấp cho các xã biên giới với Lào và Cămpuchia (kể từ 2009); hỗ trợ xây dựng
nông thôn mới (kể từ 2010), hỗ trợ sản xuất, nuôi trồng thủy sản ở hải đảo (kể từ 2010).
Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay, định nghĩa hẹp về an sinh xã hội cũng cũng có
xu hướng mở rộng bao gồm cả hợp phần chương trình giảm nghèo, hợp phần hỗ trợ xây
dựng cơ sở hạ tầng và “hỗ trợ xây dựng nông thôn mới”. Tổng chi an sinh xã hội theo
nghĩa hẹp này chiếm 4,0% GDP và hầu như không thay đổi trong giai đoạn 2007 – 2011.
Trong tổng chi an sinh xã hội, khoản chi “phúc lợi bảo hiểm xã hội gồm lương hưu”
chiếm quá nửa với tỉ trọng 2,7% vào năm 2007 sau đó giảm xuống còn 2,3% năm 2011;
khoản chi trợ cấp cho người có công giảm từ 1,0% xuống còn 0,9%; trong khi đó các
khoản trợ cấp bằng tiền chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng đã tăng gấp đôi từ 0,2% lên 0,5% và
57
các khoản chi khác gồm các chương trình giảm nghèo tăng gấp ba: từ 0,1% lên 0,3%
trong giai đoạn 2007-2011.
Cần đặc biệt lưu ý là việc thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được ghi nhận là một nội dung hàng đầu, nội
dung số 1 của “giảm nghèo và an sinh xã hội” trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới năm 2016-2020.
3. MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI
3.1. Tạo việc làm, thu nhập và giảm nghèo
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2018 ước
tính 54,3 triệu người, tăng 579,7 nghìn người so với năm 2017. Tỷ lệ thất nghiệp
chung của cả nước năm 2018 là 2.0%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%; khu vực
nông thôn là 1,55%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 1,46%,
trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,69%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực
nông thôn là 1,85%.
Năm 2018, thu nhập bình quân một người một tháng ước tính đạt 3,76 triệu
đồng (tăng 660 nghìn đồng so với năm 2016), bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng
10,2%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính là 6,8%, giảm
1,1 điểm phần trăm so với năm 2017.
3.2. Bảo hiểm xã hội
Năm 2018, số người tham gia bảo hiểm xã hội là 14,724 triệu người, chiếm
khoảng 30,4% lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó có 271.000 người tham gia
bảo hiểm xã hội tự nguyện. Số người tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh đạt 88,5% dân
số (tương ứng với 83,515 triệu người), vượt 3,3% so với chỉ tiêu được giao. Trong năm
2018, giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho gần 10,7 triệu lượt
người; thanh toán chi phí khám chữa bệnh bỏa hiểm y tế cho trên 177,6 triệu lượt người;
phối hợp giải quyết cho 768.739 người hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Năm 2019
là năm khởi đầu cho việc thực hiện Nghị quyết số 28/2018-NQ/TW về cải cách chính
sách bảo hiểm xã hội.
3.3. Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Đến đầu năm 2019, Chính phủ đã hỗ trợ trên 5.7 triệu tấn gạo cứu đói cho 42.756
hộ, 194.220 nhân khẩu bị ảnh hưởng bởi thiên tai năm 2018. Về trợ cấp xã hội hàng
tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội, đến nay cả nước đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng
tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 2.863.318 người, trong đó: 42.734 trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt; 1.634.367 người cao tuổi; 1.012.623 người khuyết tật đang hưởng trợ cấp
và 172.844 đối tượng khác. Tuy nhiên, hiện cả nước còn 4,6 % là người già chưa có
BHYT. Rất ít người khuyết tập (2,3% trong tổng số 6.2 triệu người khuyết tật, chiếm
7% tổng dân số) tiếp cận được với dịch vụ phục hồi chức năng khi bị ốm hoặc bị thương.
