- Hoàn hiện chính sách thúc đẩy nghiên
cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng
cao tỷ trọng khoa học công nghệ trong sản
phẩm nông nghiệp, góp phần hình thành
các chuỗi giá trị sản phẩm công nghệ cao,
an toàn thực phẩm và nâng cao hàm lượng
chế biến đối, giá trị gia tăng của nông sản
Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Đổi mới phương pháp, tăng cường
đào tạo, nâng cao chất lượng lao động nông
thôn, hỗ trợ dịch chuyển để rút lao động
nông nghiệp sang phi nông nghiệp, gắn với
quy hoạch và bố trí dân cư trong bối cảnh
công nghiệp hóa, đô thị hóa.
- Tập chung chính sách, giải pháp nhằm
đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất gắn
với nhu cầu của thị trường, thúc đẩy vai trò
của doanh nghiệp nông nghiệp, đặc biệt là
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX
nông nghiệp, thúc đẩy vai trò kết nối trong
chuỗi giá trị của các HTX.
- Tiếp tục đầu tư nguồn lực để triển khai
hiệu quả Chương trình OCOP, gắn với phát
triển văn hóa, du lịch, truyền thống của cộng
đồng nông thôn. Phát triển sản phẩm OCOP
gắn với lợi thế về chất lượng, thị trường, phát
huy vai trò cộng đồng, đồng thời thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh, khởi nghiệp sáng tạo,
nâng cao năng lực thương mại của các chủ
thể (HTX, doanh nghiệp), thúc đẩy kinh tế hộ
gia đình và kinh tế nông thôn.
- Nhìn nhận và đánh giá đúng những
xu thế phát triển mới, áp dụng hiệu quả vào
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
như: phát triển kinh tế tuần hoàn trong
nông nghiệp, nông nghiệp hữu cơ, hợp tác
xã cộng đồng Khai thác hiệu quả những
xu thế này sẽ giúp kinh tế nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam chuyển đổi, phát triển
hiệu quả và bền vững.
Những vấn đề mới nêu trên trong
phát triển nông thôn Việt Nam cần được
mổ xẻ bài bản từ góc nhìn khoa học để làm
rõ những thay đổi nông nghiệp, nông thôn
thời gian qua cũng như định hướng mang
tầm chiến lược và giải pháp đột phá trong
thời gian tới.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Vấn đề phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam
1.1 Kinh tế nông thôn là định hướng
trọng tâm trong xây dựng nông thôn mới
Trong cả lý luận và thực tiễn, Đảng
ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông
thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó
là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế -
xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm
an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường
sinh thái. Trải qua các kỳ đại hội Đảng, vấn
đề này ngày càng được Đảng nhận thức
sâu sắc hơn, trên cơ sở đó đề ra những chủ
trương, định hướng đúng đắn, phù hợp với
tình hình, yêu cầu trong từng giai đoạn phát
triển của đất nước.
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X đã ban hành Nghị
quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Mục tiêu tổng
quát của Nghị quyết là không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo
sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có
trình độ sản xuất ngang bằng với các nước
tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TS NGUYỄN ĐỖ ANH TUẤN, TS ĐÀO ĐỨC HUẤN
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn
58
59
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Đến
Nghị quyết Đại hội Đảng XII, Đảng đã chỉ rõ
định hướng phát triển nông nghiệp cần tập
trung xây dựng nền nông nghiệp công nghệ
cao, hàng hóa lớn, nâng cao chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh cho nông sản, nhưng
phải đảm bảo phát triển bền vững, an ninh
lương thực quốc gia và vệ sinh, an toàn thực
phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn theo yêu cầu
xuất khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả
vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trên cơ sở đó, Thủ tưởng Chính phủ đã
ban hành Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 theo
Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010,
mục tiêu là: xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện
đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát
triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch;
xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản
sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái
được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững;
đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ngày càng được nâng cao... Giai đoạn 2016-
2020, mục tiêu là xây dựng nông thôn mới
để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội phù hợp...; phát triển sản xuất phù
hợp với chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
chuyển đổi cơ cấu nông thôn và tăng thu
nhập cho người dân, tập trung vào các
chuỗi giá trị gắn sản xuất với tiêu thụ sản
phẩm; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào địa
bàn nông thôn.
