Với thực trạng cải cách thể chế về tư
pháp thời gian qua và trước những biến
đổi của đời sống kinh tế - xã hội của Việt
Nam trong giai đoạn tới, chúng tôi cho
rằng, thế chế CCTP phải đảm bảo mục
tiêu ổn định xã hội và phát triển kinh tế
thông qua việc cải cách các quy định pháp
luật đảm bảo các quyền con người, tăng
cường các cơ chế hoà giải ngoài tố tụng
theo hướng thực chất, đẩy nhanh các thủ
tục tố tụng tư pháp, trước hết là các thủ
tục tố tụng xử lý tội phạm tham nhũng,
bảo đảm hiệu quả thi hành án; tăng cường
khả năng tiếp cận công lý của người, bảo
đảm mọi người dân đều được hưởng các
dịch vụ pháp lý như nhau, cụ thể:
- Nghiên cứu hình sự hoá hành vi làm
giàu bất hợp pháp; cơ chế buộc người
phạm tội phải chứng minh nguồn gốc
hợp pháp của tài sản; nghiên cứu cơ chế
tịch thu tài sản không chứng minh nguồn
gốc hợp pháp.
- Đẩy mạnh thủ tục tố tụng rút gọn và
giảm chi phí, thời gian giải quyết vụ án
trên thực tế cho các bên trong quá trình
tham gia tố tụng.
- Triển khai có hiệu quả các cơ chế
chuyển hướng trong Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự; nâng cao hiệu
quả thi hành dân sự trên cơ sở đổi mới
mạnh mẽ các biện pháp đóng băng tài
sản ngay trong quá trình tố tụng; gắn kết
trách nhiệm của cơ quan tư pháp với hiệu
quả thi hành án, bảo đảm việc thi hành
nghiêm minh các bản án đã tuyên.
- Tăng cường tiếp cận pháp lý; nhà
nước phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các
dịch vụ pháp lý cho người dân.
- Hoàn thiện pháp luật về hoà giải
cơ sở theo hướng giảm tranh chấp từ cơ
sở. Xây dựng cơ chế hoà giải, giải quyết
tranh chấp ngoài tố tụng trên cơ sở gắn
kết với các mô hình hoà giải hiện có; có
cơ chế đảm bảo bảo đảm quyền của các
bên trong quá trình hoà giải, đặc biệt là
những bên yếu thế; đảm bảo các yêu cầu
về thủ tục, chất lượng, tính hợp pháp của
hoạt động hoà giải, tránh tình trạng kết
quả giải quyết hoà giải lại tạo ra những
bất ổn, mâu thuẫn mới trong xã hội.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về tư duy và định hướng cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn tới (Kỳ 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
Cải cách tư pháp là một việc khó bởi nó không chỉ gặp phải những cản trở của những thói quen của
xã hội, sự xung đột lợi ích, mà quan trọng
hơn bản thân CCTP cần phải phù hợp với
môi trường xã hội mà nó muốn tác động
tới và cũng là môi trường nuôi dưỡng, duy
trì nó. Thực tiễn CCTP ở nhiều nước cho
thấy, một mô hình được coi là phù hợp ở
quốc gia này, nhưng khi áp dụng tại một
quốc gia khác lại không phù hợp, không
đem lại những giá trị thiết thực như mong
muốn1. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
1 European Parliament’s Committee on Foreign
Affairs (AFET), Study Report: Judicial reform in
countries of South East Europe, 2006
Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm
2020 (viết tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW)
được ban hành từ năm 2005 và được đánh
giá là một Nghị quyết đầu tiên về cải cách
có tính triệt để nhất trong lịch sử CCTP
ở Việt Nam, với những định hướng đổi
mới mang tính đột phá. Kết quả thực hiện
Nghị quyết cho đến nay đã có những kết
quả nhất định, tạo ra những chuyển biến
cho nền tư pháp Việt Nam, như: Hiến
pháp năm 2013 và nhiều đạo luật đã thể
chế hóa phần lớn các nhiệm vụ về đổi mới
tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ
các cơ quan tư pháp, luật sư và bổ trợ tư
pháp; hoàn thiện chính sách, pháp luật
hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, tổ chức
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI (KỲ 1)
NGUYỄN MINH KHUÊ*
* Tiến sĩ, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
Nghị quyết số 49-NQ/TW đang ở trong giai đoạn cuối của quá trình triển khai,
do đó cần có sự đánh giá một cách tổng thể, đặc biệt là đánh giá về tư duy xây
dựng và triển khai các định hướng cải cách tư pháp (CCTP). Đồng thời, để xác
định những định hướng này trong thời gian tới, cần có sự nghiên cứu những nội
dung mang tính chất nguyên lý, nền tảng của nền tư pháp cũng như xem xét, dự báo
những biến đổi, phát triển của xã hội - môi trường cho hoạt động CCTP. Bài viết
tập trung phân tích, làm rõ một số vấn đề về tư duy và định hướng CCTP ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Cải cách tư pháp, tư duy và định hướng về cải cách tư pháp.
