Thứ hai,tính công khai, minh bạch
Đây cũng là một nguyên tắc quan
trọng của vận động chính sách công, nhằm
ngăn ngừa tình trạng lợi dụng “đi đêm”, hối
lộ quan chức, “chạy chính sách”. Ngoài ra,
nguyên tắc về tính công khai, minh bạch còn
giúp cộng đồng giám sát quá trình hoạch định
chính sách công của nhà nước43. Nguyên tắc
này đã được quy định trong pháp luật của một
số quốc gia. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, các nhà vận
động chính sách phải công khai không chỉ
tên tuổi của bản thân, mà còn của các khách
hàng, các cuộc tiếp xúc, các nội dung vận
động và số tiền công họ được chi trả. Ở châu
Âu, năm 2011, Ủy ban và Nghị viện châu Âu
cũng ban hành một bộ quy tắc áp dụng cho
những nhà vận động chính sách công, trong
đó có quy định về công khai, minh bạch trong
hoạt động44. Trong Bộ các tiêu chí về pháp
luật vận động chính sách của Tổ chức Minh
bạch quốc tế, những thông tin phải công khai
bao gồm: định danh của chủ thể thực hiện vận
động chính sách, nội dung vận động, kết quả
mong đợi, loại hình và tần suất thực hiện.
Thứ ba, tính khách quan, vô tư
Đây là một trong những nguyên tắc
được Derek Draper nêu ra trong cuốn Vận
động hành lang: Nghệ thuật thuyết phục
chính trị, xuất phát từ đặc điểm của vận động
chính sách công là hoạt động phục vụ lợi ích
của một nhóm xã hội nào đó mà không nhất
thiết vì lợi ích của bản thân người thực hiện
vận động. Tính khách quan, vô tư thể hiện ở
việc bất kỳ nhóm xã hội nào cũng có thể tiếp
cận và nhờ cậy các cá nhân, tổ chức thực hiện
vận động chính sách công mà không bị phân
biệt đối xử về ý tưởng, quan niệm, niềm tin
về chính trị hay về các yếu tố khác
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về vận động chính sách công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích một số vấn đề về vận động chính sách công. Các vấn
đề được đề cập và phân tích bao gồm: khái niệm, cơ sở, bản chất, chủ
thể, lịch sử phát triển, các khía cạnh tích cực, tiêu cực, các hình thức,
phương pháp và nguyên tắc vận động chính sách công.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
Vũ Công Giao*
Abstract:
This article provides analysis theoretical matters of lobbying of
public policies, which includes: the concept, grounds, nature, lobbyist
and targeted groups, historical developments, positive and negative
aspects, forms, methods and principles for lobbying activities.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chính sách công, vận động
chính sách công, nhóm lợi ích, lợi ích
nhóm.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 03/06/2017
Biên tập: 18/06/2017
Duyệt bài: 29/06/2017
Article Infomation:
Keywords: : public policy, lobbying,
interest group, group’s interests.
Article History:
Received: 03 Jun 2017
Edited: 18 Jun 2017
Appproved: 29 Jun 2017
* PGS. TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
1. Khái niệm, cơ sở, bản chất, chủ thể của
vận động chính sách công
Khái niệm chính sách công
Để tìm hiểu về vận động chính sách
công, trước hết cần đề cập đến chính sách công.
Thuật ngữ “chính sách”, theo Từ điển
tiếng Việt, là “sách lược và kế hoạch cụ thể
1 Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên); Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng,
2005, tr. 163.
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào
đường lối chính trị chung và tình hình thực
tế mà đề ra”1. Chính sách khác với đường lối.
Nếu như đường lối chỉ những định hướng
chung, mang tính chất chiến lược thì chính
sách chỉ là “một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 21(349) T11/2017
chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi
cho một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích
vào động cơ hoạt động của họ, định hướng
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục
tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển
của một hệ thống xã hội”2. Nói cách khác,
chính sách “là giải pháp cùng các biện pháp
cụ thể thực hiện giải pháp ấy được một chủ
thể quyền lực lựa chọn và thể hiện bằng văn
bản có giá trị pháp lý nhằm điều chỉnh hành vi
của xã hội hoặc cộng đồng để giải quyết một
hoặc một số vấn đề lớn liên quan đến nhiều
đối tượng trong một giai đoạn xác định”3.
Theo cách diễn giải như trên, chính
sách hàm ý là sản phẩm của một đảng cầm
quyền hoặc của nhà nước, hay mang tính chất
“công”, mặc dù trong thực tế, chính sách đôi
khi còn được hiểu theo nghĩa rộng, trong đó
chủ thể ban hành bao gồm cả những thiết chế
ngoài nhà nước.
Trong bài viết này, khái niệm chính sách
công (public policy) được hiểu là những chính
sách được ban hành bởi các chủ thể công quyền
(mà tiêu biểu là nhà nước4 nhưng theo nghĩa
rộng là cả các đảng cầm quyền). Đây là những
chủ thể mà các quyết định đưa ra có ảnh hưởng
trực tiếp, sâu rộng đến xã hội và công chúng.
Một cách khái quát, có thể hiểu chính sách
công là “tập hợp các quyết định chính trị của
một nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ
thể với giải pháp và công cụ thực hiện để giải
quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã
xác định của đảng chính trị cầm quyền"5.
2 Trung tâm Nghiên cứu và phân tích chính sách (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), Kỹ
năng phân tích và hoạch định chính sách, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011, tr. 13.
3 Nguyễn Minh Thuyết, “Vận động chính sách ở nước ta từ góc nhìn của một cựu đại biểu Quốc hội”, trong cuốn Vận
động chính sách công. Lý luận và thực tiễn, Đào Trí Úc và Vũ Công Giao đồng chủ biên, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2015.
