KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu đã chỉ ra TNXH đối với
NLĐ tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng
thời gian qua được thực hiện tốt ở nhiều
khía cạnh như:
- Số lượng lao động được ký hợp
đồng dài hạn với doanh nghiệp là tương
đối lớn
- Đa số các doanh nghiệp đã tổ chức
huấn luyện an toàn lao động cho người lao
động trong doanh nghiệp
- Hầu hết các doanh nghiệp đều tổ chức
khám sức khỏe định kỳ cho người lao động
- Công tác đào tạo nâng cao trình
độ cho người lao động được tổ chức khá
tốt, hầu hết người lao động khi được tuyển
dụng vào doanh nghiệp đều được đào tạo
và đào tạo bổ sung, nhiều doanh nghiệp
còn đưa những lao động chủ chốt đi đào
tạo tại nước ngoài
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực đã đạt được, vẫn tồn tại một số hạn
chế trong TNXH đối với NLĐ tại các
doanh nghiệp FDI Hải Phòng như:
- Về thực hiện HĐLĐ: HĐLĐ chưa đề
cao cam kết bảo mật thông tin cho NLĐ
trong HĐLĐ.
- Về đảm bảo An toàn vệ sinh lao
động: Tập huấn an toàn vệ sinh lao động
còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa được
tổ chức thường xuyên, định kỳ theo đúng
quy định tại Bộ Luật Lao động năm 2012.
Tai nạn lao động có dấu hiệu tăng, công
tác khám sức khỏe cho người lao động còn
sơ sài và không đảm bảo chất lượng, bệnh
nghề nghiệp vẫn tồn tại.
- Về đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ: Số lượng NLĐ được tham
gia đào tạo chuyên sâu tại nước ngoài còn
chưa cao.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 423 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp FDI tại Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI HẢI PHÒNG
Nguyễn Thị Thu Thủy
Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh
Email: thuyntt86@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 03/7/2020
Ngày PB đánh giá: 17/8/2020
Ngày duyệt đăng: 20/8/2020
TÓM TẮT
Bài viết đánh giá thực trạng trách nhiệm xã hội (TNXH) đối với người lao động (NLĐ) tại các doanh
nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hải Phòng qua 3 nội dung: Thực hiện hợp đồng lao động (HĐLĐ);
Đảm bảo an toàn lao động (ATLĐ), vệ sinh lao động (VSLĐ); Tạo cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy một số điều khoản nội dung Hợp đồng lao động (HĐLĐ) vẫn còn chưa rõ
ràng, HĐLĐ chưa đề cao cam kết bảo mật thông tin cho NLĐ; Tai nạn lao động có dấu hiệu tăng, bệnh
nghề nghiệp vẫn tồn tại; tỷ lệ NLĐ được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao.
Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao TNXH đối với NLĐ tại các doanh nghiệp FDI Hải
Phòng và kiến nghị với Nhà nước trong hỗ trợ thực hiện TNXH đối với NLĐ.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội, người lao động, doanh nghiệp FDI Hải Phòng.
SOME ISSUES OF SOCIAL RESPONSIBILITY FOR EMPLOYEES
IN FDI ENTERPRISES IN HAI PHONG
ABSTRACT
The article assesses the current situation of social responsibility for employees in FDI enterprises in
Hai Phong city through 3 things: Performing labor contracts; ensuring labor safety and hygiene; and
creating opportunities to improve professional qualifications.
Research results show that some terms of the labor contract are still unclear and the labor contract
does not attach importance to committing information confidentiality for employees; Furthermore,
the number of labor accidents tend to increase, occupational diseases still exist, and the percentage of
employees who have their professional qualifications improved is not high.
Hence, the study proposes some solutions on improving social responsibility for employees in Hai
Phong FDI enterprises and recommends the government to support the implementation of social
responsibility for employees.
Keywords: Social responsibility, Employees, Hai Phong FDI enterprises.