1 Bộ Nông nghiệp và PTNT, Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện năm 2018 và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện
Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2019.
Sau 8 năm, diện mạo nông thôn thay
đổi rõ rệt, nhiều vùng nông thôn khang
trang, xanh, sạch, đẹp hơn; hạ tầng thiết yếu
về giao thông, thủy lợi, văn hóa, y tế, giáo
dục được quan tâm đầu tư, nâng cấp,
xây dựng; thu nhập và đời sống của người
dân nông thôn ngày càng được nâng cao,
hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện; số
hộ nghèo giảm nhanh, đời sống vật chất
và tinh thần của người dân nông thôn từng
bước được cải thiện; hệ thống chính trị cơ
sở tiếp tục được củng cố1. Tính đến tháng
05/2019, cả nước đã có 4.340 xã đạt chuẩn
NTM, chiếm 48,68% tổng số xã, tăng gần
gấp 3 lần so với năm 2015, tiệm cận mục
tiêu đến năm 2020 cả nước có 50% số xã
đạt chuẩn. Số tiêu chí bình quân/xã đạt
15,26 tiêu chí, vượt mục tiêu 15 tiêu chí/xã
vào năm 2020. Ở cấp huyện, đã có 75 huyện
thuộc 34 tỉnh, thành được công nhận đạt
chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM,
tăng 60 huyện so với năm 2015.
Ngoài những kết quả trên, hạ tầng kinh
tế - xã hội, đời sống người dân nông thôn
đã có sự thay đổi rõ rệt, quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch lao động
nông thôn, xóa đói giảm nghèo đã mang lại
những tiến bộ tích cực. Xây dựng nông thôn
mới cũng góp phần nâng cao trình độ, khả
năng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất của nông dân. Khẳng định vai trò chủ
thể của người dân và doanh nghiệp trong
phát triển kinh tế trong phát triển kinh tế
và nâng cao đời sống người dân nông thôn.
Kinh tế nông thôn có chuyển biến tích cực
theo định hướng cơ cấu lại sản xuất, các địa
60
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
phương đã tập trung đầu tư và đã phát triển
các mô hình sản xuất liên kết theo chuỗi
giá trị, ứng dụng công nghệ cao, dần hình
thành được một số vùng sản xuất tập trung
theo hướng hàng hóa quy mô lớn. Đến năm
2018, cả nước có 64,9% số xã đạt tiêu chí
về thu nhập (cao hơn 56,88% so với 2010);
62,4% số xã đạt chuẩn tiêu chí hộ nghèo
(cao hơn 54,38% so với năm 2010). Nhìn
chung, đời sống người dân được cải thiện,
tỷ lệ nghèo giảm nhanh, năm 2018 tỷ lệ hộ
nghèo bình quân cả nước còn 5,35%, giảm
8,85% so với năm 2010.
1.2 Thành tựu phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam
Công cuộc cải cách kinh tế và thể chế
trong những năm qua đã giúp Việt Nam trở
thành một nước sản xuất nông nghiệp hàng
đầu thế giới. Nông nghiệp Việt Nam đã phát
triển khá toàn diện, chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa, năng suất và chất lượng.
Cụ thể là:
- Nông nghiệp có mức tăng trưởng
ổn định, giai đoạn 2011-2015 tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân của toàn ngành
nông, lâm, thủy sản đạt 3,1%/năm, bình
quân giai đoạn 2011-2018 đạt 2,95%/năm,
tỷ trọng GDP ngành nông nghiệp trong cơ
cấu GDP nền kinh tế giảm từ 18,38% năm
2011 xuống còn 14,57% năm 2018. Nông
nghiệp chuyển mạnh sang sản xuất hàng
hóa cạnh tranh quốc tế, năng suất, chất
lượng sản phẩm ngày càng cao. Cơ cấu sản
xuất từng ngành được điều chỉnh, chuyển
đổi theo hướng phát huy lợi thế của mỗi
địa phương và cả nước gắn với nhu cầu
thị trường. Công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn phát triển nhanh cả về giá trị sản xuất
và lĩnh vực, hình thức hoạt động. Giá trị sản
xuất công nghiệp nông thôn có xu hướng
tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng giá
trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, bình
quân giai đoạn 2008-2017 đạt 12,2%.