4 Thuật ngữ nhà nước nêu trong định nghĩa trên trong thực tế cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các dạng cơ
quan nhà nước cả ở trung ương và địa phương.
5 Đỗ Phú Hải (2014), “Xây dựng chính sách công: Vấn đề, giải pháp và các yếu tố ảnh hưởng”, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 5/2014.
6 Đỗ Phú Hải - Vũ Công Giao (2015), “Khái quát về chính sách công và vận động chính sách công”, trong cuốn Vận động
chính sách công. Lý luận và thực tiễn, sđd.
7 Nguyễn Minh Thuyết, sđd.
8 Xem thêm Nguyễn Minh Thuyết, sđd.
Chính sách công trước hết là sản phẩm
của tập thể. Trong một xã hội dân chủ, không
một cá nhân nào có toàn quyền quyết định
một chính sách công6. Mặc dù có những cá
nhân đóng vai trò quan trọng, song mọi chính
sách công xét đến cùng đều là sản phẩm của
tập thể, là kết quả của sự vận động, tác động
từ nhiều chủ thể khác nhau, trong đó có các
chủ thể công quyền và cả người dân. Mỗi chủ
thể có vai trò và đóng góp nhất định trong các
khâu khác nhau của quá trình xây dựng, quyết
định và thực hiện chính sách công. Ví dụ, ở
Việt Nam, quá trình hoạch định chính sách
công có sự tham gia của cả hệ thống chính
trị, trong đó ngoài Đảng Cộng sản, Quốc hội
và Chính phủ là các chủ thể có vai trò quan
trọng, trực tiếp nhất còn có sự đóng góp của
các tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức xã hội khác, người dân và
doanh nghiệp.
Các yếu tố chính của chính sách công
bao gồm: phạm vi điều chỉnh, chủ thể ban
hành, đối tượng áp dụng, giải pháp cho vấn đề
xác định và các biện pháp thực hiện giải pháp
ấy7. Tùy vào nhu cầu của thực tiễn, chính sách
công có thể bao quát một lĩnh vực rộng hay
hẹp, được đề ra cho một thời gian dài, tương
đối dài hoặc ngắn. Thông thường, chính sách
đề ra cho một khoảng thời gian trên 10 năm là
chính sách dài hạn; cho khoảng thời gian từ 5
đến 10 năm là chính sách trung hạn; còn cho
khoảng thời gian dưới 5 năm là chính sách
ngắn hạn8.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 21(349) T11/2017
Về mặt hình thức, tuỳ theo hoàn cảnh
của các quốc gia, chính sách công được thể
hiện thông qua nhiều dạng văn bản (vật mang
chính sách)9, tuy nhiên phổ biến nhất là các
văn kiện của đảng cầm quyền và các văn bản
pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước. Ở Việt Nam, chính sách công có thể
được thể hiện trong10: Nghị quyết của các
tổ chức Đảng; văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan nhà nước trung ương và địa
phương; các đề án, dự án phát triển
Khái niệm vận động chính sách công
Vận động chính sách (lobby) - một
khái niệm được cho là xuất phát từ hoạt động
của Nghị viện Anh. Theo Từ điển Oxford,
“lobby” có nghĩa là hành lang ở Nghị viện,
nơi mà các nghị sĩ [Anh] có thể gặp gỡ công
chúng trước và sau mỗi phiên họp11. Ban
đầu, khái niệm vận động chính sách chỉ nỗ
lực của một hoặc một nhóm cá nhân cố gắng
gây ảnh hưởng đến các nhà lập pháp để họ
ủng hộ hay phản đối một dự thảo luật nhất
định. Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm vận
động chính sách được hiểu rộng hơn, vận
động chính sách công, như là “ một quá
trình gây ảnh hưởng tới nhà nước và cơ quan
nhà nước bằng cách cung cấp thông tin về
chương trình nghị sự chính sách công”12, là
“một quá trình mà các cá nhân hay tập thể
phải trải qua để ráp nối những mục tiêu, ưu
tiên của họ vào quá trình quyết sách của các
nhà chính trị để tạo ảnh hưởng tới các kết quả
chính sách”13 hoặc đơn giản là việc “thuyết
phục người được vận động ban hành chính
sách theo ý muốn của người vận động”14, hay
9 Nguyễn Minh Thuyết, sđd.
10 Nguyễn Minh Thuyết, sđd.
11 https://en.oxforddictionaries.com/definition/lobby.
12 Lionel Zetter (2008). Lobbying - the Art of Political Persuasion (Vận động hành lang: Nghệ thuật thuyết phục chính
trị), Harriman House Ltd, (bản tiếng Việt), tr. 17.
13 Nguồn:
14 Tài liệu Tổng quan về vận động hành lang. Hội thảo: “Vận động hành lang - Thực tiễn và Pháp luật”, Ủy ban Đối ngoại
của Quốc hội, Ban Công tác lập pháp phối hợp tổ chức năm 2006. tr. 4.
15 Ann Sullivan. Dẫn theo Trương Thị Hồng Hà (2015), Pháp luật về vận động chính sách ở một số nước và một vài gợi
ý với Việt Nam, trong cuốn Vận động chính sách công. Lý luận và thực tiễn, sđd.
“...vận động giùm cho người khác về một vấn
đề mà người đó không hiểu rõ đường đi nước
bước, họ không biết phải vận động như thế
nào, vận động ai để đề đạt được ý nguyện của
họ lên cơ quan lập pháp”15.