1. MỞ ĐẦU
Hải Phòng là thành phố cảng, trung
tâm công nghiệp, dịch vụ, đầu mối giao
thông quan trọng về đường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa, đường biển và
đường hàng không. Với lợi thế này, Hải
Phòng là một trong số ít địa phương đi
đầu và sớm đón nhận nguồn vốn đầu tư
21TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
trực tiếp nước ngoài (FDI). Vốn FDI vào
Hải Phòng đã và đang là nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho phát triển kinh tế
xã hội, đóng góp vào ngân sách, tăng
năng lực xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động Tuy nhiên,
đó cũng là khởi nguồn gây ra một số vấn
đề nan giải cho các doanh nghiệp, cho
thành phố Hải Phòng nói riêng và cho
toàn xã hội nói chung.
Trách nhiệm xã hội đối với người lao
động, môi trường, cũng như những gì
mà guồng quay kinh tế khổng lồ ấy ảnh
hưởng tới trong quá trình phát triển của
nó. Những vấn đề đó đang ngày càng trở
nên bức thiết, và cái giá phải trả sẽ là rất
đắt nếu chúng ta không có hướng giải
quyết một cách triệt để và kịp thời.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát về trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội (CSR)
Ngày nay, một bộ phận quan trọng
để khẳng định một doanh nghiệp có đạo
đức chính là việc thực hiện trách nhiệm
xã hội doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility – CSR). Đã có rất nhiều
quan điểm khác nhau về CSR, tuy nhiên
cho đến nay, định nghĩa của nhóm phát
triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế
giới về CSR được cho là hoàn chỉnh và
rõ ràng nhất về CSR: “Trách nhiệm xã
hội doanh nghiệp là sự cam kết của do-
anh nghiệp đóng góp vào việc phát triển
kinh tế bền vững, thông qua những hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng đời
sống của người lao động và thành viên
gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã
hội theo cách có lợi nhất cho cả doanh
nghiệp cũng như phát triển chung của xã
hội” (www.worldbank .org/privatesec-
tot/csr/index.htm)
Khái niệm trên đã chỉ ra rằng, CSR
là vấn đề liên quan đến nhiều thành phần
khác nhau trong xã hội, từ người tiêu thụ
trực tiếp cho tới nhà cung cấp nguyên
vật liệu; từ người lao động cho tới
những cổ đông doanh nghiệp, cả những
nhà đầu tư, các đối tác làm ăn cũng như
các tổ chức thương mại, chính quyền địa
phương có cũng có mối quan hệ chặt chẽ
với dân cư xung quanh doanh nghiệp đặt
trụ sở.
2.1.2. Nội dung và các tiêu chí đánh giá
trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
đối với người lao động trước hết cần xuất
phát từ việc tuân thủ các quy định của
pháp luật nước sở tại, đồng thời phù hợp
với các tiêu chuẩn quốc tế trong điều kiện
toàn cầu hóa hiện nay.
Theo đó, nghiên cứu này xây dựng
nội dung trách nhiệm xã hội đối với
người lao động từ một số quy định của
Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012
và các bộ tiêu chuẩn quốc tế về TNXH
như SA8000, ISO26000, mô hình kim tự
tháp Carroll
Trong nghiên cứu này chỉ tập trung chủ
yếu các khía cạnh sau: (1) Thực hiện hợp
đồng lao động; (2) Đảm bảo an toàn, vệ
sinh lao động; (3) Tạo cơ hội nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ như bảng sau:
22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Bảng 1. Nội dung và các tiêu chí đánh giá trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Nội dung TNXH đối với NLĐ Các tiêu chí đánh giá
Thực hiện HĐLĐ
- Tỷ lệ ký kết HĐLĐ
- Nội dung HĐLĐ có đề cấp đến bảo mật thông tin
cá nhân
Đảm bảo an toàn lao động, vệ
sinh lao động
- Tỷ lệ huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động
- Số người lao động được khám sức khoẻ định kì
Tạo cơ hội nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ
- Tỷ lệ bình quân NLĐ được bồi dưỡng nâng cao
CMNV;
- Chi phí dành cho bồi dưỡng CMNV bình quân theo
đầu người/ năm.
