KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu đã chỉ ra TNXH đối với
NLĐ tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng
thời gian qua được thực hiện tốt ở nhiều
khía cạnh như:
- Số lượng lao động được ký hợp
đồng dài hạn với doanh nghiệp là tương
đối lớn
- Đa số các doanh nghiệp đã tổ chức
huấn luyện an toàn lao động cho người lao
động trong doanh nghiệp
- Hầu hết các doanh nghiệp đều tổ chức
khám sức khỏe định kỳ cho người lao động
- Công tác đào tạo nâng cao trình
độ cho người lao động được tổ chức khá
tốt, hầu hết người lao động khi được tuyển
dụng vào doanh nghiệp đều được đào tạo
và đào tạo bổ sung, nhiều doanh nghiệp
còn đưa những lao động chủ chốt đi đào
tạo tại nước ngoài
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực đã đạt được, vẫn tồn tại một số hạn
chế trong TNXH đối với NLĐ tại các
doanh nghiệp FDI Hải Phòng như:
- Về thực hiện HĐLĐ: HĐLĐ chưa đề
cao cam kết bảo mật thông tin cho NLĐ
trong HĐLĐ.
- Về đảm bảo An toàn vệ sinh lao
động: Tập huấn an toàn vệ sinh lao động
còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa được
tổ chức thường xuyên, định kỳ theo đúng
quy định tại Bộ Luật Lao động năm 2012.
Tai nạn lao động có dấu hiệu tăng, công
tác khám sức khỏe cho người lao động còn
sơ sài và không đảm bảo chất lượng, bệnh
nghề nghiệp vẫn tồn tại.
- Về đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ: Số lượng NLĐ được tham
gia đào tạo chuyên sâu tại nước ngoài còn
chưa cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 595 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp FDI tại Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI 
LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI HẢI PHÒNG
Nguyễn Thị Thu Thủy 
Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh 
Email: thuyntt86@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 03/7/2020
Ngày PB đánh giá: 17/8/2020
Ngày duyệt đăng: 20/8/2020
TÓM TẮT
Bài viết đánh giá thực trạng trách nhiệm xã hội (TNXH) đối với người lao động (NLĐ) tại các doanh 
nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hải Phòng qua 3 nội dung: Thực hiện hợp đồng lao động (HĐLĐ); 
Đảm bảo an toàn lao động (ATLĐ), vệ sinh lao động (VSLĐ); Tạo cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy một số điều khoản nội dung Hợp đồng lao động (HĐLĐ) vẫn còn chưa rõ 
ràng, HĐLĐ chưa đề cao cam kết bảo mật thông tin cho NLĐ; Tai nạn lao động có dấu hiệu tăng, bệnh 
nghề nghiệp vẫn tồn tại; tỷ lệ NLĐ được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. 
Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao TNXH đối với NLĐ tại các doanh nghiệp FDI Hải 
Phòng và kiến nghị với Nhà nước trong hỗ trợ thực hiện TNXH đối với NLĐ.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội, người lao động, doanh nghiệp FDI Hải Phòng.
SOME ISSUES OF SOCIAL RESPONSIBILITY FOR EMPLOYEES 
IN FDI ENTERPRISES IN HAI PHONG
ABSTRACT
The article assesses the current situation of social responsibility for employees in FDI enterprises in 
Hai Phong city through 3 things: Performing labor contracts; ensuring labor safety and hygiene; and 
creating opportunities to improve professional qualifications.
Research results show that some terms of the labor contract are still unclear and the labor contract 
does not attach importance to committing information confidentiality for employees; Furthermore, 
the number of labor accidents tend to increase, occupational diseases still exist, and the percentage of 
employees who have their professional qualifications improved is not high.
Hence, the study proposes some solutions on improving social responsibility for employees in Hai 
Phong FDI enterprises and recommends the government to support the implementation of social 
responsibility for employees. 
Keywords: Social responsibility, Employees, Hai Phong FDI enterprises.