Tóm lại, theo nhận thức phổ biến hiện
nay, vận động chính sách công là hoạt động
có chủ đích, có hệ thống và mang tính chuyên
nghiệp để tiếp cận, thuyết phục, gây ảnh
hưởng, tác động đến những chủ thể có thẩm
quyền hoạch định, ban hành chính sách công
để họ ủng hộ hoặc không ủng hộ một chính
sách, dự luật, chương trình, kế hoạch... của
nhà nước hoặc của đảng cầm quyền, từ đó
xác lập, bảo vệ hay củng cố lợi ích của một
nhóm xã hội nào đó.
Cơ sở của vận động chính sách công
Về mặt lý thuyết, vận động chính sách
công cũng bắt nguồn từ các nguyên lý cơ bản
của một nền dân chủ, đó là quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân, nhà nước là một
thiết chế được Nhân dân lập ra để cung cấp
các dịch vụ công cho xã hội chứ không phải
một chủ thể tự sinh, đứng trên Nhân dân. Tư
cách chủ thể của quyền lực nhà nước cho
phép Nhân dân tham gia vào quá trình xây
dựng chính sách công, bằng cách nêu ra các
ý kiến, quan điểm, đề xuất và vận động các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận
ý tưởng và nội dung của các chính sách; còn
tư cách thiết chế cung cấp dịch vụ công xác
lập nghĩa vụ của nhà nước phải tôn trọng,
lắng nghe và tham khảo ý kiến của người dân
trong quá trình hoạch định chính sách công.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 21(349) T11/2017
Về mặt pháp lý, vận động chính sách
công bắt nguồn từ các quyền dân sự, chính trị
cơ bản của công dân được khẳng định trong
Hiến pháp của tất cả các quốc gia. Đó là các
quyền tự do tư tưởng, biểu đạt, tự do hiệp hội,
hội họp và quyền tham gia quản lý nhà nước.
Các quyền và tự do này cho phép người dân
bày tỏ, đề đạt, tuyên truyền và vận động một
cách ôn hoà những yêu cầu, nguyện vọng của
mình với nhà nước và ràng buộc nghĩa vụ của
các nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng đó
của người dân.
Về mặt thực tiễn, vận động chính sách
công bắt nguồn từ nhu cầu của cả nhà nước
và xã hội. Về phía nhà nước, do chức năng
quản lý nên cần phải xây dựng và ban hành
chính sách, pháp luật để điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Một trong những yêu cầu với việc
này là phải “kết nối lợi ích, duy trì đồng thuận
xã hội của hệ thống chính trị và nhà nước”16.
Đây được xem như là mục tiêu của cơ chế
phản ánh lợi ích trong nhà nước dân chủ và
pháp quyền17. Tuy nhiên, do tính chất rộng
lớn, phức tạp của các vấn đề xã hội cần quản
lý và nguồn lực giới hạn của các nhà nước,
nên chính sách, pháp luật do nhà nước ban
hành khó đáp ứng được yêu cầu đã nêu, thậm
chí có thể ảnh hưởng bất hợp lý và tiêu cực
đến lợi ích của một vài nhóm xã hội nhất định.
Để khắc phục tình trạng này, quá trình hoạch
định chính sách công cần được mở rộng cho
sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước,
dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo nghĩa
đó, vận động chính sách công xuất phát từ
nhu cầu của cả nhà nước và các nhóm xã hội.
16 Đào Trí Úc, “Vận động chính sách công ở Việt Nam: Quan điểm tiếp cận và cơ sở pháp lý”, trong cuốn Vận động chính
sách công. Lý luận và thực tiễn, sđd.
17 Đào Trí Úc, sđd.
18 Xem thêm Đào Trí Úc, sđd.
19 Lionel Zetter, sđd, tr. 30.
Bản chất và chủ thể của vận động
chính sách công
Về bản chất, vận động chính sách công
là hành động gây ảnh hưởng, gây áp lực lên
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạch
định, ban hành chính sách. Nó không phải là
một hoạt động vô tư mà luôn xuất phát từ và
để bảo vệ lợi ích của một nhóm chủ thể nhất
định (“nhóm lợi ích” - interest group), có thể
là một hiệp hội, một tổ chức, một phong trào,
một cộng đồng, hay một đảng chính trị18.
Đi sâu hơn, trong cuốn Lobbying - the Art of
Political Persuasion (Vận động hành lang:
Nghệ thuật thuyết phục chính trị)19, Derek
Draper chỉ ra rằng, một trong những đặc
điểm của vận động chính sách công là hoạt
động phục vụ lợi ích của một nhóm xã hội
nào đó mà không nhất thiết vì lợi ích của bản
thân người thực hiện vận động (mặc dù trong
nhiều trường hợp, các lợi ích này có thể phù
hợp với nhau).
Các yếu tố nêu trên là rất quan trọng để
phân biệt giữa vận động chính sách công và
các hoạt động như góp ý/tham gia/tư vấn hay
phản biện chính sách mà thường không
mang yếu tố lợi ích nhóm rõ ràng.
Cũng bởi tính mục đích nêu trên, vận
động chính sách công mang tính chất chuyên
nghiệp và đòi hỏi sự công khai, minh bạch
cao hơn nhiều so với các hoạt động như góp
ý/tham gia/tư vấn hay phản biện chính sách.