(Nguồn: [8], [3], [9], ISO 26000:2010)
2.2 Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội
đối với người lao động tại các doanh
nghiệp FDI Hải Phòng
2.2.1 Tổng quan về các doanh nghiệp FDI
Hải Phòng
Dự án FDI đầu tiên của Hải Phòng là
vào năm 1989, trong giai đoạn 1989-1991
nguồn vốn FDI vào Hải Phòng còn chưa
nhiều (khoảng gần 22 triệu USD), chủ yếu
các dự án có qui mô nhỏ, tính khả thi thấp
nên hầu hết phải chấm dứt hoạt động và
rút giấy phép đầu tư trước thời hạn. Từ
năm 1992, thu hút FDI của Hải Phòng đạt
được tốc độ tăng khá cả về số dự án và
số vốn đăng ký, đặc biệt trong giai đoạn
2011-2015, thành phố đã có những bước
đột phá mạnh mẽ với hơn 400 dự án với
tổng vốn hơn 10 tỷ đồng, trong đó có
nhiều dự án đầu tư của các doanh nghiệp,
tập đoàn lớn trên thế giới như Bridges-
tone, Nipro Pharma, Fuji Xerox, LG,
Khu vực FDI đã góp phần quan trọng vào
việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của thành phố, đặc biệt là đóng góp
trong GDP, thu nội địa và xuất khẩu, tạo ra
nhiều việc làm và góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Bảng 2. Số dự án và số vốn FDI tại Hải Phòng còn hiệu lực
đến 31/12/2019 theo lĩnh vực đầu tư
TT Lĩnh vực đầu tư
Số dự
án
% số
dự án
Số vốn đầu tư
(USD)
% vốn
đầu tư
1 Công nghiệp 288 69,06 6.897.235.900 67,857
2
Cơ sở hạ tầng - Kinh doanh bất động
sản
25 6,00 1.880.915.436 18,505
3 Khách sạn, dịch vụ, giáo dục 56 13,43 1.135.883.443 11,175
4 Vận tải, nông nghiệp, thương mại 48 11,51 250.263.419 2,462
Tổng số 417 100 10.164.298.198 100
Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Phòng
23TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Số dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực
công nghiệp hiện đang chiếm tỷ trọng
lớn nhất 69% tương đương khoảng
gần 300 dự án. Đứng thứ 2 là lĩnh vực
khách sạn, dịch vụ giáo dục với khoảng
gần 60 dự án chiếm trên 13% tổng số
dự án. Thứ 3 là lĩnh vực vận tải, nông
nghiệp, thương mại với gần 50 dự án
chiếm gần 12% tổng số dự án đầu tư.
Thứ 4 là lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh
doanh bất động sản với 25 dự án chiếm
6% tổng số dự án.
Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Phòng
Cũng giống như tỷ trọng về số dự án
theo lĩnh vực đầu tư thì đứng đầu về số
vốn là lĩnh vực công nghiệp, chiếm tới
68% tổng số vốn tương đương gần 6.9
tỷ USD. Lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh
doanh bất động sản tuy số dự án đứng
thứ 4 với khoảng 25 dự án, nhưng vì đặc
thù của lĩnh vực kinh doanh này nên số
vốn đầu tư tương đối lớn khoảng gần
1.9 tỷ USD chiếm khoảng 19%. Thứ
3 là lĩnh vực khách sạn, dịch vụ, giáo
dục với số vốn đầu tư hơn 1.1. tỷ chiếm
trên 11%. Tiếp theo là lĩnh vực vận tải,
nông nghiệp, thương mại với trên 250
triệu USD chiếm hơn gần 2.5% tổng số
vốn đầu tư.
Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Phòng
Đứng đầu về số vốn và số dự án FDI
tại Hải Phòng là nhà đầu tư Nhật Bản với
khoảng trên 120 dự án với tổng số vốn
đầu tư lên tới gần 3.8 tỷ USD. Đứng thứ
2 là nhà đầu tư Hàn Quốc với gần 60 dự
án chiếm tổng lượng vốn đầu tư gần 3 tỷ
USD. Thứ 3 là nguồn vốn đầu tư từ Đài
Loan với trên 40 dự án với tổng số vốn hơn
700 triệu USD. Tiếp theo là các nhà đầu tư
Hồng kong, Mỹ, Trung quốc, Singapore,
Bỉ, Hà Lan, Australia,
2.2.2. Một số vấn đề về trách nhiệm xã
hội đối với người lao động tại các doanh
nghiệp FDI Hải Phòng
2.2.2.1. Thực hiện hợp đồng lao động
Tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát
tại 42 doanh nghiệp FDI với 600 công
nhân trên địa bàn thành phố về một số vấn
đề liên quan đến trách nhệm xã hội doanh
nghiệp, và kết quả về vấn đề thực hiện hợp
đồng lao động tại các doanh nghiệp này
được thể hiện qua biểu đồ sau:
24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng,
tỷ lệ người lao động được ký hợp đồng
không xác định thời hạn là 52.8%, tỷ lệ
người lao động được ký hợp đồng với thời
hạn từ 1 tới 3 năm chiếm 35.7%, Loại hợp
đồng lao động có thời hạn dưới 1 năm
là thấp nhất chiếm 11.5%. Với tỷ lệ các
loại HĐLĐ như trên, cho thấy các doanh
nghiệp FDI Hải Phòng cũng đang có một
số lượng lao động dài hạn tương đối, tạo
sự ổn định về việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh đó tình hình biến
động lao động của các doanh nghiệp FDI
tại Hải Phòng là tương đối lớn, mặc dù lao
động tăng thêm hàng năm khoảng 10%,
nhưng biên độ biến động lao động (vào -
ra) trong các DN lên tới 50 - 60% (tuyển
vào 30 - 35%/năm - ra khỏi DN 20 -25%/
năm), thậm chí có DN lên tới 70%, làm
cho DN vừa thiếu lao động, vừa không có
lao động ổn định để đảm bảo sản xuất.
Qua khảo sát cho thấy, 73% lao động
rời khỏi DN là tự bỏ việc, nhiều DN lao
động bỏ việc hàng loạt nhất là trong các
dịp nghỉ lễ, Tết không trở lại làm việc; lý
do tự bỏ việc 80% là do thu nhập không
đảm bảo cuộc sống (cho bản thân, tích luỹ
giúp gia đình) hoặc tìm được công việc
khác ở DN khác có thu nhập cao hơn, trên
2/3 lao động được điều tra đã từng thay
đổi nơi làm việc ít nhất 1 lần. Trong đó,
53% đã từng thay đổi nơi làm việc 2 - 3
lần, gần 10% đã từng làm ở 4 DN trở lên.
Một khía cạnh khác cũng chưa được
quan tâm bởi cả DN và NLĐ là vấn đề liên
quan đến bảo mật thông tin cá nhân khi ký
HĐLĐ. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO), người sử dụng lao động (NSDLĐ)
thường tập hợp các thông tin cá nhân của
những người xin việc và NLĐ của DN
vì một số mục đích, như: tuân thủ pháp
luật; hỗ trợ lựa chọn việc làm, đào tạo và
thăng tiến; để đảm bảo an toàn cá nhân, an
ninh cá nhân, kiểm soát chất lượng, dịch
vụ khách hàng và bảo vệ tài sản. Nhiều
luật quốc gia và các tiêu chuẩn quốc tế
đã thiết lập quy trình ràng buộc để xử lý
dữ liệu cá nhân. Các hệ thống thông tin
nhân sự tự động, giám sát điện tử, sàng
lọc di truyền và xét nghiệm ma túy minh
họa nhu cầu phát triển các quy định bảo
vệ dữ liệu nhằm giải quyết vấn đề sử dụng
dữ liệu cá nhân của NLĐ để bảo vệ nhân
phẩm của NLĐ, bảo vệ sự riêng tư và bảo
đảm quyền cơ bản để xác định ai có thể sử
dụng những dữ liệu nào cho những mục
đích và điều kiện nào. Vì vậy, theo ILO,
các yêu cầu về bảo mật thông tin cá nhân
cũng là một trong những nội dung gần như
bắt buộc phải ghi trong HĐLĐ để đảm bảo
tính bảo mật của những thông tin về NLĐ
mà NSDLĐ thu thập được.
Tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng,
25TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
trong HĐLĐ chưa đưa điều khoản quy
định về bảo mật thông tin cá nhân của
NLĐ khi họ cung cấp các thông tin này.
Thực tế, bảo mật thông tin của cá nhân
NLĐ chưa thực sự được chính NLĐ quan
tâm, NLĐ vẫn tự mặc định rằng cung cấp
thông tin cá nhân cho bên sử dụng lao
động là điều hiển nhiên và cũng không
chú ý đến cam kết bảo mật thông tin cá
nhân trong HĐLĐ.
2.2.2.2. Đảm bảo an toàn lao động, vệ
sinh lao động
Công tác huấn luyện an toàn lao động
Công tác huấn luyện an toàn lao động
(ATLĐ) dù đã trở thành quy định bắt buộc
đối với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao
động, nhưng trên thực tế vẫn còn không
ít doanh nghiệp tổ chức mang tính chất
đối phó trong hoạt động này. Theo báo
cáo từ Sở Lao động – Thương binh và xã
hội Hải Phòng, trong 6 tháng cuối năm
2019, Thanh tra Sở đã thực hiện thanh tra
việc chấp hành các quy định của pháp luật
lao động tại 55 đơn vị. Qua thanh tra phát
hiện 736 sai phạm, trong đó nhiều doanh
nghiệp, tổ chức vi phạm vì không tổ
chức huấn luyện an toàn vệ sinh lao động
(ATVSLĐ) theo quy định. Qua công tác
thanh tra, kiểm tra cho thấy, có tình trạng
doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức, cá nhân
người sử dụng lao động biết các quy định
huấn luyện ATVSLĐ, nhưng vẫn vi phạm,
lơ là, thiếu quan tâm. Có doanh nghiệp
lấy lý do văn bản pháp luật thay đổi nhiều
chưa kịp cập nhật; có doanh nghiệp cho
rằng công việc đặc thù liên tục, khó tập
trung người lao động nên tổ chức giám
sát đột xuất, nhắc nhở người lao động mà
không tổ chức huấn luyện Qua thanh
tra, kiểm tra cũng cho thấy nhận thức và
ý thức chấp hành của người sử dụng lao
động về các quy định của pháp luật trong
lĩnh vực ATVSLĐ chưa cao, nhất là đối
với người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều doanh
nghiệp, tổ chức, đơn vị cắt giảm một phần
chi phí cho công tác ATVSLĐ.
Qua quá trình điều tra 600 công nhân
tại 42 doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành
phố Hải Phòng, tác giả thu được số liệu
như sau: 55% NLĐ được huấn luyện về
an toàn lao động, 35% NLĐ không được
huấn luyện về an toàn lao động, và 10%
NLĐ Không có câu trả lời.
Qua số liệu trên cho thấy, số lượng lao
động không được huấn luyện về an toàn
lao động tại các doanh nghiệp FDI trên địa
bàn thành phố vẫn chiếm tỷ lệ tương đối
cao 35%.
Việc không tổ chức huấn luyện về
ATVSLĐ của doanh nghiệp, người sử
dụng lao động dễ dẫn đến hậu quả người
lao động thiếu hiểu biết, thiếu các kỹ năng
bảo đảm an toàn khi lao động.
26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Hậu quả lớn nhất là người lao động gặp
tai nạn, bị thương tích, thậm chí tử vong.