1. MỞ ĐẦU
Hải Phòng là thành phố cảng, trung 
tâm công nghiệp, dịch vụ, đầu mối giao 
thông quan trọng về đường bộ, đường 
sắt, đường thủy nội địa, đường biển và 
đường hàng không. Với lợi thế này, Hải 
Phòng là một trong số ít địa phương đi 
đầu và sớm đón nhận nguồn vốn đầu tư 
21TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
trực tiếp nước ngoài (FDI). Vốn FDI vào 
Hải Phòng đã và đang là nguồn vốn bổ 
sung quan trọng cho phát triển kinh tế 
xã hội, đóng góp vào ngân sách, tăng 
năng lực xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu 
nhập cho người lao động Tuy nhiên, 
đó cũng là khởi nguồn gây ra một số vấn 
đề nan giải cho các doanh nghiệp, cho 
thành phố Hải Phòng nói riêng và cho 
toàn xã hội nói chung. 
Trách nhiệm xã hội đối với người lao 
động, môi trường, cũng như những gì 
mà guồng quay kinh tế khổng lồ ấy ảnh 
hưởng tới trong quá trình phát triển của 
nó. Những vấn đề đó đang ngày càng trở 
nên bức thiết, và cái giá phải trả sẽ là rất 
đắt nếu chúng ta không có hướng giải 
quyết một cách triệt để và kịp thời. 
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát về trách nhiệm xã hội 
doanh nghiệp
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội (CSR)
Ngày nay, một bộ phận quan trọng 
để khẳng định một doanh nghiệp có đạo 
đức chính là việc thực hiện trách nhiệm 
xã hội doanh nghiệp (Corporate Social 
Responsibility – CSR). Đã có rất nhiều 
quan điểm khác nhau về CSR, tuy nhiên 
cho đến nay, định nghĩa của nhóm phát 
triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế 
giới về CSR được cho là hoàn chỉnh và 
rõ ràng nhất về CSR: “Trách nhiệm xã 
hội doanh nghiệp là sự cam kết của do-
anh nghiệp đóng góp vào việc phát triển 
kinh tế bền vững, thông qua những hoạt 
động nhằm nâng cao chất lượng đời 
sống của người lao động và thành viên 
gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã 
hội theo cách có lợi nhất cho cả doanh 
nghiệp cũng như phát triển chung của xã 
hội” (www.worldbank .org/privatesec-
tot/csr/index.htm)
Khái niệm trên đã chỉ ra rằng, CSR 
là vấn đề liên quan đến nhiều thành phần 
khác nhau trong xã hội, từ người tiêu thụ 
trực tiếp cho tới nhà cung cấp nguyên 
vật liệu; từ người lao động cho tới 
những cổ đông doanh nghiệp, cả những 
nhà đầu tư, các đối tác làm ăn cũng như 
các tổ chức thương mại, chính quyền địa 
phương có cũng có mối quan hệ chặt chẽ 
với dân cư xung quanh doanh nghiệp đặt 
trụ sở. 
2.1.2. Nội dung và các tiêu chí đánh giá 
trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
đối với người lao động trước hết cần xuất 
phát từ việc tuân thủ các quy định của 
pháp luật nước sở tại, đồng thời phù hợp 
với các tiêu chuẩn quốc tế trong điều kiện 
toàn cầu hóa hiện nay. 
Theo đó, nghiên cứu này xây dựng 
nội dung trách nhiệm xã hội đối với 
người lao động từ một số quy định của 
Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012 
và các bộ tiêu chuẩn quốc tế về TNXH 
như SA8000, ISO26000, mô hình kim tự 
tháp Carroll 
Trong nghiên cứu này chỉ tập trung chủ 
yếu các khía cạnh sau: (1) Thực hiện hợp 
đồng lao động; (2) Đảm bảo an toàn, vệ 
sinh lao động; (3) Tạo cơ hội nâng cao trình 
độ chuyên môn nghiệp vụ như bảng sau:
22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Bảng 1. Nội dung và các tiêu chí đánh giá trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Nội dung TNXH đối với NLĐ Các tiêu chí đánh giá
Thực hiện HĐLĐ
- Tỷ lệ ký kết HĐLĐ
- Nội dung HĐLĐ có đề cấp đến bảo mật thông tin 
cá nhân
Đảm bảo an toàn lao động, vệ 
sinh lao động
- Tỷ lệ huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động
- Số người lao động được khám sức khoẻ định kì
Tạo cơ hội nâng cao trình độ 
chuyên môn nghiệp vụ
- Tỷ lệ bình quân NLĐ được bồi dưỡng nâng cao 
CMNV;
- Chi phí dành cho bồi dưỡng CMNV bình quân theo 
đầu người/ năm.