- Xuất khẩu về nông, lâm, thủy sản có
mức tăng trưởng ấn tượng nhờ mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế, đưa Việt Nam đứng
thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 13 thế giới
về xuất khẩu nông sản, với tổng kim ngạch
xuất khẩu nông sản 10 năm (2008-2017) đạt
261,28 tỷ USD, tăng bình quân 9,24%/năm,
năm 2018 kim ngạch xuất khẩu đạt 40,02 tỷ
USD, thặng dư thương mại đạt 8,7 tỷ USD.
Nông sản Việt Nam hiện đã có mặt trên 180
quốc gia và vùng lãnh thổ, khẳng định được
vị trí, vai trò và giá trị trên thị trường quốc tế.
- Cơ cấu ngành nghề nông thôn có sự
chuyển dịch từ sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản sang các hoạt động công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ. Tỷ trọng lao động nông
nghiệp trong tổng lao động xã hội đã giảm
từ từ 48,2% xuống còn 38,1% trong giai
đoạn 2010-2018. Đây là kết quả tích cực và
sớm đạt mục tiêu so với kế hoạch giảm tỷ
lệ lao động nông nghiệp xuống dưới 40%
vào năm 2020. Trong khu vực nông thôn, tỷ
lệ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ
62,15% xuống còn 53,66%; hộ công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ tăng từ 33,44% lên
40,03% trong giai đoạn 2011-2016.
- Nghiên cứu và ứng dụng khoa học
công nghệ đạt được những kết quả tích cực,
KHCN đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt trong sản xuất giống cây trồng và vật
61
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
nuôi với giá trị gia tăng đạt đến 38%. Các mô
hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng
trọt, chăn nuôi, thủy sản đã làm tăng hiệu
quả kinh tế từ 10-30%; trên 90% diện tích
lúa, 80% diện tích ngô và 60% diện tích mía
đã sử dụng giống mới
- Hình thức tổ chức sản xuất được đổi
mới, tính đến năm 2018, Việt Nam đã có
39 liên hiệp HTX nông nghiệp, 13.400 HTX
nông nghiệp và 35.500 trang trại, số hộ
làm nông lâm thủy sản chiếm dưới 53,7%.
Tính đến tháng 5/2019, Việt Nam có khoảng
11.200 doanh nghiệp nông nghiệp, nếu tính
cả doanh nghiệp nông nghiệp và doanh
nghiệp lĩnh vực khác có đầu tư vào nông
nghiệp, cả nước có khoảng 49.600 doanh
nghiệp. Trong tổng số các doanh nghiệp
nông nghiệp hiện nay, có 89% thuộc khu
vực ngoài Nhà nước, 8% thuộc khu vực Nhà
nước và 3% thuộc khu vực FDI. Đã hình
thành 27.000 mô hình sản xuất liên kết
chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, hình
thành vùng sản xuất tập trung theo hướng
hàng hóa quy mô lớn.
- Thu nhập, đời sống của người dân
nông thôn không ngừng được cải thiện, giai
đoạn 2008-2017, thu nhập bình quân đầu
người/năm ở nông thôn đã tăng 3,5 lần, từ
9,15 triệu đồng lên 32 triệu đồng. Giai đoạn
2012-2017, thu nhập bình quân hộ gia đình
ở nông thôn tăng mạnh, từ mức 75,8 triệu
đồng lên gần 130 triệu đồng. Khoảng cách
thu nhập giữa thành thị và nông thôn thu
hẹp từ 2,1 lần năm 2008 còn 1,8 lần năm
2017. Năm 2016 tỷ lệ hộ có nguồn thu nhập
lớn nhất từ nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm 47,9% tổng số hộ nông thôn. Tỷ lệ
nghèo giảm nhanh, còn 5,35% vào năm
2018.
