Một vài kiến nghị sửa đổi
Xuất phát từ những vướng mắc, bất
cập nêu trên và để tháo gỡ những khó
khăn đó thì bên cạnh việc phải thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, việc
sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật liên quan đến lĩnh vực này là hết sức
cần thiết. Cụ thể là:
Thứ nhất, liên quan đến quyền thu
giữ tài sản bảo đảm để xử lý, Điều 63 của
Nghị định 163/2006/NĐ-CP cần sửa đổi,
bổ sung theo hướng mở rộng quy định
liên quan đến phạm vi, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp
xã và cơ quan công an nơi tiến hành thu
giữ tài sản bảo đảm cũng như mở rộng
quyền yêu cầu của bên xử lý tài sản bảo
đảm. Theo đó, bên xử lý tài sản bảo đảm
không chỉ có quyền yêu cầu cơ quan công
an, Uỷ ban nhân dân cấp xã tham gia để
giữ gìn an ninh, trật tự mà còn có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng biện pháp buộc bên giữ tài sản
bảo đảm phải giao tài sản bảo đảm cho
bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm để
xử lý.
Thứ hai, sau thời gian thí điểm áp
dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 cần
sửa đổi Điều 301 Bộ luật dân sự năm
2015 theo hướng quy định trao quyền
thu giữ tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo
đảm nói chung, tức là mở rộng phạm vi
đối tượng áp dụng. Theo đó, khi người
đang giữ tài sản không giao tài sản thì
bên nhận bảo đảm có quyền áp dụng các
biện pháp hợp pháp để thu giữ tài sản
bảo đảm đó mà không nhất thiết phải
khởi kiện ra Tòa án.
Thứ ba, bổ sung quy định đưa ra căn
cứ để định giá theo giá thị trường đối với
tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà
người sử dụng đất được nhà nước trao
quyền sử dụng đất thông qua hợp đồng
cho thuê quyền sử dụng đất.
Thứ tư, bổ sung các quy định để hướng
dẫn cụ thể đối với từng phương thức xử lý
tài sản bảo đảm theo thỏa thuận, trong đó
đặc biệt lưu ý đến các quy định về trình
tự, thủ tục thực hiện các phương thức xử
lý tài sản bảo đảm đó .
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vướng mắc, bất cập của các quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng và kiến nghị sửa đổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP CỦA CÁC QUY ĐỊNH
VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG *
Trong những năm gần đây, nợ xấu và giải quyết nợ xấu là chủ đề được
quan tâm đáng kể. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng với hệ thống ngân
hàng đã nỗ lực triển khai đồng bộ các giải pháp để giải quyết vấn đề này nhằm
xử lý nợ xấu, thu hồi vốn, làm tan “cục máu đông” của nền kinh tế. Trong số các
giải pháp khác nhau thì xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vẫn được xem là
giải pháp cơ bản, phổ biến. Chính vì lẽ đó, trong những năm vừa qua, pháp luật
về xử lý tài sản bảo đảm đã được ban hành tương đối đầy đủ, tạo hành lang
pháp lý cho hoạt động này. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng đã bộc lộ không
ít những vướng mắc, bất cập từ nhiều nguyên nhân khác nhau đặc biệt là từ cơ
chế pháp lý. Do đó, để hoạt động xử lý tài sản bảo đảm được tiến hành hiệu quả
đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình
hình và nhu cầu thực tiễn.
Từ khóa: Xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, mua bán nợ.
In recent years, bad debt and bad debt settlement have still remained
as a topic attracting considerable concern. The competent authorities,
together with the banking system, have made a huge effort to address this
problem by implementing different solutions synchronously in order to
deal with bad debts, recover capital, and dissolve the “blood clots” of the
economy. Among the solutions, collateral handling for recovering debt is
still considered as the basic and popular one. Therefore, recently, the law
on the disposals of secured assets has been issued relatively sufficient,
which creates a legal corridor for these activities. However, throughout
the practical application, it has revealed itself with many obstacles and
inadequacies derived from many different causes, especially from the
legal mechanism. Therefore, in order to effectively dispose the secured
assets, the legal system must acquire some amendments and supplements
to meet with the practical situation and requirements.