(Nguồn: [8], [3], [9], ISO 26000:2010)
2.2 Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội 
đối với người lao động tại các doanh 
nghiệp FDI Hải Phòng
2.2.1 Tổng quan về các doanh nghiệp FDI 
Hải Phòng
Dự án FDI đầu tiên của Hải Phòng là 
vào năm 1989, trong giai đoạn 1989-1991 
nguồn vốn FDI vào Hải Phòng còn chưa 
nhiều (khoảng gần 22 triệu USD), chủ yếu 
các dự án có qui mô nhỏ, tính khả thi thấp 
nên hầu hết phải chấm dứt hoạt động và 
rút giấy phép đầu tư trước thời hạn. Từ 
năm 1992, thu hút FDI của Hải Phòng đạt 
được tốc độ tăng khá cả về số dự án và 
số vốn đăng ký, đặc biệt trong giai đoạn 
2011-2015, thành phố đã có những bước 
đột phá mạnh mẽ với hơn 400 dự án với 
tổng vốn hơn 10 tỷ đồng, trong đó có 
nhiều dự án đầu tư của các doanh nghiệp, 
tập đoàn lớn trên thế giới như Bridges-
tone, Nipro Pharma, Fuji Xerox, LG, 
Khu vực FDI đã góp phần quan trọng vào 
việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - 
xã hội của thành phố, đặc biệt là đóng góp 
trong GDP, thu nội địa và xuất khẩu, tạo ra 
nhiều việc làm và góp phần nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực. 
Bảng 2. Số dự án và số vốn FDI tại Hải Phòng còn hiệu lực 
đến 31/12/2019 theo lĩnh vực đầu tư
TT Lĩnh vực đầu tư
Số dự 
án
% số 
dự án
Số vốn đầu tư
(USD)
% vốn 
đầu tư
1 Công nghiệp 288 69,06 6.897.235.900 67,857
2
Cơ sở hạ tầng - Kinh doanh bất động 
sản
25 6,00 1.880.915.436 18,505
3 Khách sạn, dịch vụ, giáo dục 56 13,43 1.135.883.443 11,175
4 Vận tải, nông nghiệp, thương mại 48 11,51 250.263.419 2,462
Tổng số 417 100 10.164.298.198 100
 Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Phòng
23TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Số dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực 
công nghiệp hiện đang chiếm tỷ trọng 
lớn nhất 69% tương đương khoảng 
gần 300 dự án. Đứng thứ 2 là lĩnh vực 
khách sạn, dịch vụ giáo dục với khoảng 
gần 60 dự án chiếm trên 13% tổng số 
dự án. Thứ 3 là lĩnh vực vận tải, nông 
nghiệp, thương mại với gần 50 dự án 
chiếm gần 12% tổng số dự án đầu tư. 
Thứ 4 là lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh 
doanh bất động sản với 25 dự án chiếm 
6% tổng số dự án.
Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Phòng
Cũng giống như tỷ trọng về số dự án 
theo lĩnh vực đầu tư thì đứng đầu về số 
vốn là lĩnh vực công nghiệp, chiếm tới 
68% tổng số vốn tương đương gần 6.9 
tỷ USD. Lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh 
doanh bất động sản tuy số dự án đứng 
thứ 4 với khoảng 25 dự án, nhưng vì đặc 
thù của lĩnh vực kinh doanh này nên số 
vốn đầu tư tương đối lớn khoảng gần 
1.9 tỷ USD chiếm khoảng 19%. Thứ 
3 là lĩnh vực khách sạn, dịch vụ, giáo 
dục với số vốn đầu tư hơn 1.1. tỷ chiếm 
trên 11%. Tiếp theo là lĩnh vực vận tải, 
nông nghiệp, thương mại với trên 250 
triệu USD chiếm hơn gần 2.5% tổng số 
vốn đầu tư.
Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Phòng
Đứng đầu về số vốn và số dự án FDI 
tại Hải Phòng là nhà đầu tư Nhật Bản với 
khoảng trên 120 dự án với tổng số vốn 
đầu tư lên tới gần 3.8 tỷ USD. Đứng thứ 
2 là nhà đầu tư Hàn Quốc với gần 60 dự 
án chiếm tổng lượng vốn đầu tư gần 3 tỷ 
USD. Thứ 3 là nguồn vốn đầu tư từ Đài 
Loan với trên 40 dự án với tổng số vốn hơn 
700 triệu USD. Tiếp theo là các nhà đầu tư 
Hồng kong, Mỹ, Trung quốc, Singapore, 
Bỉ, Hà Lan, Australia,
2.2.2. Một số vấn đề về trách nhiệm xã 
hội đối với người lao động tại các doanh 
nghiệp FDI Hải Phòng 
2.2.2.1. Thực hiện hợp đồng lao động
Tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát 
tại 42 doanh nghiệp FDI với 600 công 
nhân trên địa bàn thành phố về một số vấn 
đề liên quan đến trách nhệm xã hội doanh 
nghiệp, và kết quả về vấn đề thực hiện hợp 
đồng lao động tại các doanh nghiệp này 
được thể hiện qua biểu đồ sau:
24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng, 
tỷ lệ người lao động được ký hợp đồng 
không xác định thời hạn là 52.8%, tỷ lệ 
người lao động được ký hợp đồng với thời 
hạn từ 1 tới 3 năm chiếm 35.7%, Loại hợp 
đồng lao động có thời hạn dưới 1 năm 
là thấp nhất chiếm 11.5%. Với tỷ lệ các 
loại HĐLĐ như trên, cho thấy các doanh 
nghiệp FDI Hải Phòng cũng đang có một 
số lượng lao động dài hạn tương đối, tạo 
sự ổn định về việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh đó tình hình biến 
động lao động của các doanh nghiệp FDI 
tại Hải Phòng là tương đối lớn, mặc dù lao 
động tăng thêm hàng năm khoảng 10%, 
nhưng biên độ biến động lao động (vào - 
ra) trong các DN lên tới 50 - 60% (tuyển 
vào 30 - 35%/năm - ra khỏi DN 20 -25%/
năm), thậm chí có DN lên tới 70%, làm 
cho DN vừa thiếu lao động, vừa không có 
lao động ổn định để đảm bảo sản xuất.
Qua khảo sát cho thấy, 73% lao động 
rời khỏi DN là tự bỏ việc, nhiều DN lao 
động bỏ việc hàng loạt nhất là trong các 
dịp nghỉ lễ, Tết không trở lại làm việc; lý 
do tự bỏ việc 80% là do thu nhập không 
đảm bảo cuộc sống (cho bản thân, tích luỹ 
giúp gia đình) hoặc tìm được công việc 
khác ở DN khác có thu nhập cao hơn, trên 
2/3 lao động được điều tra đã từng thay 
đổi nơi làm việc ít nhất 1 lần. Trong đó, 
53% đã từng thay đổi nơi làm việc 2 - 3 
lần, gần 10% đã từng làm ở 4 DN trở lên. 
Một khía cạnh khác cũng chưa được 
quan tâm bởi cả DN và NLĐ là vấn đề liên 
quan đến bảo mật thông tin cá nhân khi ký 
HĐLĐ. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế 
(ILO), người sử dụng lao động (NSDLĐ) 
thường tập hợp các thông tin cá nhân của 
những người xin việc và NLĐ của DN 
vì một số mục đích, như: tuân thủ pháp 
luật; hỗ trợ lựa chọn việc làm, đào tạo và 
thăng tiến; để đảm bảo an toàn cá nhân, an 
ninh cá nhân, kiểm soát chất lượng, dịch 
vụ khách hàng và bảo vệ tài sản. Nhiều 
luật quốc gia và các tiêu chuẩn quốc tế 
đã thiết lập quy trình ràng buộc để xử lý 
dữ liệu cá nhân. Các hệ thống thông tin 
nhân sự tự động, giám sát điện tử, sàng 
lọc di truyền và xét nghiệm ma túy minh 
họa nhu cầu phát triển các quy định bảo 
vệ dữ liệu nhằm giải quyết vấn đề sử dụng 
dữ liệu cá nhân của NLĐ để bảo vệ nhân 
phẩm của NLĐ, bảo vệ sự riêng tư và bảo 
đảm quyền cơ bản để xác định ai có thể sử 
dụng những dữ liệu nào cho những mục 
đích và điều kiện nào. Vì vậy, theo ILO, 
các yêu cầu về bảo mật thông tin cá nhân 
cũng là một trong những nội dung gần như 
bắt buộc phải ghi trong HĐLĐ để đảm bảo 
tính bảo mật của những thông tin về NLĐ 
mà NSDLĐ thu thập được.
Tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng, 
25TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
trong HĐLĐ chưa đưa điều khoản quy 
định về bảo mật thông tin cá nhân của 
NLĐ khi họ cung cấp các thông tin này. 
Thực tế, bảo mật thông tin của cá nhân 
NLĐ chưa thực sự được chính NLĐ quan 
tâm, NLĐ vẫn tự mặc định rằng cung cấp 
thông tin cá nhân cho bên sử dụng lao 
động là điều hiển nhiên và cũng không 
chú ý đến cam kết bảo mật thông tin cá 
nhân trong HĐLĐ.
2.2.2.2. Đảm bảo an toàn lao động, vệ 
sinh lao động
Công tác huấn luyện an toàn lao động
Công tác huấn luyện an toàn lao động 
(ATLĐ) dù đã trở thành quy định bắt buộc 
đối với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao 
động, nhưng trên thực tế vẫn còn không 
ít doanh nghiệp tổ chức mang tính chất 
đối phó trong hoạt động này. Theo báo 
cáo từ Sở Lao động – Thương binh và xã 
hội Hải Phòng, trong 6 tháng cuối năm 
2019, Thanh tra Sở đã thực hiện thanh tra 
việc chấp hành các quy định của pháp luật 
lao động tại 55 đơn vị. Qua thanh tra phát 
hiện 736 sai phạm, trong đó nhiều doanh 
nghiệp, tổ chức vi phạm vì không tổ 
chức huấn luyện an toàn vệ sinh lao động 
(ATVSLĐ) theo quy định. Qua công tác 
thanh tra, kiểm tra cho thấy, có tình trạng 
doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức, cá nhân 
người sử dụng lao động biết các quy định 
huấn luyện ATVSLĐ, nhưng vẫn vi phạm, 
lơ là, thiếu quan tâm. Có doanh nghiệp 
lấy lý do văn bản pháp luật thay đổi nhiều 
chưa kịp cập nhật; có doanh nghiệp cho 
rằng công việc đặc thù liên tục, khó tập 
trung người lao động nên tổ chức giám 
sát đột xuất, nhắc nhở người lao động mà 
không tổ chức huấn luyện Qua thanh 
tra, kiểm tra cũng cho thấy nhận thức và 
ý thức chấp hành của người sử dụng lao 
động về các quy định của pháp luật trong 
lĩnh vực ATVSLĐ chưa cao, nhất là đối 
với người sử dụng lao động trong các 
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều doanh 
nghiệp, tổ chức, đơn vị cắt giảm một phần 
chi phí cho công tác ATVSLĐ.
Qua quá trình điều tra 600 công nhân 
tại 42 doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành 
phố Hải Phòng, tác giả thu được số liệu 
như sau: 55% NLĐ được huấn luyện về 
an toàn lao động, 35% NLĐ không được 
huấn luyện về an toàn lao động, và 10% 
NLĐ Không có câu trả lời.
Qua số liệu trên cho thấy, số lượng lao 
động không được huấn luyện về an toàn 
lao động tại các doanh nghiệp FDI trên địa 
bàn thành phố vẫn chiếm tỷ lệ tương đối 
cao 35%.
Việc không tổ chức huấn luyện về 
ATVSLĐ của doanh nghiệp, người sử 
dụng lao động dễ dẫn đến hậu quả người 
lao động thiếu hiểu biết, thiếu các kỹ năng 
bảo đảm an toàn khi lao động.
26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Hậu quả lớn nhất là người lao động gặp 
tai nạn, bị thương tích, thậm chí tử vong. 
Số liệu thống kê 6 tháng cuối năm 2019 
của Sở Lao động - Thương binh xã hội cho 
thấy, tổng số tiền các doanh nghiệp chi phí 
cho 10 vụ tai nạn lao động và tai nạn giao 
thông (đã được điều tra, kết luận, bao gồm 
cả một số vụ của năm 2018) là hơn 2,75 tỷ 
đồng. Các doanh nghiệp còn phải hoàn tất 
các thủ tục để giải quyết chế độ, quyền lợi 
cho người bị nạn và 26 thân nhân của họ 
được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội với 
kinh phí nhiều tỷ đồng. Rõ ràng chi phí để 
giải quyết tai nạn và các chế độ liên quan 
cao gấp nhiều lần chi phí cho công tác 
huấn luyện ATVSLĐ cho người lao động.