Chủ thể thực hiện vận động chính sách công
cũng tương đối khác biệt, thông thường đó là
những cá nhân, tổ chức có đăng ký hành nghề
này, trong khi các hoạt động như góp ý/tham
gia/tư vấn hay phản biện chính sách có thể
do bất kỳ một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào
trong xã hội thực hiện.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 21(349) T11/2017
Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất kỳ thời
điểm nào cũng tồn tại các nhóm lợi ích, vì
thế về nguyên tắc sẽ tồn tại các nhu cầu và
khả năng có hành động vận động chính sách
công. Thực tế ở các quốc gia cho thấy, các
nhóm lợi ích có thể được chia thành nhiều loại
như20: (i) Các nhóm có lợi ích kinh tế (ví dụ,
các hiệp hội đại diện cho các công ty, doanh
nghiệp, giới doanh nhân, các nghiệp đoàn của
người lao động); (ii) Các nhóm có lợi ích liên
quan đến cộng đồng (ví dụ, các hiệp hội phụ
huynh học sinh, bảo vệ môi trường, bảo vệ
các nhóm yếu thế trong xã hội, bảo vệ di sản
văn hóa, các nhóm hoạt động về quyền con
người); (iii) Các nhóm có lợi ích liên quan
đến nghề nghiệp (ví dụ, các hiệp hội của các
tỉnh trưởng, thị trưởng các đô thị; các hiệp
hội của giới luật sư, giới nhà báo); (iv) Các
nhóm có lợi ích chính trị (các đảng phái chính
trị và các phong trào, tổ chức ủng hộ các đảng
phái chính trị); (v)Các nhóm có lợi ích liên
quan đến tôn giáo, tín ngưỡng (các tổ chức
của nhà thờ, của các tôn giáo, tín ngưỡng
khác nhau);
Chủ thể chịu sự tác động của vận động
chính sách công theo nghĩa rộng là tất cả các
cá nhân, cơ quan, tổ chức có vai trò và trách
nhiệm hoạch định, ban hành và thực thi chính
sách công ở quốc gia. Mặc dù vậy, thực tế
trên thế giới cho thấy, chủ thể chính trong số
này thường là các cơ quan và quan chức của
hai ngành hành pháp và lập pháp ở cấp trung
ương. Ở nhiều quốc gia, sáng kiến lập pháp
khởi đầu và chủ yếu từ nhánh hành pháp, vì
thế đối tượng được chú ý vận động nhất lại là
các cơ quan và quan chức của Chính phủ chứ
không phải là Quốc hội. Ví dụ, ở Mỹ, 76%
số người hành nghề vận động hành lang tập
trung vào đối tượng vận động thuộc nhánh
20 Xem thêm, Phạm Duy Nghĩa (2015). “Vận động hành lang: Vai trò của các hiệp hội kinh tế trong hoạt động lập pháp”,
trong cuốn Vận động chính sách công. Lý luận và thực tiễn, sđd.
21 Phạm Duy Nghĩa, sđd.
22 Trịnh Thị Xuyến (2015). “Khía cạnh tích cực và tiêu cực của vận động chính sách ở một số nước trên thế giới và kinh
nghiệm cho Việt Nam”, trong cuốn Vận động chính sách công. Lý luận và thực tiễn, sđd.
hành pháp, chỉ có 13% có đối tượng vận động
thuộc nhánh lập pháp, và trong số hơn 9 vạn
người hành nghề vận động chính sách ở thủ
đô Mỹ, chỉ có khoảng 7% đăng ký tại Quốc
hội21. Điều này cũng phù hợp với thực tế ở
các quốc gia đó là quá trình vận động thường
bắt đầu bằng việc thúc đẩy sự ra đời của dự
thảo chính sách công bởi nhánh hành pháp,
tiếp đến là để dự thảo trở thành một dự luật
và được thông qua tại Quốc hội.
2. Các khía cạnh tích cực và tiêu cực của
vận động chính sách công
Mặc dù ngày càng phổ biến trên thế
giới, nhưng giống như bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào khác, vận động chính sách công
cũng có cả hai mặt tích cực và tiêu cực22:
Những khía cạnh tích cực của vận động
chính sách công chính là ý nghĩa của nó với
nhà nước và xã hội, trong đó tiêu biểu là:
Thứ nhất, đây là một kênh cung cấp
thông tin quan trọng cho các cơ quan hoạch
định chính sách công
Như đã đề cập, trong quá trình xây
dựng chính sách công, cơ quan nhà nước cần
phải có càng đầy đủ càng tốt thông tin về
những quan hệ xã hội mà chính sách đó sẽ tác
động đến. Tuy nhiên, bản thân các cơ quan
hoạch định chính sách công, do những giới
hạn về nguồn nhân, vật lực, thường không thể
tự mình thu thập được đầy đủ thông tin trong
quá trình này. Những thông tin còn thiếu được
bổ sung bằng nhiều cách, trong đó bao gồm
việc tiếp nhận từ các cá nhân, tổ chức vận
động chính sách công. So với các kênh thông
tin khác, cá nhân, tổ chức vận động chính
sách công thường cung cấp những thông tin
có tính hệ thống và toàn diện hơn về vấn đề
cho các cơ quan hoạch định chính sách, qua
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 21(349) T11/2017
đó giúp các cơ quan này hiểu rõ hơn về sự cần
thiết, ý nghĩa và tác động của chính sách từ
thực tiễn cuộc sống và nhu cầu của các nhóm
xã hội.
Thứ hai, vận động chính sách công
góp phần chuyển tải ý chí, nguyện vọng của
người dân đến các cấp chính quyền
Trong một nhà nước dân chủ, việc xác
lập các cơ chế để người dân dễ dàng bày tỏ ý
chí, nguyện vọng của mình với chính quyền
là hết sức quan trọng. Đây là một trong những
tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ tiến bộ
của một nền dân chủ.