Ngày nhận bài: 02/10/2019; Biên tập xong: 14/10/2019; Duyệt đăng: 21/10/2019.
Resolution no. 49-NQ/TW has been being implemented that needs overall
assessment, especially thoughts in making and implementing judicial reform
directions. At the same time, in order to identify judicial reform directions
in the future, it is vital to study principle-based and fundamental contents
of the judiciary as well as forecast changes and developments of society for
judicial reform activities. The article sheds light on some matters in thoughts and
directions for judicial reform in Vietnam in the next years.
Keywords: Judicial reform, thoughts and directions for judicial reform.
19Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
Tòa án nhân dân, tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân... Việc đổi mới mô hình tố tụng
và đòi hỏi phán quyết của Toà án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng... thể
hiện xu hướng tiến tới cách thức tổ chức
của một nền tư pháp hiện đại, minh bạch,
dân chủ, khách quan, nghiêm minh. Cơ
chế phân công, phối hợp, kiểm soát hoạt
động tư pháp giữa các cơ quan điều tra,
kiểm sát, xét xử, thi hành án, luật sư, bổ trợ
tư pháp cơ bản được hình thành; quyền tư
pháp của Tòa án nhân dân được xác lập
bước đầu. Định hướng về xã hội hóa một
số hoạt động tư pháp như Thừa phát lại,
công chứng... được đẩy nhanh, bước đầu
thu được kết quả khả quan, nhận được
sự đồng tình và ủng hộ của xã hội Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân, một số định
hướng CCTP không thực hiện được như:
chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố;
tổ chức Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực;
tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng
thu gọn đầu mối; giao Bộ Tư pháp giúp
Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi
hành án...
I. Về tư duy cải cách tư pháp
1. Tư duy về nhận thức về quy mô
cải cách
Nghị quyết số 49-NQ/TW với nhiều
mục tiêu mang tính cải cách, trong đó lấy
Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm. Đây là một trong những mục
tiêu và cách tiếp cận đúng và phù hợp với
thông lệ chung trên thế giới. Tuy nhiên,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ra đời trong
bối cảnh thể chế và thiết chế các cơ quan
tư pháp đã được định hình và vận hành
trong một thời gian dài. Đặc biệt, Hiến
pháp năm 1992 - cơ sở hiến định cho tổ
chức và hoạt động tư pháp nói riêng và
tổ chức bộ máy nhà nước nói chung còn
chưa có sự đổi mới. Vị trí, vai trò của cơ
quan thực hiện quyền tư pháp còn chưa
được định hình rõ nét, mối quan hệ giữa
các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước
còn chưa nhận thức được đầy đủ.
Do đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngay
từ khi ra đời chưa thể giải quyết được
một cách triệt để vấn đề CCTP. Chỉ đến
khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành,
trong đó xác định rõ Toà án là cơ quan duy
nhất thực hiện quyền tư pháp và bổ sung
nguyên tắc kiểm soát quyền lực trong cơ
chế thực hiện quyền lực nhà nước thì mới
tạo cơ sở hiến định để thực hiện những
đổi mới trong các luật tổ chức các cơ quan
tư pháp và và các đạo luật về tố tụng.