Số liệu thống kê 6 tháng cuối năm 2019
của Sở Lao động - Thương binh xã hội cho
thấy, tổng số tiền các doanh nghiệp chi phí
cho 10 vụ tai nạn lao động và tai nạn giao
thông (đã được điều tra, kết luận, bao gồm
cả một số vụ của năm 2018) là hơn 2,75 tỷ
đồng. Các doanh nghiệp còn phải hoàn tất
các thủ tục để giải quyết chế độ, quyền lợi
cho người bị nạn và 26 thân nhân của họ
được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội với
kinh phí nhiều tỷ đồng. Rõ ràng chi phí để
giải quyết tai nạn và các chế độ liên quan
cao gấp nhiều lần chi phí cho công tác
huấn luyện ATVSLĐ cho người lao động.
Có một thực tế, khi thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp là ra vi phạm, trung bình
mỗi doanh nghiệp, tổ chức có hơn 13
sai phạm (736 sai phạm/55 đơn vị). Lực
lượng thanh tra, kiểm tra của Sở Lao động
- Thương binh xã hội và các đoàn kiểm
tra liên ngành thành phố nhiều nhất mỗi
năm cũng chỉ thanh tra, kiểm tra được
không quá 300 doanh nghiệp, tổ chức, đơn
vị trong khi toàn thành phố có đến hơn 3
vạn doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị ở các
loại hình kinh tế. Ngoài thanh tra, kiểm
tra trực tiếp, Sở Lao động - Thương binh
xã hội phát phiếu tự kiểm tra về pháp luật
lao động mỗi năm khoảng 500-800 doanh
nghiệp. Việc tự kiểm tra phụ thuộc vào ý
thức tự giác của doanh nghiệp là chính. Vì
vậy, để hạn chế các vi phạm pháp luật về
lao động, cần tuyên truyền, phổ biến các
văn bản, các quy định, hướng dẫn về công
tác ATVSLĐ tới người lao động và chủ
sử dụng lao động. Đồng thời, tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra nhất là với
những doanh nghiệp có nguy cơ cao về
mất an toàn lao động để kịp thời phát hiện
vi phạm, qua đó hướng dẫn chấn chỉnh các
doanh nghiệp, ngăn chặn, xử lý kịp thời,
hạn chế hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Công tác tổ chức khám sức khoẻ
định kì cho người lao động
Theo Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao
động 2015 quy định rõ trách nhiệm người
sử dụng lao động bắt buộc phải khám
sức khỏe định kỳ cho nhân viên. Theo
đó: Doanh nghiệp phải tổ chức khám sức
khỏe ít nhất một lần/năm; Đối với người
làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm; người khuyết tật; lao động
chưa thành niên; lao động cao tuổi được
khám sức khỏe ít nhất 06 tháng một lần.
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này tại
các doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp FDI Hải Phòng vẫn còn rất nhiều
vấn đề bất cập như: Nhiều doanh nghiệp
không tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho
người lao động; Chất lượng khám và chữa
bệnh còn nhiều hạn chế, công nhân không
quan tâm nhiều tới vấn đề này, .
Theo kết quả khảo sát 600 công nhân
tại 42 doanh nghiệp FDI trên địa bàn
thành phố cho thấy: 58% NLĐ được khám
sức khỏe định kỳ, 34% NLĐ Không được
khám sức khỏe định kỳ, 8% NLĐ không
quan tâm.
Khi được hỏi về vấn đề khám sức khỏe
định kỳ, một số công nhân cho biết: “Vào
đây làm chủ yếu kiếm tiền nuôi vợ con
chứ chưa nghĩ đến mấy cái đó? Chúng
tôi cũng chưa khi nào đi khám sức khỏe
27TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
định kỳ ở bệnh viện và cũng không biết
ở đâu có chức năng khám phát hiện bệnh
nghề nghiệp. Tôi nghĩ công nhân trong
khu công nghiệp này ít người quan tâm tới
vấn đề sức khỏe, bệnh nghề nghiệp. Khi
có bác sĩ về khám tại công ty thì chúng tôi
mới được đo huyết áp, thị lực... nhưng ít
lắm”. Cũng nhiều ý kiến cho rằng: “Chỉ
khi nào ốm đau, bệnh nặng thì tự bản thân
sẽ đi bệnh viện khám và chữa trị. Công ty
có phòng y tế nhưng chỉ khi nào có sự cố
sức khỏe ngay tại nơi làm việc, công nhân
mới đến gặp y tá để được sơ cứu”.