- Cơ sở hạ tầng thương mại, logistics
cho phát triển nông nghiệp phát triển nhanh
với sự phụ trợ của hệ thống kho bãi, cảng và
thiết bị bốc dỡ; các chợ đầu mối nông sản
đã hình thành và phát triển tại các thành
phố lớn; hậu cần nghề cá đã bước đầu hoạt
động ngay trên biển; một số ngành hàng
nông sản chủ lực đang triển khai và đưa vào
hoạt động sàn giao dịch; hoạt động kết nối
hàng hóa từ vùng sản xuất đến các siêu thị
đã được duy trì và từng bước hoàn thiện.
1.3 Khó khăn, hạn chế trong phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Bên cạnh những thành công, kinh tế
nông nghiệp, nông thôn còn nhiều hạn chế,
ảnh hưởng đến định hướng phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới:
- Tăng trưởng nông nghiệp chưa ổn
định và đồng đều giữa các địa phương, sản
xuất nông nghiệp còn nhiều rủi ro, chưa
bền vững (thiên tai, dịch bệnh, an toàn thực
phẩm, thị trường), khả năng cạnh tranh
của nhiều nông sản chưa cao, công nghiệp
chế biến phát triển chậm, chất lượng và
thương hiệu nông sản chưa được định hình
tương xứng với một quốc gia xuất khẩu
nông sản hàng đầu.
- Sản xuất nhỏ lẻ manh mún (99,89%
các đơn vị kinh tế nông nghiệp là hộ nông
dân, 0,04% doanh nghiệp, 0,07% HTX; 36%
hộ diện tích < 0,2ha), Các hình thức tổ chức
sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm chưa
hiệu quả, liên kết sản xuất giữa các tác nhân
trong chuỗi giá trị chưa trở thành phổ biến,
62
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
chủ đạo để thúc đẩy cơ giới hóa, ứng dụng
công nghệ cao giảm chi phí trung gian,
nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm
nông nghiệp. Số lượng doanh nghiệp nông
nghiệp chỉ chiếm 8% tổng số doanh nghiệp
của nền kinh tế, quy mô nhỏ, năng lực tài
chính thấp (trên 90% là doanh nghiệp nhỏ,
thậm chí siêu nhỏ), hiệu quả hoạt động
chưa cao.
- Lao động nông nghiệp vẫn chiếm
gần 40% trong tổng số lao động xã hội, chủ
yếu làm thủ công nên năng suất lao động
thấp (chỉ bằng 38% năng suất lao động bình
quân cả nước). Thu nhập và đời sống của
người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn
gặp nhiều khó khăn, chậm được cải thiện.
Phân hóa nông thôn tiến triển mạnh, chênh
lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ giàu nhất
và 20% nhóm hộ nghèo nhất trong nông
thôn tăng mạnh, từ 7,5 lần năm 2010 lên 9,8
lần năm 2016. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn
cao gấp 4 lần ở các thành thị. Kết quả giảm
nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo bình
quân chiếm 5,1% số hộ thoát nghèo.
- Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, ưu tiên cho
phát triển hạ tầng nông thôn nhưng hạ tầng
giao thông, thủy lợi, điện nhiều nơi còn yếu
kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn.
Đặc biệt, một số vùng chuyên nông nghiệp
chính như Đồng bằng sông Cửu Long, Tây
Nguyên vẫn thiếu các trục giao thông huyết
mạch, không có cảng biển nước sâu phục
vụ xuất khẩu làm tăng chi phí giao dịch và
cản trở thu hút đầu tư.
- Công nghiệp chế biến nông sản
chưa đáp ứng nhu cầu của năng lực cung
to lớn của sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ tổn
thất sau thu hoạch còn cao, giá trị gia tăng
thấp, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp. Công tác xúc tiến
thương mại, dịch vụ hậu cần, phát triển thị
trường còn nhiều yếu kém, phần lớn nông
sản bán ra không có thương hiệu, giá trị gia
tăng thấp. Thị trường tiêu thụ diễn biến khó
lường trong khi công tác thống kê, dự báo
thị trường còn yếu kém, giá cả không ổn
định. Nông sản xuất khẩu chủ yếu là xuất
thô, chưa định rõ loại hình chất lượng, 80%
lượng nông sản chưa xây dựng được thương
hiệu, chưa có logo, nhãn mác.