Có một thực tế, khi thanh tra, kiểm tra 
doanh nghiệp là ra vi phạm, trung bình 
mỗi doanh nghiệp, tổ chức có hơn 13 
sai phạm (736 sai phạm/55 đơn vị). Lực 
lượng thanh tra, kiểm tra của Sở Lao động 
- Thương binh xã hội và các đoàn kiểm 
tra liên ngành thành phố nhiều nhất mỗi 
năm cũng chỉ thanh tra, kiểm tra được 
không quá 300 doanh nghiệp, tổ chức, đơn 
vị trong khi toàn thành phố có đến hơn 3 
vạn doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị ở các 
loại hình kinh tế. Ngoài thanh tra, kiểm 
tra trực tiếp, Sở Lao động - Thương binh 
xã hội phát phiếu tự kiểm tra về pháp luật 
lao động mỗi năm khoảng 500-800 doanh 
nghiệp. Việc tự kiểm tra phụ thuộc vào ý 
thức tự giác của doanh nghiệp là chính. Vì 
vậy, để hạn chế các vi phạm pháp luật về 
lao động, cần tuyên truyền, phổ biến các 
văn bản, các quy định, hướng dẫn về công 
tác ATVSLĐ tới người lao động và chủ 
sử dụng lao động. Đồng thời, tăng cường 
công tác thanh tra, kiểm tra nhất là với 
những doanh nghiệp có nguy cơ cao về 
mất an toàn lao động để kịp thời phát hiện 
vi phạm, qua đó hướng dẫn chấn chỉnh các 
doanh nghiệp, ngăn chặn, xử lý kịp thời, 
hạn chế hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Công tác tổ chức khám sức khoẻ 
định kì cho người lao động
Theo Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao 
động 2015 quy định rõ trách nhiệm người 
sử dụng lao động bắt buộc phải khám 
sức khỏe định kỳ cho nhân viên. Theo 
đó: Doanh nghiệp phải tổ chức khám sức 
khỏe ít nhất một lần/năm; Đối với người 
làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, 
nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc 
hại, nguy hiểm; người khuyết tật; lao động 
chưa thành niên; lao động cao tuổi được 
khám sức khỏe ít nhất 06 tháng một lần.
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này tại 
các doanh nghiệp nói chung và các doanh 
nghiệp FDI Hải Phòng vẫn còn rất nhiều 
vấn đề bất cập như: Nhiều doanh nghiệp 
không tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho 
người lao động; Chất lượng khám và chữa 
bệnh còn nhiều hạn chế, công nhân không 
quan tâm nhiều tới vấn đề này, .
Theo kết quả khảo sát 600 công nhân 
tại 42 doanh nghiệp FDI trên địa bàn 
thành phố cho thấy: 58% NLĐ được khám 
sức khỏe định kỳ, 34% NLĐ Không được 
khám sức khỏe định kỳ, 8% NLĐ không 
quan tâm.
Khi được hỏi về vấn đề khám sức khỏe 
định kỳ, một số công nhân cho biết: “Vào 
đây làm chủ yếu kiếm tiền nuôi vợ con 
chứ chưa nghĩ đến mấy cái đó? Chúng 
tôi cũng chưa khi nào đi khám sức khỏe 
27TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
định kỳ ở bệnh viện và cũng không biết 
ở đâu có chức năng khám phát hiện bệnh 
nghề nghiệp. Tôi nghĩ công nhân trong 
khu công nghiệp này ít người quan tâm tới 
vấn đề sức khỏe, bệnh nghề nghiệp. Khi 
có bác sĩ về khám tại công ty thì chúng tôi 
mới được đo huyết áp, thị lực... nhưng ít 
lắm”. Cũng nhiều ý kiến cho rằng: “Chỉ 
khi nào ốm đau, bệnh nặng thì tự bản thân 
sẽ đi bệnh viện khám và chữa trị. Công ty 
có phòng y tế nhưng chỉ khi nào có sự cố 
sức khỏe ngay tại nơi làm việc, công nhân 
mới đến gặp y tá để được sơ cứu”.