Một trong số những lý do khiến NLĐ
ít quan tâm tới sức khỏe nghề nghiệp của
bản thân bởi công tác tuyên truyền từ các
cơ quan, ban, ngành còn hạn chế, trong
khi hoạt động công đoàn bảo vệ quyền lợi
cho người lao động trên lĩnh vực sức khỏe
vẫn chưa hiệu quả, chưa là chỗ dựa đáng
tin cậy cho người lao động.
2.2.2.3. Tạo cơ hội nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hiện đã và đang góp phần tích cực
giải quyết việc làm và tạo thu nhập ổn
định cho lực lượng lao động của thành phố
Hải Phòng và một số địa phương lân cận.
Theo thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu
tư Hải Phòng thì số người lao động làm
việc tại các doanh nghiệp FDI trên toàn
thành phố sau hơn 30 năm thực hiện chủ
trương thu hút đầu tư đã là hơn 160.000
người. Ngoài việc tạo công ăn việc làm,
ổn định an sinh xã hội, các doanh nghiệp
FDI còn có thể tạo cơ hội cho lực lượng
cán bộ, công nhân Việt Nam có điều kiện
tiếp cận, học hỏi và tiếp thu kỹ thuật mới,
công nghệ mới, cách thức điều hành và
quản lý tiên tiến, tác phong công nghiệp
và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ. Thông qua đội ngũ lao động này cũng
tác động đến các doanh nghiệp khác trong
việc nâng cao trình độ công nghệ, thiết bị
chung của các doanh nghiệp Hải Phòng.
Đó sẽ là nguồn lực đáng quý phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của thành phố.
Nhìn chung, tất cả các lao động được
tuyển dụng vào các doanh nghiệp FDI đều
được đào tạo hoặc đào tạo bổ sung, do vậy,
khu vực FDI góp phần tạo ra lực lượng
lao động lành nghề cho thành phố. Nhiều
doanh nghiệp còn đưa những lao động
chủ chốt đi đào tạo tại nước ngoài như Cơ
khí Việt - Nhật, San Miguel Yamamura
Hải Phòng, LS-VINA, Tohoku Pioneer,
Bridgestone, Toyota Nankai Hải Phòng...
Một điều quan trọng là lực lượng lao động
quản lý đã tiếp thu được phương cách
quản lý tiên tiến của các doanh nghiệp
nước ngoài, phù hợp với cơ chế thị trường.
Có thể thấy, tập trung nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ
28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
công nhân lành nghề, có tác phong công
nghiệp, có hiệu quả và năng suất lao
động cao.
Đồng thời, từng bước nâng cao nhận
thức, vai trò trách nhiệm của các bên trong
việc thực hiện pháp luật lao động và xây
dựng quan hệ lao động hài hòa cũng là
một thế mạnh, cạnh tranh trong thu hút
đầu tư nước ngoài.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu đã chỉ ra TNXH đối với
NLĐ tại các doanh nghiệp FDI Hải Phòng
thời gian qua được thực hiện tốt ở nhiều
khía cạnh như:
- Số lượng lao động được ký hợp
đồng dài hạn với doanh nghiệp là tương
đối lớn
- Đa số các doanh nghiệp đã tổ chức
huấn luyện an toàn lao động cho người lao
động trong doanh nghiệp
- Hầu hết các doanh nghiệp đều tổ chức
khám sức khỏe định kỳ cho người lao động
- Công tác đào tạo nâng cao trình
độ cho người lao động được tổ chức khá
tốt, hầu hết người lao động khi được tuyển
dụng vào doanh nghiệp đều được đào tạo
và đào tạo bổ sung, nhiều doanh nghiệp
còn đưa những lao động chủ chốt đi đào
tạo tại nước ngoài
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực đã đạt được, vẫn tồn tại một số hạn
chế trong TNXH đối với NLĐ tại các
doanh nghiệp FDI Hải Phòng như:
- Về thực hiện HĐLĐ: HĐLĐ chưa đề
cao cam kết bảo mật thông tin cho NLĐ
trong HĐLĐ.