- Trình độ công nghệ nhìn chung còn
thấp, chưa tạo sức mạnh lan tỏa và thúc đẩy
nhanh quá trình thay đổi tập quán canh tác
nhỏ lẻ, thiếu liên kết, không chuyên nghiệp.
Thị trường KHCN chưa chưa tạo sự gắn kết
có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và
sản xuất kinh doanh nông sản. Đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển nông nghiệp của
Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng,
chỉ chiếm 0,2% GDP nông nghiệp, so với các
nước xung quanh thường ở mức 0,5% GDP
nông nghiệp và có thể lên tới 2-4% GDP
nông nghiệp như trường hợp của Trung
Quốc, Đài Loan Ứng dụng công nghệ cao,
công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến
bảo quản còn hạn chế, chưa được “đột phá”
để nâng cao giá trị gia gia tăng, sức cạnh
tranh của sản phẩm, ngành, nhất là trong
bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày
càng sâu, rộng hơn.
- Trong khi biến đổi khí hậu diễn biến
nhanh và phức tạp hơn, tốc độ khai thác tài
nguyên tự nhiên phục vụ CNH, ĐTH tăng
nhanh thì việc thực hiện các giải pháp thích
63
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên
tai, bảo vệ môi trường, gìn giữ cảnh quan,
bảo vệ tài nguyên trong sản xuất nông
nghiệp còn nhiều hạn chế. Việc sử dụng quá
mức phân bón, thuốc trừ sâu và các loại hóa
chất trong sản xuất nông nghiệp làm thoái
hóa đất, ô nhiễm môi trường và mất vệ sinh
an toàn thực phẩm, làm giảm khả năng cạnh
tranh của nông sản.
II. Bối cảnh mới về phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn
Sự phát triển và biến đổi của kinh tế
toàn cầu, quá trình hội nhập và những tác
động mạnh mẽ về khoa học công nghệ, biển
đổi khí hậu toàn cầu, kinh tế nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam phải đối mặt với những
thách thức lớn hơn và nhiều thách thức mới:
- Hội nhập kinh tế quốc tế và những
thay đổi thể chế, chính sách về thị trường
ngày càng rõ ràng và sâu rộng. Việt Nam đã
tham gia ký kết 12 hiệp định thương mại tự
do với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế
giới. Đã có 10 hiệp định thương mại tự do
chính thức có hiệu lực thực hiện và Việt Nam
đã thực thi toàn bộ các cam kết trong WTO.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã tích cực, chủ động
tham gia vào các hiệp định thương mại thế
hệ mới như CPTPP, EVFTA với mức độ hội
nhập sâu rộng và toàn diện hơn. Quá trình
đó, nông nghiệp Việt Nam đã, đang và sẽ
phải đối mặt với nhiều thách thức không
nhỏ, đặc biệt là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, tổ
chức sản xuất, liên kết chuỗi giá trị còn yếu,
chất lượng nông sản chưa đồng đều, sản
phẩm không có thương hiệu, mức độ tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế,
chủ yếu là công đoạn sản xuất, giá trị gia
tăng thấp. Cùng với đó, thị trường nông lâm
thủy sản trong tương lai sẽ có nhiều bất ổn
hơn, và có sự thay đổi căn bản về cơ cấu tiêu
dùng hướng tới hàng có giá trị dinh dưỡng
cao, thực phẩm chế biến, sản phẩm hữu cơ,
sản phẩm thân thiện với môi trường và có
trách nhiệm xã hội.
- Khoa học công nghệ đang phát triển
vượt bậc, đặc biệt với cuộc Cách mạng
công nghệ 4.0 mở ra cơ hội cho ngành
nông nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý tài
nguyên, quản lý sản xuất, nâng cao năng
suất, an toàn vệ sinh thực phẩm và giá trị
gia tăng cho sản phẩm. Đồng thời, các tiến
bộ cũng giúp cơ giới hóa, tự động hóa, giải
phóng sức lao động. Đặc biệt, các tiến bộ
này có thể tạo hướng đi mới để thay đổi thể
chế tổ chức sản xuất từ cách thức liên kết
nông dân, cách thức liên kết quản lý chuỗi
giá trị, vốn là điểm nghẽn khó xử lý của quá
trình đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp ở
Việt Nam. Bên cạnh đó, với các tiến bộ của
KHCN ngày càng sử dụng ít lao động, nguy
cơ một lực lượng lớn mất việc và quay trở lại
nông nghiệp nông thôn cần phải được tính
đến trong dài hạn.