Trong thực tế ở các quốc gia dân chủ,
người dân có thể bày tỏ ý chí, nguyện vọng
của mình với chính quyền qua nhiều “kênh”
khác nhau, mỗi kênh có những ưu, nhược
điểm riêng. Vận động chính sách công có thể
xem là một trong những kênh như vậy. Ưu
điểm của kênh này là nó thường chuyển tải ý
chí, nguyện vọng chung của một nhóm người
dân trong xã hội dưới dạng những nghiên cứu
toàn diện, chuyên sâu trong đó chứa đựng
những kiến nghị, thông điệp rõ ràng về một
vấn đề cụ thể trong quản lý xã hội, do một
cá nhân hay tổ chức vận động hành lang xây
dựng, vì thế hiệu quả tác động (tính thuyết
phục) đối với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thường cao hơn so với các phương
thức thể hiện ý chí, nguyện vọng khác.
Thứ ba, vận động chính sách công góp
phần thúc đẩy sự giám sát, phản biện và thảo
luận dân chủ trong xã hội
Giám sát, phản biện của người dân,
cũng như thảo luận công khai về các vấn đề
của đất nước và cộng đồng cũng là những
tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ tiến
bộ của một nền dân chủ.
Giống như các hoạt động khác, ở các
quốc gia người dân có thể sử dụng nhiều kênh
để giám sát, phản biện và thảo luận về các
chính sách do nhà nước xây dựng và thực hiện.
Vận động chính sách công cũng có thể xem là
một trong các kênh như vậy. Nó góp phần thúc
đẩy và tăng cường chất lượng các hoạt động
giám sát, phản biện và thảo luận chính sách
thông qua việc nêu ra vấn đề một cách toàn
diện, đa chiều, có chiều sâu, theo cách thức lôi
cuốn sự chú ý của không chỉ các cơ quan nhà
nước mà tất cả người dân trong xã hội.
Thông qua việc thu hút sự tham gia
của người dân vào các cuộc thảo luận chính
sách, vận động chính sách công thúc đẩy tính
dân chủ của xã hội. Bằng hoạt động vận động
chính sách công, các nhóm người dân trong
xã hội tác động vào quy trình hoạch định và
ra quyết định chính sách của nhà nước, làm
cho quá trình này trở nên công khai, minh
bạch và có trách nhiệm giải trình hơn.
Thứ tư, vận động chính sách công giúp
các nhóm trong xã hội đạt được và/hoặc bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình
Trong bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại
những nhóm khác nhau về dân tộc, chủng
tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nghề nghiệp gắn
bó bằng những mối quan tâm và lợi ích chung
của nhóm. Việc thể hiện những mối quan tâm
và bảo vệ những lợi ích chung của các nhóm
là chính đáng nếu như nó không triệt tiêu
lợi ích chính đáng của cộng đồng và của các
nhóm xã hội khác.
Vận động chính sách công là một trong
những cách thức hiệu quả nhất để các nhóm
xã hội thể hiện mối quan tâm và bảo vệ, đòi
hỏi lợi ích chung chính đáng của mình. Thông
qua việc kiến nghị ban hành một chính sách
mới, hoặc sửa đổi, điều chỉnh một chính sách
hiện có, các nhóm xã hội lưu ý chính quyền
về những nguyện vọng và lợi ích của nhóm.
Trong trường hợp nhận thấy rằng những kiến
nghị đó mang lại lợi ích cho nhóm xã hội đề
xuất mà không làm triệt tiêu hoặc làm giảm
lợi ích của các nhóm xã hội khác hoặc của
cộng đồng một cách bất hợp lý thì nhà nước
sẽ xem xét để đáp ứng. Khi đó lợi ích chính
đáng của nhóm xã hội thực hiện vận động
chính sách công đã đạt được.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 21(349) T11/2017
Bên cạnh những khía cạnh tích cực,
hoạt động này cũng hàm chứa những khía
cạnh tiêu cực sau đây:
Thứ nhất, vận động chính sách công
nếu không được pháp luật điều chỉnh thích
hợp có thể gây tổn hại đến lợi ích chính đáng
của các nhóm yếu thế, làm gia tăng bất bình
đẳng trong xã hội
Mặc dù là công cụ tốt để các nhóm xã
hội bảo vệ và đạt được những lợi ích chính
đáng của mình, song không phải trong mọi
trường hợp vận động chính sách công cũng
bảo đảm sự hài hoà về lợi ích giữa các nhóm
trong xã hội.
Liên quan đến vấn đề trên, một đặc điểm
chung trong hoạt động vận động chính sách
công ở các quốc gia là nó thường do các hiệp hội
kinh tế tiến hành. Những hiệp hội này thường
đại diện cho những doanh nghiệp và các cá
nhân có thế lực, giàu có, vì thế có nguồn lực tài
chính lớn, có thể thực hiện các cuộc vận động
chính sách dưới nhiều hình thức, liên tục, với
cường độ cao và kéo dài để đạt được mục đích.
Trong khi đó, các nhóm xã hội khác, đặc biệt
là các nhóm yếu thế như người nghèo, người
thiểu sốthường không có điều kiện thực hiện
các hoạt động vận động chính sách, hoặc nếu
có thì chỉ dưới những hình thức đơn giản, trong
thời gian ngắn, vì vậy ý kiến, nguyện vọng của
họ khó có cơ hội đến với chính quyền và được
thể hiện trong chính sách23.