Keywords: Disposals of secured assets, disposals of bad debt, debt
purchase and sale.
Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là một giai đoạn của bảo đảm tiền vay bằng tài sản, giai đoạn thực
hiện các biện pháp đối với tài sản bảo
đảm nhằm thu hồi khoản nợ mà tổ chức
tín dụng đã cho vay khi có sự vi phạm
nghĩa vụ của khách hàng vay, bên bảo
lãnh theo những cam kết tại hợp đồng tín
dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay(1).
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật Dân sự và Kiểm sát Dân
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
1 Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm
tiền vay bằng tài sản của các TCTD (Sách chuyên
khảo); Nxb Tư pháp, Hà Nội
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG
39Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Như vậy, mục đích của việc xử lý tài
sản bảo đảm khá rõ ràng. Tuy nhiên, để
đạt được mục đích thì đòi hỏi quá trình
xử lý tài sản bảo đảm phải có hiệu quả.
Từ trước đến nay, làm thế nào để xây
dựng được một cơ chế linh hoạt, chủ
động cho các chủ thể khi xử lý tài sản
bảo đảm luôn là vấn đề được quan tâm.
Thực tế cho thấy, đa số các khoản vay
mà tổ chức tín dụng cung cấp cho khách
hàng thì đều có tài sản bảo đảm thông
qua biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ là cầm cố hoặc thế chấp. Và khi đến
hạn trả nợ nhưng khách hàng không
thực hiện nghĩa vụ của mình (các khoản
nợ quá hạn) thì tổ chức tín dụng sẽ chủ
động lựa chọn một trong các phương
thức sau đây để xử lý khoản nợ quá
hạn như: (i) Trích lập dự phòng rủi ro;
(ii) Thu hồi trực tiếp và thông qua bán
phát mãi tài sản bảo đảm nợ vay; (iii)
Bán nợ; (iv) Cơ cấu lại nợ, xóa nợ; hoặc
(v) Khởi kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài.
Trong đó, phương thức thu hồi trực tiếp
và thông qua bán phát mãi tài sản bảo
đảm nợ vay hay nói cách khác là khai
thác và thanh lý tài sản bảo đảm cho
khoản vay vẫn đang là một trong những
phương thức được các tổ chức tín dụng
ưu tiên áp dụng. Tuy nhiên, khi tổ chức
tín dụng sử dụng phương thức này để
thu hồi nợ cũng gặp không ít khó khăn,
đặc biệt là những quy định hạn chế về
quyền của tổ chức tín dụng khi xử lý đối
với tài sản bảo đảm là các bất động sản
– một loại tài sản bảo đảm đang chiếm tỉ
lệ lớn trong tổng dư nợ. Theo Thời báo
Ngân hàng, trong tổng dư nợ của toàn
nền kinh tế có 72% dư nợ có tài sản bảo
đảm, trong đó 66% là tài sản bảo đảm
bằng bất động sản. Nếu tính trên tổng
số nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng
thì có tới 57% tài sản bảo đảm là bất
động sản(1).
Cũng chính vì lẽ đó mà phương
thức bán khoản nợ để thu hồi vốn vay
đang chủ yếu được áp dụng đối với
những khoản nợ được coi là nợ xấu
và tài sản bảo đảm của khoản nợ này
thường là các bất động sản. Theo đó,
khi tổ chức tín dụng bán khoản nợ này
cho bên mua nợ thì các bên thường thỏa
thuận về việc bán khoản nợ và tài sản
bảo đảm của khoản nợ. Khi đó, quyền
đòi nợ và các quyền khác liên quan đến
khoản nợ được chuyển cho bên mua nợ.
Do vậy, chế định về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay cũng chính là những quy
phạm được sử dụng khi xử lý tài sản
bảo đảm trong hoạt động mua, bán nợ
của tổ chức tín dụng.