- Tác động của biến đổi khí hậu tới
nông nghiệp và nông thôn sẽ ngày càng gia
tăng và rõ rệt hơn. Bên cạnh đó, diễn biến
thời tiết đang ngày càng phức tạp hơn, tần
suất và cường độ thiên tai ngày càng lớn
hơn, hậu quả là mức độ ảnh hưởng tới sản
xuất nông nghiệp và đời sống của người
dân càng nghiêm trọng hơn. Sức ép của
biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên sẽ
đòi hỏi sách lược phát triển nông nghiệp,
nông thôn khôn ngoan với những đột phá
64
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
về phương thức thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh, về phương thức tổ chức xã hội nông
thôn nhằm tăng cường sử dụng công nghệ,
giảm sử dụng tài nguyên, giảm phát thải,
tăng khả năng chống chịu, tăng tính linh
hoạt, thích ứng thuận thiên với biến đổi khí
hậu và những thay đổi của thị trường.
- Quá trình công nghiệp hóa và đô thị
hóa tiếp tục phát triển, theo đó là sự biến
đổi của không sản sản xuất; chuyển đổi quy
hô, hình thức sản xuất; lao động, việc làm
Cùng với đó là đòi hỏi thêm không gian,
lương thực và nước sạch và cạnh tranh các
nguồn lực tự nhiên, đặc biệt là đất và nước
vốn đang dành cho sản xuất nông nghiệp.
Đồng thời đặt nông nghiệp, thông thôn
trước những thách thức về cảnh quan không
gian nông nghiệp, môi trường, hiệu quả sản
xuất, kinh tế đô thị - nông thôn Dự báo
tăng trưởng dân số đô thị sẽ đạt khoảng 30
triệu dân trước năm 2050, tỷ lệ đô thị hóa
được sẽ tăng lên 34% vào năm 2020 và đạt
40 - 50% truớc năm 2050. Các quá trình này
thúc đẩy cạnh tranh các tài nguyên tự nhiên,
sức ép môi trường (ô nhiễm môi trường,
tăng phát thải khí nhà kính, tăng chất thải
rắn và nước thải), và tăng áp lực khai thác tài
nguyên đang trên đà bị cạn kiệt.
III. Nhận diện một số vấn đề trong
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn
Trong bối cảnh mới, Việt Nam phải chịu
sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu và
ngay cả trên sân nhà. Các hàng rào kỹ thuật
và biện pháp kiểm dịch vệ sinh an toàn thực
phẩm, cũng như các quy định khác về bảo
vệ bản quyền (giống, thuốc bảo vệ thực vật,
phân bón) sẽ trở thành rào cản đòi hỏi
người dân, doanh nghiệp cần một sự chủ
động và ổn định về thị trường thông qua
việc phát triển sản phẩm có thương hiệu,
nguồn gốc rõ ràng, đồng nghĩa với việc phải
tạo ra sản phẩm có chất lượng đáp ứng các
tiêu chuẩn, nhu cầu, thị hiếu của thị trường.
Vì vậy, về khía cạnh kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, cần tập trung vào các
đột phá về thể chế phát triển nông nghiệp,
nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn; đổi mới mô hình tổ chức,
liên kết sản xuất, phát triển thị trường; nâng
cao trình độ sản xuất, ứng dụng khoa học
công nghệ trong nông nghiệp, tăng cường
khởi nghiệp sáng tạo trong nông thôn; cách
thức thúc đẩy áp dụng thực hành nông
nghiệp tốt, đảm bảo chất lượng, an toàn
thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu
trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Cụ
thể là:
- Về quan điểm, phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn phải lấy doanh
nghiệp làm hạt nhân, nông dân làm chủ thể,
khoa học công nghệ làm then chốt, kinh tế
hợp tác làm nòng cốt, liên kết sản xuất theo
chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp và hợp tác
xã, hộ gia đình làm nền tảng để phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn bền vững.