Thực tiễn CCTP ở nhiều nước trên
thế giới đã chứng minh, khó có thể tiến
hành cải cách triệt để nếu không có sự
điều chỉnh tương ứng các mối quan hệ
giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập
và hiệu quả cần phải xem xét tổng thể ở
tầm hiến pháp nhằm tạo ra sự phân công
hợp lý giữa các nhánh quyền lực nhà
nước. Các chức năng của thể chế tư pháp
phải được nhìn thấy trong bối cảnh rộng
lớn hơn với tầm cải cách hiến pháp mới
có thể thiết kế các định hướng cải cách
bền vững và toàn diện2.
2. Tư duy về xây dựng và triển khai
nhiệm vụ cải cách tư pháp
Qua nghiên cứu nội dung và thực tiễn
triển khai Nghị quyết số 49-NQ/TW cho
thấy, mặc dù đã có những đột phá về tư
tưởng nhưng Nghị quyết còn thể hiện sự
thận trọng và “ngập ngừng” trong việc
2 European Parliament’s Committee on Foreign
Affairs (AFET), Study Report: Judicial reform in
countries of South East Europe, 2006
20
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
thực hiện triển khai các nhiệm vụ cải cách.
Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, qua thống
kê cho thấy, từ “nghiên cứu” được sử dụng
khá nhiều trong nhiều định hướng quan
trọng3. Trong đó, nhiệm vụ nghiên cứu các
định hướng CCTP được giao cho cơ quan
chịu sự tác động của các định hướng đó
chủ trì thực hiện mà không do một uỷ ban
độc lập thực hiện nên không tránh khỏi
tâm lý “do dự” trong quá trình nghiên cứu,
đặc biệt là nhiều vấn đề phát sinh trong
quá trình nghiên cứu không thể do chính
cơ quan tổ chức nghiên cứu đó tháo gỡ mà
cần phải xin ý kiến của các cơ quan có liên
quan dẫn đến kéo dài việc nghiên cứu các
định hướng CCTP. Nhiều định hướng cải
cách nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
đã được xác định trong nhiều nghị quyết,
văn kiện của nhiều đại hội của Đảng, tuy
nhiên, việc triển khai còn chưa quyết liệt,
kéo dài nhiều năm trong quá trình thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW. Điều này,
không chỉ đến sự phân tâm trong quá trình
thực hiện định hướng cải cách, mà còn làm
chậm và ảnh hưởng đến việc thực hiện
nhiều định hướng cải cách khác được nêu
trong Nghị quyết số 49-NQ/TW4.
3 Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành
Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra; nghiên cứu và chuẩn bị
mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại các cơ quan
điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt
chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra
tố tụng hình sự; Nghiên cứu chế định thừa phát
lại (thừa hành viên); Nghiên cứu thực hiện cơ chế
thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức
danh tư pháp; Nghiên cứu việc thành lập Ủy ban
Tư pháp của Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện
nhiệm vụ giám sát hoạt động tư pháp, trọng tâm
là việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.
4 Ví dụ, định hướng thống nhất thi hành án được
đặt ra từ năm 1995, tại Nghị quyết Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ tám (khoá VII); Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Trung ương
Đảng lần thứ ba (khoá VIII) năm 1997
Kinh nghiệm CCTP ở các nước trên thế
giới cho thấy, định hướng cải cách trong
các chương trình cải cách thường được
xác định rõ ràng và không thể hiện dưới
các chương trình nghiên cứu, đồng thời,
việc thực hiện cũng được thực hiện quyết
liệt và thống nhất5. Lý luận và thực tiễn
cho thấy, sự phát triển của đời sống xã hội,
đặc biệt là phát triển kinh tế luôn nhanh
hơn so với các quy định của pháp luật và
tư pháp, đồng thời ngày càng đặt ra các
yêu cầu mới đối với các cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Trong khi đó, so với các cơ
quan khác trong bộ máy nhà nước, tổ chức
và hoạt động của cơ quan tư pháp luôn có
sự phát triển chậm hơn bởi đặc tính khép
kín của hoạt động tư pháp. Chính vì vậy,
nếu một chương trình CCTP không đảm
bảo được tính dự báo và được thực thi với
quyết tâm lớn thì luôn luôn chậm hơn so
với thực tiễn xã hội.