3.4. Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân
Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Năm 2016, ở nông thôn, tỉ lệ trẻ em thiếu hụt giáo
dục là trên 11%, và thiếu hụt về vui chơi, giải trí là trên 72%. Đến năm 2017 Việt Nam
đã đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Năm 2017, tỉ lệ đi học đúng tuổi
tiểu học đạt 98%, trung học cơ sở 91.7% và trung học phổ thông đạt 71.5%, nhiều hơn
hẳn so với năm 2009 với các tỉ lệ tương ứng là 96%, 83% và 57%. Tuy nhiên, tỉ lệ đi
học tiểu học và trung học cơ sở của trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số còn rất thấp so với
58
người Kinh. Đến năm 2018, công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục đạt được kết quả
cao: 100% các đơn vị cấp tỉnh, huyện và 99,9% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ
mức độ 1 và 80,3% đơn vị cấp xã được công nhận đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỉ
lệ biết chữ của dân số 15-35 tuổi đạt 98.87% và trong dân số 15-60 tuổi là 97.57%. Tỷ
lệ người dân tộc thiểu số biết chữ độ tuổi 15-60 là 93,44%. Từ năm 2019, trẻ em mầm
non 5 tuổi ở những vùng đặc biệt khó khăn và học sinh tiểu học trong trường công lập
được miễn học phí; trẻ em mầm non 5 tuổi ở những nơi khác và học sinh trung học cơ
sở được miễn học phí theo lộ trình của Chính phủ.
Bảm đảm y tế tối thiểu: Năm 2016, ở nông thôn, tỉ lệ trẻ em thiếu hụt về y tế là
47%. Năm 2017, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn cao 23,8%
và thể nhẹ cân là 13,4%, đồng thời có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu vực35; tình
trạng thiếu vi chất dinh dưỡng chưa được cải thiện, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi
là 27,8%, ở phụ nữ có thai là 32,8%, ở phụ nữ không có thai là 25,5%; tỷ lệ thiếu kẽm
còn rất cao: ở trẻ em dưới 5 tuổi là 69,4% và phụ nữ có thai còn đặc biệt cao 80,3%;
57,2% số người trưởng thành (18 đến 69 tuổi) ăn ít rau/trái cây (tức là ăn ít hơn 5 suất
rau/trái cây trung bình trong 1 ngày - theo định nghĩa của WHO); mức tiêu thụ muối
hiện nay của người Việt Nam cao gấp 2 lần mức khuyến nghị (theo khuyến nghị WHO
là 5gam muối/người/ngày, tương đương với 8g bột canh, hoặc 25ml nước mắm, hoặc
35ml xì dầu), có đến 28,1% số người thiếu hoạt động thể lực (dưới 150 phút hoạt động
thể lực cường độ trung bình/ 1 tuần hoặc tương đương). Mô hình bệnh tật của người dân
Việt Nam đang chuyển tiếp từ các bệnh lây nhiễm là chủ yếu sang các bệnh không lây
nhiễm, theo ước tính của WHO tại Việt Nam năm 2017 cả nước có trên 541.000 trường
hợp tử vong do tất cả các nguyên nhân, trong đó tử vong do các bệnh không lây nhiễm
chiếm tới 76% (411.600 ca), trong đó đứng đầu là các bệnh tim mạch, đái tháo đường,
ung thư, loãng xương, gout. Đến năm 2018, tỉ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt 87,5%
xa và vượt trước 2 năm so với mục tiêu đề ra (2020 trên 80%). Năm 2018 là năm thứ
hai, Việt Nam đạt tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ tám loại vaccine cho trẻ dưới một tuổi trên
quy mô toàn quốc tăng từ 90% lên 95%.
Bảo đảm nhà ở tối thiểu: Tỉ lệ nhà tạm được giảm mạnh từ 16% năm 2006 xuống
còn 2.6% năm 2016. Tuy nhiên, năm 2016, ở nông thôn tỉ lệ nhà tạm là 3.5% nhiều gấp
5 lần so với tỉ lệ 0.7% ở thành thị. Tỉ lệ nhà tạm ở Đồng bằng sông Hồng là 0.1% nhưng
ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc là 6.1% và ở Đồng bằng sông Cửu Long là 6.8%.
Bảo đảm nước sạch: Năm 2016, có 87,5% dân số được sử dụng nước hợp vệ
sinh; trong đó, gần 49% đạt quy chuẩn Việt Nam. Tỉ lệ hộ gia đình có nước máy riêng,
nước máy công cộng tăng từ 23.5% năm 2006 lên 39.3% năm 2016. Ở thành thị tỉ lệ này
là 77.4% và ở nông thôn là 21.4%; tỉ lệ trẻ em thiếu hụt về nước sạch và vệ sinh là
47.6%.
Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch chưa cao là do các công trình
cấp nước tập trung hoạt động chưa hiệu quả. Trong số 16.342 công trình cấp nước tập
trung hiện nay, chỉ có 33,5% công trình hoạt động bền vững; tỷ lệ hoạt động ở mức
trung bình là 37,8%; kém hiệu quả là 16,7% và 12% công trình ngừng hoạt động.
Đã xuất hiện các mô hình quản lý nước sạch cần được đánh giá, tổng kết và đổi
mới: Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn thuộc Sở NN&PTNT quản
35
ngay-16---23102018.html.
59
lý chiếm 9,8%; doanh nghiệp quản lý chiếm 5,3%; cộng đồng quản lý chiếm 40%;
UBND xã quản lý chiếm 30,3%. Mỗi mô hình có những ưu, nhược điểm khác nhau, tuy
nhiên, mô hình do UBND xã và cộng đồng quản lý đã bộc lộ những hạn chế cần có sự
chuyển đổi cho phù hợp. Nhóm hộ nghèo 20% có tỉ lệ nhà tạm 8.1%. Một số địa phương
có tỉ lệ nhà tạm rất cao như tỉnh Tuyên Quang 16/1% và tỉnh Kiên Giang 16.2%.
Về xử lý rác thải, năm 2016 trên 55% các hộ gia đình Việt Nam có rác thải được
người khác đến lấy đi để xử lý. Tỉ lệ này ở thành thị là 85.6% và ở nông thôn là gần 41%.
Bảo đảm thông tin, trợ giúp pháp lý
Đến năm 2016, ở nông thôn Việt Nam gần 95% các hộ gia đình có ti vi và trên
13% hộ gia đình có máy vi tính. Đây là điều kiện thuận lợi để truyền thông đến được
các hội gia đình thông qua kênh nghe nhìn. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu thông tin phổ biến
khoa học và công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Hiện nay đã có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp
được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 151 chi nhánh của Trung
tâm trợ giúp pháp lý đặt tại các huyện hoặc liên huyện. Đến 31/12/2018 đã có 166 tổ
chức hành nghề luật sư tham gia trợ giúp pháp lý (15 tổ chức ký hợp đồng với Sở Tư
pháp, 141 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý), 45 tổ chức tư vấn pháp luật tham
gia trợ giúp pháp lý (13 tổ chức ký hợp đồng với Sở Tư pháp, 32 tổ chức đăng ký tham
gia trợ giúp pháp lý).
4. AN SINH XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
4.1. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới phản ánh mục tiêu an sinh xã hội
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 xác
định mục tiêu chung bao gồm “Xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho người dân”. Mục tiêu cụ thể bao gồm: “Cơ bản hoàn thành các công
trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn:
giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã; Nâng cao chất lượng cuộc
sống của cư dân nông thôn; thu nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015. Như vậy, mục
tiêu có phản ánh nội dung an sinh xã hội và đối tượng thụ hưởng là người người dân và
cộng đồng dân cư trên địa bàn nông thôn. Do vậy, mục tiêu cuối cùng xây dựng nông
thôn mới phải là đảm bảo an sinh xã hội để phát triển con người ở nông thôn.
4.2. Nội dung và tiêu chí “Giảm nghèo và an sinh xã hội”
Chương trình này dành 1/11 nội dung thành phần cho nội dung số 4 “Giảm nghèo
và an sinh xã hội” nhằm mục tiêu: Đạt yêu cầu tiêu chí số 11 về hộ nghèo trong Bộ tiêu
chí quốc gia về nông thôn mới. Đến năm 2020, có 60% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 11
về hộ nghèo; giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước từ 1,0% - 1,5%/năm (riêng các
huyện, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm) theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn
2016 - 2020. Thành phần này có hai nội dung là: (i) Thực hiện có hiệu quả Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. (ii) Thực hiện các Chương
trình an sinh xã hội ở xã, thôn. Cơ quan chủ trì thực hiện thành phần “giảm nghèo và an
sinh xã hội” là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Tuy nhiên, các báo cáo đánh giá
kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới thường chỉ
nêu hai tiêu chí là tỉ lệ hộ nghèo và tỉ lệ lao động có việc làm mà thiếu thông tin về các
tiêu chí của cả một hệ thống an sinh xã hội gồm bốn trụ cột thành phần. Đây là một “vấn
đề hệ thống” về thực hiện “các Chương trình an sinh xã hội ở xã, thôn” cần được tính
đến trong xây dựng nông thôn mới.