- Đổi mới thể chế, chính sách, xây dựng
môi trường đầu tư thân thiện, minh bạch
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, hoàn thiện cơ chế thúc đẩy
nguồn lực (đất đai, tín dụng, lao động)
để hình thành các chuỗi giá trị khép kín,
65
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
gắn với sản xuất hàng hóa, vùng nguyên
liệu quy mô lớn. Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ
tầng, hệ thống kết nối, logistic đáp ứng yêu
cầu đầu tư của doanh nghiệp trong lĩnh vực
nông nghiệp.
- Hoàn hiện chính sách thúc đẩy nghiên
cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng
cao tỷ trọng khoa học công nghệ trong sản
phẩm nông nghiệp, góp phần hình thành
các chuỗi giá trị sản phẩm công nghệ cao,
an toàn thực phẩm và nâng cao hàm lượng
chế biến đối, giá trị gia tăng của nông sản
Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Đổi mới phương pháp, tăng cường
đào tạo, nâng cao chất lượng lao động nông
thôn, hỗ trợ dịch chuyển để rút lao động
nông nghiệp sang phi nông nghiệp, gắn với
quy hoạch và bố trí dân cư trong bối cảnh
công nghiệp hóa, đô thị hóa.
- Tập chung chính sách, giải pháp nhằm
đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất gắn
với nhu cầu của thị trường, thúc đẩy vai trò
của doanh nghiệp nông nghiệp, đặc biệt là
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX
nông nghiệp, thúc đẩy vai trò kết nối trong
chuỗi giá trị của các HTX.
- Tiếp tục đầu tư nguồn lực để triển khai
hiệu quả Chương trình OCOP, gắn với phát
triển văn hóa, du lịch, truyền thống của cộng
đồng nông thôn. Phát triển sản phẩm OCOP
gắn với lợi thế về chất lượng, thị trường, phát
huy vai trò cộng đồng, đồng thời thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh, khởi nghiệp sáng tạo,
nâng cao năng lực thương mại của các chủ
thể (HTX, doanh nghiệp), thúc đẩy kinh tế hộ
gia đình và kinh tế nông thôn.
- Nhìn nhận và đánh giá đúng những
xu thế phát triển mới, áp dụng hiệu quả vào
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
như: phát triển kinh tế tuần hoàn trong
nông nghiệp, nông nghiệp hữu cơ, hợp tác
xã cộng đồng Khai thác hiệu quả những
xu thế này sẽ giúp kinh tế nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam chuyển đổi, phát triển
hiệu quả và bền vững.
Những vấn đề mới nêu trên trong
phát triển nông thôn Việt Nam cần được
mổ xẻ bài bản từ góc nhìn khoa học để làm
rõ những thay đổi nông nghiệp, nông thôn
thời gian qua cũng như định hướng mang
tầm chiến lược và giải pháp đột phá trong
thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2018), Báo cáo Tổng
kết thực hiện Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn
năm 2018 và triển khai Kế hoạch năm 2019
2. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn (2013), Nghiên cứu một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn phục vụ tổng kết 30
năm đổi mới, thuộc Chương trình KHCN phục vụ xây dựng
NTM giai đoạn 2011-2015.
3. Lê Trọng Hải (2014), Đổi mới và hoàn thiện thể
chế phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thuộc Chương trình
KHCN phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015.
4. Ngân hàng Thế giới (2008), Báo cáo phát triển
của Ngân hàng Thế giới năm 2008.
5. Ngân hàng Thế giới (2016). Chuyển đổi Nông
nghiệp Việt Nam - Tăng giá trị, giảm đầu vào.
6. Joe Studwell (2013). Châu Á vận hành như thế
nào?
7. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê hàng
năm.
8. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê,
gov.vn/default.aspx?tabid=715
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_van_de_ve_phat_trien_kinh_te_nong_nghiep_nong_thon.pdf