Trong quá trình xây dựng và triển
khai các định hướng CCTP, việc tiếp thu
và học hỏi kinh nghiệm cải cách của các
nước trên thế giới, đặc biệt là các nguyên
lý, nguyên tắc chung có tính phổ cập là xu
hướng tất yếu của quá trình toàn cầu hoá,
hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quá trình
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp
cần đặt trong bối cảnh cụ thể của Việt
Nam, đảm bảo tính khoa học, tránh duy
ý chí chủ quan, hoặc sao chép máy móc
các mô hình cải cách của các nước khác.
Ở các quốc gia chuyển đổi cho thấy, sự
không phù hợp và phản tác dụng của các
chương trình cải cách mang tính chắp vá,
đáp ứng với nhu cầu có tính tức thời của
5 Ví dụ: định hướng thống nhất thi hành hình sự
ở Trung quốc kể từ khi có định hướng đến thực
hiện được tiến hành trong 6 tháng trong phạm vi
toàn quốc.
21Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
công chúng hoặc do áp lực chính trị quốc
tế hoặc cấy ghép các mô hình CCTP của
các quốc gia khác mà không phù hợp với
các điều kiện đặc thù của các quốc gia đó6.
Do đó, chúng tôi cho rằng, một
chương trình CCTP thành công nếu chứa
đựng hàm lượng dự báo hay đi trước thực
tiễn xã hội, trên cơ sở tiếp thu và học hỏi
các nguyên lý chung của nhân loại và
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của
chế độ, thế chế chính trị và xu thế phát
triển chung của xã hội. Nội dung cải cách
được thể hiện trong các Chương trình cải
cách cần rõ ràng, cụ thể và có thể triển
khai trong thực tiễn. Đồng thời, khi triển
khai những định hướng cải cách cần có sự
quyết tâm chính trị của các cơ quan có liên
quan từ trung ương đến địa phương.
3. Tư duy về việc bảo đảm thực thi
nhiệm vụ cải cách
Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh
tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn,
trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể
hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất,
đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh
nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại
cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển
đối với một số chức danh”, “Tăng cường
kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra,
kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động
của các chức danh tư pháp”.
Như vậy, CCTP đặt ra các trách nhiệm
cao của hoạt động công vụ và các yêu cầu
ngày càng cao về trình độ chuyên môn
đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Đồng
6 European Parliament’s Committee on Foreign
Affairs (AFET), Study Report: Judicial reform in
countries of South East Europe, 2006
thời, thông qua việc tăng cường kiểm tra,
thành tra, CCTP sẽ ngăn chặn các hành
vi tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động
tư pháp. Dưới khía cạnh lợi ích cho thấy,
CCTP sẽ tác động đến động lực cải cách
của cán bộ tư pháp. Cán bộ tư pháp phải
dành nhiều thời gian hơn để hoàn thiện
chuyên môn đáp ứng các yêu cầu cải cách;
những chủ thể đang có hành vi tiêu cực sẽ
bị tác động, ngăn chăn việc hưởng lợi bất
hợp pháp. Do đó, một chương trình cải
cách thành công, bên cạnh những nhiệm
vụ đặt ra nhằm tăng cường năng lực cho
đội ngũ cán bộ tư pháp, cần phải kèm
theo các cơ chế đảm bảo về lợi ích hợp
pháp cho các tổ chức, cá nhân bị tác động.
Nghị quyết số 49-NQ/TW khẳng định
nhiệm vụ: “Có chế độ, chính sách tiền
lương, khen thưởng phù hợp với lao động
của cán bộ tư pháp.” Tuy nhiên, thực tiễn
triển khai CCTP ở Việt Nam, chế độ chính
sách, tiền lương cho đội ngũ cán bộ tư
pháp còn chưa tương xứng với nghĩa vụ
và trách nhiệm của họ. Thực tế ở nhiều cơ
quan không thể thu hút được đội ngũ cán
bộ có trình độ chuyên môn cao; thậm chí,
có chức danh tư pháp, mặc dù đội ngũ cán
bộ đạt chuẩn để bổ nhiệm nhưng không
muốn vào ngạch bởi nghĩa vụ, trách nhiệm
đặt ra cao hơn so với thu nhập họ được
hưởng. Như vậy, định hướng cải cách khó
có thể thực hiện thành công nếu không
có sự bảo đảm chế độ, chính sách cho đội
ngũ cán bộ, công chức tư pháp.