1. Tổng quan pháp luật về xử lý tài
sản bảo đảm trong hoạt động mua bán
nợ của tổ chức tín dụng
Trước đây, quy định về bảo đảm
tiền vay của tổ chức tín dụng được ghi
nhận trong Nghị định 178/1999/NĐ-
CP ngày 29/12/1999 và Nghị định số
85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm
2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định
178/1999/NĐ-CP. Đồng thời, việc xử
lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay
của tổ chức tín dụng được hướng dẫn
cụ thể tại Thông tư liên tịch số 03/2001/
TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC
1 Tăng thanh khoản cho tài sản thế chấp, cập nhật
ngày 27/6/2014,
hang/tang-thanh-khoan-cho-tai-san-the-chap-14764.
html
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM...
40 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
ngày 28/4/2001 giữa Ngân hàng nhà
nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài
chính và Tổng cục địa chính và Thông
tư liên tịch số 02/2002/TTLT/NHNN –
BTP ngày 05/02/2002 giữa Ngân hàng
nhà nước, Bộ Tư pháp hướng dẫn thực
hiện Quyết định số 149/2001/QĐ - TTg
ngày 05/10/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về thủ tục bán tài sản bảo đảm,
công chứng, chứng thực văn bản bán
tài sản và giao tài sản cho các ngân
hàng thương mại theo bản án, quyết
định của Tòa án cùng với các văn bản
pháp luật khác như: Bộ luật dân sự năm
1995; Luật các Tổ chức tín dụng năm
1997; Luật Đất đai năm 1993 và các văn
bản pháp luật có liên quan khác.
Hiện nay, xử lý tài sản bảo đảm
trong hoạt động mua, bán nợ của tổ
chức tín dụng được quy định tại Bộ luật
dân sự năm 2015; Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015; Luật Đất đai năm 2013;
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010;
Nghị quyết 42/2017/QH14 về Thí điểm
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng;
Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo
đảm; Nghị định số 11/2012/NĐ-CP
ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
163/2006/NĐ-CP; Nghị định 83/2010/
NĐ-CP về đăng kí giao dịch bảo đảm;
Nghị định số 05/2012/NĐ-CP về sửa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị
định về Đăng kí giao dịch bảo đảm;
Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT/
NHNN-BTP-BTNMT ngày 06/06/2014
giữa Ngân hàng nhà nước, Bộ Tư pháp,
Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng
dẫn chi tiết việc xử lý tài sản bảo đảm
của bên nhận thế chấp và một số văn
bản pháp lý có liên quan khác.
Như vậy, quá trình xử lý tài sản bảo
đảm trong hoạt động mua, bán nợ của
tổ chức tín dụng bên cạnh việc tuân thủ
các nguyên tắc, trình tự chung được quy
định trong pháp luật dân sự còn chịu sự
điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành.
Để lý giải về sự “công phu” của hệ thống
pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong
hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín
dụng thì có thể nói rằng vì xử lý tài sản
bảo đảm là một trong số các lĩnh vực luôn
luôn giành được sự quan tâm đáng kể từ
trước cho đến nay, đặc biệt là trong bối
cảnh khi mà tỉ lệ nợ xấu của các tổ chức
tín dụng ngày càng tăng cao. Do vậy, để
xử lý một cách hiệu quả các khoản nợ
xấu, đưa tỉ lệ nợ xấu của các tổ chức tín
dụng về ngưỡng an toàn đồng thời khơi
thông nguồn vốn tín dụng ngân hàng,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các
doanh nghiệp, nền kinh tế thì bên cạnh
các giải pháp khác đòi hỏi đồng thời phải
tạo hành lang pháp lý đủ mạnh cho việc
xử lý tài sản bảo đảm trong thực tiễn.