60
4.3. Các nội dung và tiêu chí khác về an sinh xã hội
Ngoài nội dung trực tiếp, cụ thể “giảm nghèo và an sinh xã hội” trong Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới còn có các nội dung khác với các tiêu
chí khác về an sinh xã hội. Cụ thể như sau:
Về lao động, thu nhập, việc làm, giảm nghèo: Chương trình đề ra mục tiêu đến
năm 2020 80% xã đạt yêu cầu tiêu chí số 10 về thu nhập, tiêu chí số 12 về tỷ lệ lao động
có việc làm thường xuyên. Đào tạo nghề cho 5,5 triệu lao động nông thôn (bình quân
1,1 triệu lao động/năm), trong đó, hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng
cho 3,84 triệu lao động nông thôn, người khuyết tật, thợ thủ công, thợ lành nghề gắn với
nhu cầu của thị trường lao động
Về đảm bảo giáo dục tối thiểu: thực hiện tiêu chí số 5 về cơ sở vật chất trường
học, ví dụ “đến năm 2020, có 80% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 5 về cơ sở vật chất trường
học”; 80% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 14 về giáo dục (phổ cập giáo dục mầm non, xóa
mù chữ và chống tái mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện phổ cập giáo dục
trung học cơ sở)
Về đảm bảo y tế tối thiểu: đến năm 2020, có 90% trạm y tế xã có đủ điều kiện
khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế; 70% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 15 về Y tế.
Về đảm bảo nước sạch và vệ sinh: Đến năm 2020, có 70% số xã đạt tiêu chí số
17 về môi trường; 75% số hộ gia đình ở nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh; 100% trường
học, trạm y tế xã có nhà tiêu hợp vệ sinh được quản lý và sử dụng tốt.
Về đảm bảo thông tin và truyền thông cơ sở: Đến năm 2020, có 95% số xã đạt
chuẩn các nội dung khác của tiêu chí số 8 về Thông tin - Truyền thông.
4.4. Cơ quan chủ trì và thực hiện các mục tiêu, nội dung, tiêu chí về an sinh
xã hội
Có thể phát hiện một số “vấn đề hệ thống” của an sinh xã hội trong xây dựng
nông thôn mới. Đó là: thứ nhất, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2016-2020 chưa nêu rõ những nội dung và tiêu chí của một số trụ cột của
hệ thống an sinh xã hội, ví dụ chưa nói đến “bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội”. Thứ
hai, trong phân công quản lý và tổ chức thực hiện Chương trình Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn là Cơ quan chủ trì Chương trình. Nhưng trong việc thực hiện từng mục
tiêu, nội dung và tiêu chí của Chương trình thì Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
chỉ xuất hiện 4 lần trong tổng số 27 lần xuất hiện tên các bộ, ngành ở mục “cơ quan chủ
trì, thực hiện”. Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao chủ trì và
hướng dẫn thực hiện nội dung phát triển sản xuất và tăng thu nhập; chỉ đạo và chịu trách
nhiệm về đào tạo nghề; chủ trì và hướng dẫn thực hiện nội dung liên quan đến môi
trường; chủ trì và hướng dẫn thực hiện nội dung về nâng cao năng lực và truyền thông.
Thứ ba, các nội dung chủ yếu của an sinh xã hội do các bộ, ngành khác chủ trì, ví dụ nội
dung giảm nghèo và an sinh xã hội do bộ Lao động, thương binh và xã hội chủ trì, nội
dung an sinh xã hội về giáo dục do bộ Giáo dục và đào tạo chủ trì, nội dung an sinh xã
hội về y tế, chăm sóc sức khỏe do Bộ Y tế chủ trì. Điều này có nghĩa là nhiều bộ ngành
trực tiếp chủ trì, hướng dẫn, phối hợp thực hiện Chương trình.