II. Một số định hướng cải cách tư
pháp trong thời gian tới
1. Thể chế cải cách tư pháp bảo đảm
sự ổn định và công bằng xã hội, thúc đẩy
phát triển kinh tế
22
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
Từ năm 2005 đến nay, công tác thể chế
hoá các định hướng của Đảng về hoàn
thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân
sự, tố tụng tư pháp được xác định trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW đã có những
thành tựu nhất định. Trong lĩnh vực hình
sự, đã bãi bỏ hình phạt tử hình, mở rộng
phạm vi áp dụng hình phạt tiền, hạn chế
áp dụng hình phạt tù, thay đổi hình thức
thi hành án tử hình; trong lĩnh vực dân sự,
bổ sung một số nguyên tắc bảo vệ quyền
dân sự; quy định chặt chẽ hơn các tiêu chí
xác định pháp nhân; xác định rõ các hình
thức sở hữu; bổ sung các điều khoản định
hướng cho việc xây dựng quy định về
hợp đồng; trong lĩnh vực tố tụng, đã bổ
sung các quy định nhằm tăng cường hơn
nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng
trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân...; sửa đổi các
trình tự, thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân trong việc tiếp cận công lý,
tăng tính liêm chính, minh bạch trong hoạt
động tố tụng, đổi mới mô hình tố tụng kết
hợp thẩm vấn với tranh tụng và cụ thể hóa
các nội dung của nguyên tắc tranh tụng;
xác định rõ hơn vai trò của các cơ quan tiến
hành tố tụng; quy định chặt chẽ, cụ thể
hơn căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm;
Tuy nhiên, cải cách thể chế trong lĩnh
vực tư pháp còn có những hạn chế nhất
định, cụ thể:
- Cải cách thể chế trong lĩnh vực tư
pháp cho thấy, một số định hướng CCTP
được thể chế hoá còn chưa phát huy được
trên thực tế. Ví dụ: Chính sách hình sự, thi
hành án hình sự, chủ trương nhân đạo hoá
đã được thể chế hoá thông qua chế định
tha tù trước thời hạn, các biện pháp miễn
trách nhiệm hình sự... Tuy nhiên, việc thi
hành trên thực tế các chính sách này còn
gặp nhiều khó khăn, không chỉ bởi chậm
sửa đổi Luật thi hành án hình sự mà quan
trọng hơn, còn thiếu các cơ chế đồng bộ,
giải pháp triệt để thực hiện (như: chưa
hình thành các cơ sở cải tạo cộng đồng,
các tổ chức xã hội, nhân viên xã hội để hỗ
trợ chính quyền cơ sở thực hiện).
- Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
đang còn có những khoảng cách lớn với
các quy định của pháp luật quốc tế, các tổ
chức quốc tế mà Việt Nam đã tham gia,
chẳng hạn như: liên quan đến giảm án tử
hình đang còn có sự khác biệt với thế giới
về quan niệm tội phạm nghiêm trọng;
pháp luật về hình sự trong các nước tham
gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đang
có những khác biệt liên quan đến xử lý
trách nhiệm hình sự của pháp nhân, quy
trình tố tụng tư pháp, cơ chế giải quyết
tranh chấp7
- Những đổi mới về thể chế còn chưa
kịp thời, đáp ứng các yêu cầu, bức xúc
và mong muốn của xã hội. Ví dụ, những
đổi mới về tố tụng chưa giải quyết được
vấn đề thực tiễn trong đấu tranh các vụ
án tham nhũng; các trình tự, thủ tục xử lý
phức tạp, chỉ được khởi tố sau nhiều cuộc
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán kéo dài nên
người phạm tội có đủ thời gian, điều kiện
để đối phó, tẩu tán, hợp thức hoá tài sản
tham nhũng, làm cho việc buộc tội rất khó
khăn, việc xác định thu hồi tài sản lại càng
khó8; những định hướng về xã hội hoá chế
7 Theo pháp luật quốc tế chỉ quy định tội phạm
nghiêm trọng đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ con người; pháp luật hình sự các
nước CPTPP quy định trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân nói chung mà không có sự phân
loại đối với pháp nhân thương mại và pháp nhân
phi thương mại
8 Ban Nội chính TW, tài liệu Hội thảo tăng cường
23Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
định giám định chậm thực hiện; cơ chế
định giá tài sản trong các vụ án hình sự
chậm được đổi mới đang gây ra những
điểm nghẽn trong việc các giải quyết án
về tham nhũng.