2. Một số vướng mắc, bất cập
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được thì
việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động
mua bán nợ của tổ chức tín dụng vẫn còn
có những tồn tại. Đặc biệt là trước khi có
Nghị quyết 42/2017/QH14 thì việc xử lý tài
sản bảo đảm của tổ chức tín dụng; tổ chức
mua, bán nợ (sau đây gọi chung là người
xử lý tài sản bảo đảm) gặp không ít khó
khăn, trở ngại xuất phát từ nhiều nguyên
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG
41Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
nhân khác nhau, đặc biệt là những vướng
mắc, bất cập của cơ chế pháp lý. Cụ thể
như sau:
Một là, vướng mắc, bất cập trong quy
định về thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý
Quy trình thu giữ tài sản bảo đảm để
xử lý theo quy định tại Điều 63 Nghị định
163/2006/NĐ-CP được áp dụng chung cho
cả hai loại tài sản bảo đảm là động sản và
bất động sản. Tuy nhiên, đối với tài sản
bảo đảm là động sản (đặc biệt là tài sản
là các phương tiện vận tải) thì người xử
lý tài sản khó có thể thu giữ được tài sản
đó nếu không có sự phối hợp, hỗ trợ tích
cực của lực lượng công an và chính quyền
địa phương. Trong khi đó, trên thực tế
thì các cơ quan công an và chính quyền
địa phương chưa thực sự quyết liệt phối
hợp, hỗ trợ người xử lý tài sản bảo đảm
thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm
khi họ có yêu cầu. Hạn chế này xuất phát
từ chính quy định của pháp luật khi quy
định cơ quan công an, Ủy ban nhân dân
cấp xã chỉ tham gia để giữ gìn an ninh,
trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản
thực hiện quyền thu giữ mà không tham
gia thu hồi tài sản bảo đảm cùng người xử
lý tài sản. Không những vậy, quy định nêu
trên còn chưa thể hiện rõ cơ chế, cách thức
để cơ quan công an, Ủy ban nhân dân cấp
xã tham gia giữ gìn an ninh, trật tự.
Liên quan đến việc thu giữ tài sản
bảo đảm để xử lý, Điều 301 Bộ luật dân
sự năm 2015 cũng quy định: “Trường
hợp người đang giữ tài sản không giao tài
sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác”. Với quy định này
thì một nguy cơ khó có thể tránh khỏi là
hầu hết các tranh chấp tín dụng được bảo
đảm bằng tài sản đều phải khởi kiện ra
Tòa án. Có thể nói, quy định trên là một
bước lùi về quyền của bên nhận bảo đảm
trong pháp luật về giao dịch bảo đảm
khi vô hình chung đã đưa bên xử lý tài
sản bảo đảm vào thế bị động, ảnh hưởng
không nhỏ đến quyền lợi của chủ thể này
khi phải chịu tốn kém chi phí từ việc khởi
kiện, thời gian, vốn bị tồn đọng, những
thay đổi do việc biến động tài sản bảo
đảm, thậm chí có nguy cơ cao làm giảm
sút giá trị của tài sản bảo đảm khiến cho
quá trình xử lý thu hồi nợ không đạt được
hiệu quả như mong muốn.
Khắc phục bất cập này trong quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015, Nghị
quyết số 42/2017/QH14 về Thí điểm xử lý
nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tại khoản
1 Điều 7 đã quy định: “.Trường hợp bên
bảo đảm, bên giữ tài sản không giao tài sản
bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ
xấu để xử lý thì tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử
lý nợ xấu được thu giữ tài sản bảo đảm theo
quy định tại Điều này”. Tuy nhiên, quy định
này mới chỉ giới hạn áp dụng cho một số
chủ thể theo quy định tại Điều 2 của Nghị
quyết và khi thỏa mãn đầy đủ các điều
kiện được quy định tại khoản 2 Điều 7
Nghị quyết cũng như các điều kiện khác
có liên quan theo các trường hợp đã được
xác định. Trong khi đó, theo quy định
tại Thông tư số 09/2015/TT-NHNN ngày
17 tháng 7 năm 2015 quy định về hoạt
động mua bán nợ của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì chủ
thể tham gia vào hoạt động mua nợ tương
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM...