Sự chi phối của các tập đoàn kinh tế
trong hoạt động vận động chính sách công
có thể coi là một nguy cơ với việc bảo đảm
công bằng xã hội và với nền dân chủ, vì các
thế lực tài chính hùng mạnh hoàn toàn có thể
bóp méo quá trình hoạch định chính sách
23 Trịnh Thị Xuyến, sđd.
24 Ngọc Hà: Vận động và hối lộ - lằn ranh giới mong manh, Báo Người Đại biểu nhân dân, ngày 26/9/2007.
25 Kenneth Godwin, Scotth Ainsworth, Erik Godwin, Lobbying and Policymaking, the Public Pursuit of Private Interest.
Sage, 2013, tr. 1.
26 Nguyễn Quốc Văn (2007), Các nhóm lợi ích và vận động chính sách trong nền chính trị Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.
27 Nguyễn Chí Dũng (2006), tlđd.
công. Về vấn đề này, theo một nghiên cứu,
ở Hoa Kỳ, 72% số cá nhân và tổ chức vận
động hành lang đăng ký tại Quốc hội là đại
diện cho các tổ chức và hiệp hội kinh tế, chỉ
có 8% đại diện cho các tổ chức xã hội nghề
nghiệp và 5% đại diện cho các nhóm bảo vệ
nhân quyền, phúc lợi xã hội, 2% đại diện cho
người nghèo và 1% đại diện cho những nhóm
yếu thế trong xã hội như người già và người
tàn tật24. Kết quả là khi lấy ý kiến công chúng
về việc chủ thể nào đang điều hành nước Mỹ,
ở thời điểm năm 1946, khoảng 30% tin rằng
đó là một vài nhóm lợi ích lớn (big interests
- hàm ý các tập đoàn kinh tế), nhưng đến thời
điểm năm 2008, tỷ lệ này lên đến 80%25. Về
vấn đề này, có tác giả nhận xét rằng: “Tại Mỹ,
trong nền chính trị hiện đại, lobby chính là
việc dùng thế lực của tiền bạc để vận động
và làm áp lực để Quốc hội hoặc các cơ quan
nhà nước hành động theo chiều hướng phục
vụ quyền lợi của tư bản”26. Thậm chí có quan
điểm cho rằng, “ưu thế về tài chính trong
vận động chính sách đã bóp méo nền dân
chủ phương Tây, thao túng đáng kể đời sống
chính trị các quốc gia này”27.
Thứ hai, vận động chính sách công có
thể bị lợi dụng để hối lộ, tham nhũng
Nếu khuôn khổ pháp luật thiếu hoàn
chỉnh và việc thực thi không nghiêm, vận
động chính sách công rất dễ biến tướng trở
thành hành vi “chạy chính sách” hay hối lộ để
tác động đến chính sách.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy, đây là
việc đã từng diễn ra từ lâu ở nhiều quốc gia.
Ví dụ, trước tình trạng biến tướng của vận
động hành lang ở Hoa Kỳ, năm 1841, James
Silk Buckingham đã định nghĩa những người
vận động hành lang là “các đại diện được lựa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 21(349) T11/2017
chọn bởi kỹ năng của họ trong nghệ thật lừa
dối, thuyết phục và hối lộ các thành viên của
cơ quan lập pháp”28. Còn Everit Brown và
Albert Strauss vào năm 1888 thì cho rằng,
“vận động hành lang là một thuật ngữ được
áp dụng chung cho những người tiến hành
việc gây ảnh hưởng tới các nhà lập pháp bằng
những biện pháp sai trái... Họ thường đạt tới
các mục tiêu của mình thông qua việc trả
tiền cho các thành viên cơ quan lập pháp, tuy
nhiên bất kỳ biện pháp khả thi nào khác cũng
có thể được áp dụng”29.
Một trong những lý do khiến cho vận
động chính sách công thường bị biến tướng
tiêu cực là vì hoạt động này đòi hỏi phải có sự
tiếp xúc, tác động tới những cá nhân có thẩm
quyền trong các cơ quan hoạch định chính
sách. Trong bối cảnh đó, sự “đổi chác”, “mua
bán” lợi ích rất có thể diễn ra nếu không có sự
kiểm soát chặt chẽ.
Để vận động chính sách công không bị
biến tướng, trở thành một con “quái vật” lũng
đoạn chính trường30, cần xây dựng một khung
pháp lý toàn diện, chặt chẽ cho hoạt động này.
Đây chính là lý do mà Hoa Kỳ, Canada, Anh
và một số nước khác trên thế giới đã và đang
xây dựng một luật riêng nhằm minh bạch
hoá, qua đó hạn chế những biến tướng tiêu
cực trong vận động chính sách công31.
Thứ ba, vận động chính sách công
cũng có thể dẫn đến bóp méo hoặc làm bế tắc
quy trình hoạch định chính sách
Mặc dù được xem là phương thức thúc
đẩy hiệu quả hoạch định, ban hành chính sách
của nhà nước, bản thân vận động chính sách
công cũng có thể dẫn đến bóp méo hoặc làm
bế tắc quy trình hoạch định chính sách.
28 Everit Brown và Albert Strauss, trong cuốn Từ điển chính trị Mỹ (Dictionary of American Politics - 1888), tr. 54.
29 Tài liệu trên, tr. 57.
30 Trịnh Thị Xuyến, sđd.
31 SPERI: Vận động hành lang - Thực tiễn và Pháp luật (Kỷ yếu hội thảo), Nxb. Lao động - Xã hội, 2007, tr. 149.
32 Trịnh Thị Xuyến, sđd.
33 Trịnh Thị Xuyến, sđd.
Điều đó là bởi có sự cạnh tranh giữa
các nhóm lợi ích tham gia vận động chính
sách công. Sự cạnh tranh này trong một số
trường hợp dẫn đến những tranh cãi kéo dài
khiến cơ quan nhà nước bối rối không thể ra
quyết định được (bế tắc chính sách - policy
gridlock). Hậu quả là vấn đề kinh tế, xã hội
không được giải quyết kịp thời, do đó mất đi
cơ hội phát triển.