- Sự tiếp cận của công lý của người
dân đã có cải thiện, nhưng vẫn còn chưa
đáp ứng yêu cầu. Những đổi mới trong
các quy trình tố tụng, đặc biệt là tố tụng
dân sự, hành chính theo hướng đặt gánh
nặng chứng minh cho các đương sự đang
đặt ra vấn đề bảo đảm khả năng tiếp cận
công lý của người dân. Trong khi đó, số
lượng luật sư so với tỷ lệ dân số đang
còn thấp, tỷ lệ luật sư tham gia các vụ
án (khoảng 10%); các văn phòng luật sư,
công ty luật, văn phòng công chứng chủ
yếu được phát triển tại các thành phố lớn;
vi bằng là hình thức xác lập chứng cứ
quan trọng những chỉ có thể tiếp cận ở
các thành phố lớn
- Niềm tin của người dân vào các thủ
tục tố tụng, vào công lý còn chưa được cải
thiện bởi việc thực thi pháp luật còn chưa
nghiêm. Vẫn còn có tình trạng bản án có
hiệu lực pháp luật đang còn chưa được
thi hành, án tồn đọng còn chưa được giảm
mạnh; cơ chế và các biện pháp giải quyết
tranh chấp đang còn chưa có các biện
pháp bảo đảm thi hành trên thực tế; tỷ lệ
các doanh nghiệp lựa chọn các phương
thức tố tụng tại toà án còn thấp, điều này
do còn chưa có sự tin tưởng của hệ thống
tư pháp; các thủ tục tố tụng còn dài, các
chi phí thực tế khi tham gia tố tụng còn
cao. Những chậm trễ trong hoạt động tư
pháp làm cho hệ thống tư pháp không
thực sự thực hiện chức năng xã hội của
các cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng trong pháp
luật phòng, chống tham nhũng, Hà Nội, T9/2017
mình trong việc khuyến khích các cá nhân
và tổ chức tự tuân thủ pháp luật.
Trong thời gian tới, tổ chức và hoạt
động tư pháp đang đứng trước những
thách thức của thực tiễn phát triển kinh tế
- xã hội, cụ thể:
- Việt Nam hiện đang trong giai đoạn
phát triển nhằm thoát khỏi một nước thu
nhập trung bình thấp, với các biểu hiện
của thách thức của việc tăng trưởng chậm
so với các giai đoạn trước đây, thiếu hụt
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội Tình
trạng kinh tế xã hội sẽ có những dấu hiệu
phức tạp, biểu hiện ở việc sự gia tăng tội
phạm tham nhũng và tội phạm xuyên
biên giới; xuất hiện những va chạm lợi ích
đa dạng trong xã hội, biểu hiện ở những
phản ứng xã hội với các hình thức đông
người và khó kiểm soát bởi sự phát triển
nhanh của các ứng dụng xã hội trên nền
tảng internet (facebook, zalo, viber)
Nhiều công trình đã chứng minh, nếu thể
chế pháp lý và hệ thống tư pháp thực hiện
tốt chức năng xã hội của mình, cung cấp
các biện pháp pháp lý kịp thời cho các vấn
đề xã hội thì sẽ giúp giảm bớt các xung đột
xã hội. Trái lại, thể chế pháp lý chậm thay
đổi, hệ thống tư pháp yếu kém, khả năng
tiếp cận công lý của người dân không
được quan tâm đúng mức sẽ châm ngòi
cho những bức xúc của xã hội, dễ đưa xã
hội vào những rối loạn, bất ổn.
- Đổi mới kinh tế và xã hội đạt được
những thành tựu nhất định sẽ tạo ra
điều kiện để nâng cao nhận thức pháp
luật của người dân, qua đó tạo ra áp lực
về bảo đảm công lý lên các cơ quan tư
pháp. Những cải cách kinh tế đã tạo ra
một xã hội với nhiều tầng lớp trong xã
hội, xung đột lợi ích ngày càng gia tăng
24
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
dẫn đến việc công dân ngày càng tìm đến
các Tòa án để giải quyết tranh chấp. Hơn
nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện đại
ngày nay, người dân và các doanh nghiệp
không chấp nhận sự chậm trễ trong việc
đưa ra các phán quyết giải quyết tranh
chấp. Công lý “trễ” hay “muộn” ngày
càng không được chấp nhận trong một
xã hội phát triển.