61
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam định hướng xây dựng hệ thống an sinh xã hội
toàn diện, đa dạng, đa tầng và linh hoạt, hiện đại và hội nhập quốc tế đảm bảo công
bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Hiện nay hệ thống an sinh xã hội đã được định
hình và phát triển với bốn trụ cột an sinh xã hội là tạo lao động, việc làm, thu nhập; bảo
hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu. Hệ
thống an sinh xã hội theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp là hệ thống các chương trình, chính
sách an sinh xã hội đã được ban hành và thực hiện đạt nhiều thành tựu nhất định như
giảm nghèo, tăng thu nhập, tăng mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội, mở rộng cơ hội
và nâng cao chất lượng bảo trợ xã hội và các dịch vụ xã hội cơ bản. Chương trình mục
tiêu quốc xây dựng nông thôn đã góp phần trực tiếp đảm bảo giảm nghèo và an sinh xã
hội đối với người dân và cộng đồng dân cư ở nông thôn. Kết quả thực hiện xây dựng
NTM là cơ sở để tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống an sinh xã hội ở nông thôn.
Tuy nhiên, một số vấn đề hệ thống của an sinh xã hội có thể cần tính đến để có
giải pháp phù hợp và hiệu quả. Đó là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới có cả một nội dung thành phần “giảm nghèo và an sinh xã hội” nhưng lại do
Bộ Lao động, thương binh và xã hội chủ trì thực hiện. Đồng thời, nhiều yếu tố của hệ
thống an sinh xã hội nằm rải rác trong các mục tiêu, nội dung và tiêu chí xây dựng nông
thôn mới và do các bộ ngành khác chủ trì thực hiện. Trong khi đó, trụ cột bảo hiểm xã
hội và trụ cột bảo trợ xã hội rất ít thậm chí khó tìm thấy trong mục tiêu, nội dung và tiêu
chí xây dựng nông thôn mới. Hệ thống an sinh xã hội nông thôn mới được xây dựng có
hiệu quả như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức, đánh giá thực trạng và những
vấn đề đặt ra trong xây dựng nông thôn mới.
5.2. Khuyến nghị
Từ những điều trình bày trên, có thể khuyến nghị ưu tiên nghiên cứu cơ sở lý luận
và đề xuất giải pháp thực tiễn xây dựng có hiệu quả hệ thống an sinh xã hội nông thôn
mới. Cụ thể là nghiên cứu tổng kết và đề xuất giải pháp xây dựng các mô hình xây dựng
nông thôn mới gắn với xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đa dạng, đa tầng,
linh hoạt, mang tính chia sẻ, công bằng và bền vững ở cấp xã. Nghiên cứu xây dựng bộ
tài liệu hướng dẫn thực hiện các mục tiêu, nội dung, tiêu chí của hệ thống an sinh xã hội
trong xây dựng nông thôn mới. Mọi sự thành bại, tốt xấu do do công tác cán bộ, do vậy
rất có thể cần phải nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao năng lực chủ trì, hướng dẫn,
phối hợp và thực hiện các mục tiêu, nội dung và tiêu chi về an sinh xã hội trong xây
dựng nông thôn mới. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hệ thống
an sinh xã hội trong xây dựng nông thôn mới để làm căn cứ đánh giá, kiểm tra, giám sát
từ đó đề xuất giải pháp kịp thời có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và
tính bền vững của các kết quả xây dựng nông thôn mới.
Một khuyến nghị khác bắt nguồn từ những phát hiện đã nêu ở trên. Đó là vấn đề
mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội đến các đối tượng trong đó có người dân ở
nông thôn. Do đó, rất có thể cần nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp để Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới có thể trực tiếp góp phần thực hiện cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội.
62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 15-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa XI
một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020.
2. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, Ban
hành kèm theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16 tháng 8 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ.
3. Quyết định số 1980/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Bộ tiêu
chíquốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020.
4. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
5. Nguyễn Thị Lan Hương và các đồng sự. Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt
Nam đến năm 2020. Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Hà Nội. 2013.
6. Lê Ngọc Hùng. Chính sách xã hội. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_van_de_ve_he_thong_an_sinh_xa_hoi_nong_thon_moi_thuc.pdf