- Về đảm bảo An toàn vệ sinh lao
động: Tập huấn an toàn vệ sinh lao động
còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa được
tổ chức thường xuyên, định kỳ theo đúng
quy định tại Bộ Luật Lao động năm 2012.
Tai nạn lao động có dấu hiệu tăng, công
tác khám sức khỏe cho người lao động còn
sơ sài và không đảm bảo chất lượng, bệnh
nghề nghiệp vẫn tồn tại.
- Về đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ: Số lượng NLĐ được tham
gia đào tạo chuyên sâu tại nước ngoài còn
chưa cao.
Từ những hạn chế nêu trên, nghiên cứu
này đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao
TNXH đối với NLĐ tại các doanh nghiệp
FDI Hải Phòng như sau:
Một là, bổ sung điều khoản bảo mật
thông tin cá nhân trong HĐLĐ nhằm đảm
bảo quyền lợi cho NLĐ.
Hai là, tăng cường thực hiện các biện
pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh
lao động như thực hiện đồng thời biện
pháp kỹ thuật, y tế và trang thiết bị phòng
hộ - vệ sinh lao động để dự phòng bệnh
nghề nghiệp; tích cực tuyên truyền và phổ
biến pháp luật lao động, phòng chống tai
nạn lao động nhằm giảm thiểu tai nạn lao
động; Cập nhật hệ thống quản lý an toàn
sức khoẻ lao động ISO 45001.
Ba là, tổ chức các khoá đào tạo theo
phương thức đào tạo trực tuyến E-learning
để nhân rộng số lượng người học, tiết
kiệm chi phí;
Bốn là, xây dựng chương trình đào tạo
dựa theo nhu cầu và trình độ NLĐ thông
qua khung năng lực cá nhân.
29TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 42, tháng 9 năm 2020
Năm là, nâng cao nhận thức về TNXH
đối với NLĐ cho các nhà quản trị, chính
NLĐ để đảm bảo tốt hơn quyền lợi và
nghĩa vụ đối với NLĐ.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đề xuất một
số kiến nghị đến Nhà nước như hình thành
các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử về TNXH
đối với NLĐ mang tầm ngành và quốc
gia; Tăng cường sự hỗ trợ từ Chính phủ và
các cơ quan quản lý vĩ mô trong thực hiện
và nâng cao TNXH đối với NLĐ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aguilera Ruth V., Deborah E. Rupp, Cynthia A.
Williams & Yyoti Ganapathi (2007), Putting
the S back in corporate social responsibility:
A multilevel theory of social change in
organizations, Academy of Management
Review, Vol. 32, No. 3, 836–863.
2. Bowen H R. (1953), Social Responsibility of
Businessman, Harper & Row, New York.
3. Carroll, A. B. (1991), The pyramid of corporate
social responsibility: Toward the moral
management of organizational stakeholders,
Business Horizons, 34, 39,
4. Carroll, A. B. (2008), ‘A History of Corporate
Social Responsibility: Concepts and Practices,
in A. Crane et al. (eds.)’, The Oxford Handbook
of Corporate Social Responsibility, Oxford
University Press, New York, pp. 19-
5. CIEM, DoE, ILSSA và UNU-WIDER (2012),
Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam
- Kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa
năm 2011, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
6. Heslin Peter A. & Jenna D. Ochoa
(2008), ‘Understanding and Developing Strategic
Corporate Social Responsibility’, Organizational
Dynamics, Vol. 37, pp. 125-14
7. Nguyễn Ngọc Thắng (2015), Trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
8. Quốc hội (2012), Luật số: 10/2012/QH13,
ngày 18/6/2012, Bộ Luật lao động.
9. Sharfman, M. (1994), ‘Changing institutional
roles: The evolution of corporate philanthropy,
1883 – 1953’, Business and Society, 33(3), 236.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_trach_nhiem_xa_hoi_doi_voi_nguoi_lao_dong_t.pdf