Một trong số những lý do khiến NLĐ 
ít quan tâm tới sức khỏe nghề nghiệp của 
bản thân bởi công tác tuyên truyền từ các 
cơ quan, ban, ngành còn hạn chế, trong 
khi hoạt động công đoàn bảo vệ quyền lợi 
cho người lao động trên lĩnh vực sức khỏe 
vẫn chưa hiệu quả, chưa là chỗ dựa đáng 
tin cậy cho người lao động.
2.2.2.3. Tạo cơ hội nâng cao trình độ 
chuyên môn nghiệp vụ
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài hiện đã và đang góp phần tích cực 
giải quyết việc làm và tạo thu nhập ổn 
định cho lực lượng lao động của thành phố 
Hải Phòng và một số địa phương lân cận. 
Theo thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu 
tư Hải Phòng thì số người lao động làm 
việc tại các doanh nghiệp FDI trên toàn 
thành phố sau hơn 30 năm thực hiện chủ 
trương thu hút đầu tư đã là hơn 160.000 
người. Ngoài việc tạo công ăn việc làm, 
ổn định an sinh xã hội, các doanh nghiệp 
FDI còn có thể tạo cơ hội cho lực lượng 
cán bộ, công nhân Việt Nam có điều kiện 
tiếp cận, học hỏi và tiếp thu kỹ thuật mới, 
công nghệ mới, cách thức điều hành và 
quản lý tiên tiến, tác phong công nghiệp 
và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp 
vụ. Thông qua đội ngũ lao động này cũng 
tác động đến các doanh nghiệp khác trong 
việc nâng cao trình độ công nghệ, thiết bị 
chung của các doanh nghiệp Hải Phòng. 
Đó sẽ là nguồn lực đáng quý phục vụ cho 
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
của thành phố.
Nhìn chung, tất cả các lao động được 
tuyển dụng vào các doanh nghiệp FDI đều 
được đào tạo hoặc đào tạo bổ sung, do vậy, 
khu vực FDI góp phần tạo ra lực lượng 
lao động lành nghề cho thành phố. Nhiều 
doanh nghiệp còn đưa những lao động 
chủ chốt đi đào tạo tại nước ngoài như Cơ 
khí Việt - Nhật, San Miguel Yamamura 
Hải Phòng, LS-VINA, Tohoku Pioneer, 
Bridgestone, Toyota Nankai Hải Phòng... 
Một điều quan trọng là lực lượng lao động 
quản lý đã tiếp thu được phương cách 
quản lý tiên tiến của các doanh nghiệp 
nước ngoài, phù hợp với cơ chế thị trường.
Có thể thấy, tập trung nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ 
28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
công nhân lành nghề, có tác phong công 
nghiệp, có hiệu quả và năng suất lao 
động cao.
Đồng thời, từng bước nâng cao nhận 
thức, vai trò trách nhiệm của các bên trong 
việc thực hiện pháp luật lao động và xây 
dựng quan hệ lao động hài hòa cũng là 
một thế mạnh, cạnh tranh trong thu hút 
đầu tư nước ngoài.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu đã chỉ ra TNXH đối với 
NLĐ tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng 
thời gian qua được thực hiện tốt ở nhiều 
khía cạnh như: 
- Số lượng lao động được ký hợp 
đồng dài hạn với doanh nghiệp là tương 
đối lớn
- Đa số các doanh nghiệp đã tổ chức 
huấn luyện an toàn lao động cho người lao 
động trong doanh nghiệp
- Hầu hết các doanh nghiệp đều tổ chức 
khám sức khỏe định kỳ cho người lao động
- Công tác đào tạo nâng cao trình 
độ cho người lao động được tổ chức khá 
tốt, hầu hết người lao động khi được tuyển 
dụng vào doanh nghiệp đều được đào tạo 
và đào tạo bổ sung, nhiều doanh nghiệp 
còn đưa những lao động chủ chốt đi đào 
tạo tại nước ngoài
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích 
cực đã đạt được, vẫn tồn tại một số hạn 
chế trong TNXH đối với NLĐ tại các 
doanh nghiệp FDI Hải Phòng như:
- Về thực hiện HĐLĐ: HĐLĐ chưa đề 
cao cam kết bảo mật thông tin cho NLĐ 
trong HĐLĐ. 