Về nguyên tắc, các nhóm lợi ích càng
nhiều và càng mạnh thì sự đấu tranh trong
vận động chính sách công càng phức tạp và
quyết liệt, do đó áp lực đặt lên cơ quan có
thẩm quyền hoạch định, ban hành chính sách
công càng lớn, khả năng có sự bế tắc chính
sách càng cao. Ở đây, sự bế tắc trong chính
sách còn thể hiện ở chỗ các nhóm lợi ích luôn
có xu hướng đấu tranh đòi xoá bỏ những đạo
luật, những chính sách có lợi cho xã hội, kể
cả khi đã ban hành, mà không phù hợp với lợi
ích của họ32.
Nhìn từ một góc độ khác, sự cạnh tranh
của nhiều nhóm lợi ích khác nhau trong vận
động chính sách công còn có thể dẫn đến tình
trạng “thỏa hiệp” về chính sách, tức là việc
cơ quan có thẩm quyền quyết định ban hành
một chính sách công theo tinh thần “chia sẻ
lợi ích” giữa một số nhóm xã hội, thay vì một
chính sách mang lại lợi ích tối ưu cho toàn
thể cộng đồng như đề xuất ban đầu. Đây được
xem là sự “bóp méo” chính sách do vận động
chính sách công33.
Thứ tư, vận động chính sách công tốn
kém nguồn lực của xã hội
Trong cuốn: “Vận động hành lang và
thay đổi chính sách”, một nhóm tác giả đã cho
thấy những khoản chi phí rất lớn, có xu hướng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 21(349) T11/2017
ngày càng tăng, hàng năm đến nhiều tỷ đô la,
đang được bỏ ra cho các hoạt động vận động
hành lang ở các nước phát triển, đặc biệt là
Hoa Kỳ34. Ví dụ, chỉ tính riêng ở Mỹ, trong
khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2010,
chi tiêu cho vận động hành lang ở cấp liên
bang đã tăng từ 1,56 tỉ tới hơn 3,5 tỉ đô la35.
Trên bình diện chính sách, các cuộc vận
động càng sôi nổi thì càng có cơ hội làm rõ
các khía cạnh của vấn đề, và về nguyên lý,
càng hữu ích với các chủ thể có thẩm quyền
hoạch định, ban hành chính sách. Vì thế, có
quan điểm cho rằng những tốn kém trong vận
động chính sách công, cho dù lớn đến đâu,
vẫn là cần thiết và xứng đáng. Tuy nhiên, nhìn
trên bình diện xã hội nói chung thì vận động
chính sách tiêu tốn quá nhiều thời gian và tiền
bạc, gây lãng phí các nguồn lực xã hội36, đặc
biệt khi không phải lúc nào các cuộc vận động
hành lang cũng đem lại kết quả. Trong tác
phẩm “Vận động hành lang và thay đổi chính
sách” đã nêu trên, nhóm tác giả đã thống kê và
kết luận rằng, 64% chiến dịch vận động hành
lang ở các nước phát triển gần đây đã thất bại
trong việc thay đổi chính sách công.
3. Các hình thức, phương pháp và
nguyên tắc vận động chính sách công
Theo một tài liệu, có hai cách phân loại
các hình thức vận động chính sách công là:
(i) Dựa trên đối tượng cần tiếp cận, thuyết
phục, gây ảnh hưởng, và (ii) Dựa trên chủ
thể, nhóm lợi ích có nhu cầu gây ảnh hưởng.
Đối với trường hợp thứ nhất, có hai loại vận
động: vận động ở mức cơ sở, thể hiện ở việc
“thuyết phục công chúng để thương thuyết
quan điểm của tổ chức đối với quá trình ra
34 Frank R. Baumgartner, Jeffrey M. Berry, Marie Hojnacki, David C. Kimball, Beth L. Leech (2009). Lobbying and
Policy Change: Who Wins, Who Loses, and Why, University of Chicago Press.
35 Kenneth Godwin, Scotth Ainsworth, Erik Godwin (2013), sđd. tr 2.
36 Trịnh Thị Xuyến, sđd.
37 Tài liệu Tổng quan về vận động hành lang tlđd, tr.6.
38 Tài liệu Tổng quan về vận động hành lang, tlđd, tr.6.
39 Lionel Zetter (2008), sđd. tr. 53-56.
40 Đào Trí Úc, sđd.
quyết định của các cơ quan công quyền”, và
vận động trực tiếp, thể hiện ở việc “tác động
trực tiếp đến những nhà lập pháp hoặc nhân
viên của cơ quan công quyền để họ ủng hộ,
phản đối hay kêu gọi các thành viên của tổ
chức cùng hành động”37. Đối với trường hợp
thứ hai, cũng có hai loại vận động: vận động
mở, được xem là vận động “của các tổ chức
phi chính phủ (NGOs) [] theo đuổi hành
lang minh bạch, dựa trên nền tảng cộng đồng
ở cơ sở (từ dưới lên)”, và vận động từ các
doanh nghiệp, được xem là dạng vận động
“đứng trên nền tảng từ phía trên xuống, dựa
vào sức mạnh tài chính”38.
Từ góc độ mục đích, Lionel Zetter phân
loại các hoạt động vận động chính sách công
thành: (i) Chiến dịch nâng cao hình ảnh (về
chủ thể vận động hoặc cần được vận động);
(ii) Xây dựng mối quan hệ với các chủ thể
cần tác động; (iii) Xây dựng chính sách; và
(iv) Xây dựng pháp luật39.