42 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
đối đa dạng nhưng với các quy định hiện
hành thì không phải tất cả các chủ thể đó
đang được hưởng quyền “được phép thu
giữ tài sản bảo đảm để xử lý”. Chính vì lẽ
đó mà thực tế hiện nay khó có thể thu hút
được các nhà đầu tư vào lĩnh vực này góp
phần hình thành thị trường mua, bán nợ
theo đúng nghĩa.
Hai là, vướng mắc, bất cập từ quy định
về định giá tài sản bảo đảm khi tiến hành xử lý
tài sản bảo đảm của khoản vay
Việc định giá tài sản bảo đảm khi
thực hiện xử lý cũng là một trong những
vấn đề dễ làm phát sinh tranh chấp giữa
bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm. Về
nguyên tắc, các bên có thể thỏa thuận với
nhau để định giá giá trị của tài sản bảo
đảm khi xử lý. Nếu không thỏa thuận
được thì có thể thuê một tổ chức có chức
năng định giá chuyên nghiệp và độc lập
để định giá tài sản bảo đảm cần xử lý. Tuy
nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp
bên xử lý tài sản và bên bảo đảm không
thỏa thuận được về việc lựa chọn tổ chức
định giá nào. Và nếu như bất cập ở Nghị
định số163/2006/NĐ-CP và Nghị định số
11/2012/NĐ-CP là chưa có quy định cụ thể
về việc chủ thể nào có quyền lựa chọn cơ
quan thẩm định giá trong trường hợp nêu
trên thì đến Thông tư liên tịch số 16/2014/
TTLT/NHNN-BTP-BTNMT tại Điều 10 đã
quy định: “1. Trường hợp bên bảo đảm và
bên nhận bảo đảm có thỏa thuận về việc bán
tài sản bảo đảm không qua đấu giá và không
có thỏa thuận khác về việc xác định giá bán tài
sản thì việc định giá bán tài sản bảo đảm được
thực hiện như sau: a) Bên nhận bảo đảm và
bên bảo đảm thỏa thuận về giá bán tài sản bảo
đảm bằng văn bản. Trong trường hợp không
thỏa thuận được giá bán tài sản thì bên bảo
đảm có quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có
chức năng thẩm định giá để xác định giá bán
tài sản trong thời hạn mười lăm (15) ngày,
kể từ ngày không thỏa thuận được giá bán.
Sau thời hạn mười lăm (15) ngày, nếu bên bảo
đảm không chỉ định cơ quan, tổ chức có chức
năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm có
quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng
thẩm định giá để xác định giá bán tài sản. Chi
phí thuê cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm
định giá được tính vào chi phí xử lý tài sản
bảo đảm”. Có thể nói rằng, quy định này
đã phần nào khắc phục được vướng mắc
của Nghị định 163/2006/NĐ-CP và góp
phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
bên xử lý tài sản bảo đảm và bên bảo đảm.
Tuy nhiên, với tài sản bảo đảm là
quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất
được nhà nước trao quyền sử dụng đất
thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử
dụng đất thì việc định giá giá trị tài sản
bảo đảm trong trường hợp này vẫn còn
gặp nhiều khó khăn do chưa có căn cứ
xác định giá thị trường đối với tài sản này
trong khi hiện nay đang có hai cơ chế để
định giá đối với tài sản là quyền sử dụng
đất đó là: (i) Khung giá do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và (ii) Giá
theo thỏa thuận của các chủ thể có quyền
sử dụng đất khi chuyển nhượng, cho thuê
đối với các chủ thể khác.