- Về đảm bảo An toàn vệ sinh lao 
động: Tập huấn an toàn vệ sinh lao động 
còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa được 
tổ chức thường xuyên, định kỳ theo đúng 
quy định tại Bộ Luật Lao động năm 2012. 
Tai nạn lao động có dấu hiệu tăng, công 
tác khám sức khỏe cho người lao động còn 
sơ sài và không đảm bảo chất lượng, bệnh 
nghề nghiệp vẫn tồn tại. 
- Về đào tạo nâng cao trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ: Số lượng NLĐ được tham 
gia đào tạo chuyên sâu tại nước ngoài còn 
chưa cao.
Từ những hạn chế nêu trên, nghiên cứu 
này đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao 
TNXH đối với NLĐ tại các doanh nghiệp 
FDI Hải Phòng như sau:
Một là, bổ sung điều khoản bảo mật 
thông tin cá nhân trong HĐLĐ nhằm đảm 
bảo quyền lợi cho NLĐ.
Hai là, tăng cường thực hiện các biện 
pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh 
lao động như thực hiện đồng thời biện 
pháp kỹ thuật, y tế và trang thiết bị phòng 
hộ - vệ sinh lao động để dự phòng bệnh 
nghề nghiệp; tích cực tuyên truyền và phổ 
biến pháp luật lao động, phòng chống tai 
nạn lao động nhằm giảm thiểu tai nạn lao 
động; Cập nhật hệ thống quản lý an toàn 
sức khoẻ lao động ISO 45001.
Ba là, tổ chức các khoá đào tạo theo 
phương thức đào tạo trực tuyến E-learning 
để nhân rộng số lượng người học, tiết 
kiệm chi phí;
Bốn là, xây dựng chương trình đào tạo 
dựa theo nhu cầu và trình độ NLĐ thông 
qua khung năng lực cá nhân.
29TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Năm là, nâng cao nhận thức về TNXH 
đối với NLĐ cho các nhà quản trị, chính 
NLĐ để đảm bảo tốt hơn quyền lợi và 
nghĩa vụ đối với NLĐ.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đề xuất một 
số kiến nghị đến Nhà nước như hình thành 
các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử về TNXH 
đối với NLĐ mang tầm ngành và quốc 
gia; Tăng cường sự hỗ trợ từ Chính phủ và 
các cơ quan quản lý vĩ mô trong thực hiện 
và nâng cao TNXH đối với NLĐ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aguilera Ruth V., Deborah E. Rupp, Cynthia A. 
Williams & Yyoti Ganapathi (2007), Putting 
the S back in corporate social responsibility: 
A multilevel theory of social change in 
organizations, Academy of Management 
Review, Vol. 32, No. 3, 836–863.
2. Bowen H R. (1953), Social Responsibility of 
Businessman, Harper & Row, New York.
3. Carroll, A. B. (1991), The pyramid of corporate 
social responsibility: Toward the moral 
management of organizational stakeholders, 
Business Horizons, 34, 39,
4. Carroll, A. B. (2008), ‘A History of Corporate 
Social Responsibility: Concepts and Practices, 
in A. Crane et al. (eds.)’, The Oxford Handbook 
of Corporate Social Responsibility, Oxford 
University Press, New York, pp. 19-
5. CIEM, DoE, ILSSA và UNU-WIDER (2012), 
Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam 
- Kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa 
năm 2011, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
6. Heslin Peter A. & Jenna D. Ochoa 
(2008), ‘Understanding and Developing Strategic 
Corporate Social Responsibility’, Organizational 
Dynamics, Vol. 37, pp. 125-14
7. Nguyễn Ngọc Thắng (2015), Trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp, NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội, Hà Nội.
8. Quốc hội (2012), Luật số: 10/2012/QH13, 
ngày 18/6/2012, Bộ Luật lao động.
9. Sharfman, M. (1994), ‘Changing institutional 
roles: The evolution of corporate philanthropy, 
1883 – 1953’, Business and Society, 33(3), 236.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_van_de_ve_trach_nhiem_xa_hoi_doi_voi_nguoi_lao_dong_t.pdf