Sự thay đổi và phản ứng chậm của tư
pháp đối với các yêu cầu của xã hội sẽ có
những tác động tiêu cực khác nhau trong
phát triển xã hội. Trước mắt, nó sẽ làm mất
đi niềm tin của người dân, doanh nghiệp
vào hệ thống tư pháp, điều đó sẽ tác động
đến các chính sách thu hút đầu tư phát
triển kinh tế của đất nước. Về lâu dài, nó sẽ
dẫn đến tình trạng “vượt ngưỡng” hay tình
trạng “đồng thuận phổ biến” trong việc
tiếp cận công lý, là tình trạng những mong
muốn về công lý của người dân không
được đáp ứng sẽ dẫn đến tạo ra sự chấp
nhận tình trạng đó và sử dụng các hình
thức bất hợp pháp để giải quyết vấn đề của
mình. Điều này sẽ kích thích môi trường
tiêu cực trong hoạt động tư pháp hoặc thúc
đẩy phát triển các hình thức phi chính thức
để giải quyết các tranh chấp trong xã hội
(ví dụ như tình trạng đòi nợ thuê).
Với thực trạng cải cách thể chế về tư
pháp thời gian qua và trước những biến
đổi của đời sống kinh tế - xã hội của Việt
Nam trong giai đoạn tới, chúng tôi cho
rằng, thế chế CCTP phải đảm bảo mục
tiêu ổn định xã hội và phát triển kinh tế
thông qua việc cải cách các quy định pháp
luật đảm bảo các quyền con người, tăng
cường các cơ chế hoà giải ngoài tố tụng
theo hướng thực chất, đẩy nhanh các thủ
tục tố tụng tư pháp, trước hết là các thủ
tục tố tụng xử lý tội phạm tham nhũng,
bảo đảm hiệu quả thi hành án; tăng cường
khả năng tiếp cận công lý của người, bảo
đảm mọi người dân đều được hưởng các
dịch vụ pháp lý như nhau, cụ thể:
- Nghiên cứu hình sự hoá hành vi làm
giàu bất hợp pháp; cơ chế buộc người
phạm tội phải chứng minh nguồn gốc
hợp pháp của tài sản; nghiên cứu cơ chế
tịch thu tài sản không chứng minh nguồn
gốc hợp pháp.
- Đẩy mạnh thủ tục tố tụng rút gọn và
giảm chi phí, thời gian giải quyết vụ án
trên thực tế cho các bên trong quá trình
tham gia tố tụng.
- Triển khai có hiệu quả các cơ chế
chuyển hướng trong Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự; nâng cao hiệu
quả thi hành dân sự trên cơ sở đổi mới
mạnh mẽ các biện pháp đóng băng tài
sản ngay trong quá trình tố tụng; gắn kết
trách nhiệm của cơ quan tư pháp với hiệu
quả thi hành án, bảo đảm việc thi hành
nghiêm minh các bản án đã tuyên.
- Tăng cường tiếp cận pháp lý; nhà
nước phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các
dịch vụ pháp lý cho người dân.
- Hoàn thiện pháp luật về hoà giải
cơ sở theo hướng giảm tranh chấp từ cơ
sở. Xây dựng cơ chế hoà giải, giải quyết
tranh chấp ngoài tố tụng trên cơ sở gắn
kết với các mô hình hoà giải hiện có; có
cơ chế đảm bảo bảo đảm quyền của các
bên trong quá trình hoà giải, đặc biệt là
những bên yếu thế; đảm bảo các yêu cầu
về thủ tục, chất lượng, tính hợp pháp của
hoạt động hoà giải, tránh tình trạng kết
quả giải quyết hoà giải lại tạo ra những
bất ổn, mâu thuẫn mới trong xã hội.
(Còn tiếp)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_tu_duy_va_dinh_huong_cai_cach_tu_phap_o_vie.pdf