Cho dù dưới hình thức nào thì vận động
chính sách công cũng nhằm tác động đến các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoạch định,
ban hành chính sách. Sự tác động đó có thể
được thực hiện bằng nhiều phương pháp
như40: tham dự và nêu ý kiến trong các cuộc
điều trần tại Quốc hội; tham gia, vận động để
được chủ trì khởi thảo các văn bản pháp luật;
thiết kế và thực hiện các tiếp xúc, tọa đàm,
đối thoại chính sách; sử dụng các hình thức
quan hệ công chúng nhằm gây tác động đến
công luận; sử dụng các cách thức gây sức ép
từ cơ sở, chẳng hạn như thông qua các thư
kiến nghị, ý kiến cử tri đối với đại biểu tại
khu vực bầu cử; biên soạn và phát hành các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 21(349) T11/2017
công trình nghiên cứu khoa học, khảo sát thực
tế; tổ chức các sự kiện; tìm cách đưa “người
của mình” vào các cơ quan hoạch định chính
sách; tài trợ cho các cuộc vận động tranh cử;
hối lộ các quan chức, v.v..
Sự đa dạng của các phương pháp tác
động đến cơ quan hoạch định chính sách dẫn
đến việc phân loại thành vận động chính sách
“hợp pháp” và “bất hợp pháp”, trong đó, vận
động bất hợp pháp thể hiện ở những hành vi
hối lộ các quan chức công quyền nhằm đạt
được những quyết sách có lợi cho kẻ hối lộ41.
Chính những hành vi bất hợp pháp như vậy
đã dẫn đến có quan điểm coi vận động chính
sách công như là một loại tội phạm.
Cũng xuất phát từ yêu cầu loại trừ
những hành vi bất hợp pháp trong vận động
chính sách công, luật pháp của một số nước
đã quy định các nguyên tắc cơ bản cần tuân
thủ khi thực hiện hoạt động này, bao gồm:
Thứ nhất, tính hợp pháp
Đây được coi là nguyên tắc chung đầu
tiên được đặt ra đối với hoạt động vận động
chính sách công. Tính hợp pháp thể hiện ở
việc hoạt động này phải chịu sự điều chỉnh
của pháp luật. Để thực hiện nguyên tắc này,
pháp luật Hoa Kỳ, Canada, Anh, Cộng hòa
Liên bang Đức đều quy định các nhà vận
động chính sách phải đăng ký hoạt động.
Trong Bộ các tiêu chí về pháp luật vận động
chính sách do Tổ chức Minh bạch quốc tế
xây dựng để làm tài liệu tham khảo cho các
quốc gia42, việc đăng ký bắt buộc (mandatory
register) được áp dụng đối với tất cả các cá
nhân, tổ chức vận động hành lang trước khi
bắt đầu hoạt động và ngay sau khi có bất kỳ
thay đổi có liên quan nào.
41 Đào Trí Úc, sđd.
42 Transparency International (2015), International Standards for Lobbying Regulation, xuất bản với sự hỗ trợ tài chính
của Chương trình phòng, chống tội phạm của Ủy ban châu Âu.
43 Nguyễn Thị Mơ (2015), ‘Các tiêu chuẩn phổ biến trên thế giới điều chỉnh vấn đề vận động chính sách công’, trong cuốn
Vận động chính sách công. Lý luận và thực tiễn, sđd.
44 Duško Krsmanović (2013), A guidebook on Lobbying, Konrad-Adenauer-Stiftung, tr. 36.
Thứ hai,tính công khai, minh bạch
Đây cũng là một nguyên tắc quan
trọng của vận động chính sách công, nhằm
ngăn ngừa tình trạng lợi dụng “đi đêm”, hối
lộ quan chức, “chạy chính sách”. Ngoài ra,
nguyên tắc về tính công khai, minh bạch còn
giúp cộng đồng giám sát quá trình hoạch định
chính sách công của nhà nước43. Nguyên tắc
này đã được quy định trong pháp luật của một
số quốc gia. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, các nhà vận
động chính sách phải công khai không chỉ
tên tuổi của bản thân, mà còn của các khách
hàng, các cuộc tiếp xúc, các nội dung vận
động và số tiền công họ được chi trả. Ở châu
Âu, năm 2011, Ủy ban và Nghị viện châu Âu
cũng ban hành một bộ quy tắc áp dụng cho
những nhà vận động chính sách công, trong
đó có quy định về công khai, minh bạch trong
hoạt động44. Trong Bộ các tiêu chí về pháp
luật vận động chính sách của Tổ chức Minh
bạch quốc tế, những thông tin phải công khai
bao gồm: định danh của chủ thể thực hiện vận
động chính sách, nội dung vận động, kết quả
mong đợi, loại hình và tần suất thực hiện...
Thứ ba, tính khách quan, vô tư
Đây là một trong những nguyên tắc
được Derek Draper nêu ra trong cuốn Vận
động hành lang: Nghệ thuật thuyết phục
chính trị, xuất phát từ đặc điểm của vận động
chính sách công là hoạt động phục vụ lợi ích
của một nhóm xã hội nào đó mà không nhất
thiết vì lợi ích của bản thân người thực hiện
vận động. Tính khách quan, vô tư thể hiện ở
việc bất kỳ nhóm xã hội nào cũng có thể tiếp
cận và nhờ cậy các cá nhân, tổ chức thực hiện
vận động chính sách công mà không bị phân
biệt đối xử về ý tưởng, quan niệm, niềm tin
về chính trị hay về các yếu tố khác; còn các cá
(Xem tiếp trang 47)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 21(349) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_van_dong_chinh_sach_cong.pdf