Ba là, vướng mắc, bất cập từ quy định về
phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa
thuận
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP tại
Điều 59 đã quy định về các phương thức
xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận
bao gồm: (i) Bán tài sản bảo đảm; (ii) Bên
KHÚC THỊ PHƯƠNG NHUNG
43Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm
để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của
bên bảo đảm; (iii) Bên nhận bảo đảm nhận các
khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba
trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; (iv)
Phương thức khác do các bên thoả thuận. Quy
định nêu trên khá rõ ràng để các bên có
thể cùng thỏa thuận lựa chọn xử lý tài sản
bảo đảm của khoản vay. Tuy nhiên, khi
áp dụng các phương thức này trên thực
tế lại đang gặp phải không ít những khó
khăn do thiếu các quy định đưa ra căn cứ
rõ ràng đối với việc xử lý tài sản bảo đảm
trong các trường hợp đó. Chẳng hạn như
đối với phương thức bên nhận bảo đảm
nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
đảm thì hiện nay vẫn chưa có bất kì hướng
dẫn cụ thể nào về trình tự, thủ tục khi
áp dụng phương thức này. Cũng tương
tự như vậy đối với trường hợp áp dụng
phương thức bán tài sản bảo đảm, đặc biệt
khi tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
thì pháp luật hiện hành còn thiếu các quy
định hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng kí
chuyển quyền sử dụng đất khi bên nhận
bảo đảm xử lý loại tài sản này.
Bốn là, vướng mắc khi thực hiện đăng kí
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm
mà bên nhận bảo đảm nhận để thay thế cho
nghĩa vụ trả nợ của bên bảo đảm
Nghị định 163/NĐ-CP tại khoản 2
Điều 70 có quy định: “Trong trường hợp
tài sản bảo đảm có đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng thì người nhận chuyển quyền
sở hữu, quyền sử dụng tài sản đó được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng
tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định
của pháp luật về đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản. Trong trường hợp pháp luật
quy định việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản phải có sự đồng ý bằng văn bản
của chủ sở hữu, hợp đồng mua bán tài sản
giữa chủ sở hữu tài sản hoặc người phải thi
hành án với người mua tài sản về việc xử lý
tài sản bảo đảm thì hợp đồng cầm cố tài sản,
hợp đồng thế chấp tài sản được dùng để thay
thế cho các loại giấy tờ này.”
Tiếp đến, Nghị định số 11/2012/NĐ-
CP tại khoản 3 Điều 18 cũng nêu: “Bên
nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc
thực hiện nghĩa vụ phải xuất trình văn bản
chứng minh quyền được xử lý tài sản bảo đảm
và kết quả xử lý tài sản bảo đảm cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khi chuyển quyền sở
hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm”.
Đồng thời, Thông tư số 16/2014/TTLT/
NHNN-BTP-BTNMT tại khoản 2 Điều
11 cũng quy định: “Trường hợp tài sản bảo
đảm theo quy định của pháp luật phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng, sau khi xử lý tài
sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm có trách nhiệm
nộp hồ sơ chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 12
của Thông tư này. Hợp đồng bảo đảm hoặc văn
bản thỏa thuận khác về việc nhận chính tài sản
bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
của bên bảo đảm được sử dụng thay thế cho hợp
đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản bảo đảm.”
Quy định của pháp luật là như vậy,
nhưng trên thực tế việc đăng kí quyền sở
hữu, quyền sử dụng đối với tài sản bảo
đảm được xử lý, đặc biệt là đối với tài sản
bảo đảm là bất động sản thì còn gặp rất
nhiều khó khăn, vướng mắc do không
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM...
44 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
ít các văn phòng đăng kí quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất không chấp
thuận các văn bản thay thế cho hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản với lý do chưa có hướng dẫn
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nên không áp dụng.
3. Một vài kiến nghị sửa đổi
Xuất phát từ những vướng mắc, bất
cập nêu trên và để tháo gỡ những khó
khăn đó thì bên cạnh việc phải thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, việc
sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật liên quan đến lĩnh vực này là hết sức
cần thiết. Cụ thể là:
Thứ nhất, liên quan đến quyền thu
giữ tài sản bảo đảm để xử lý, Điều 63 của
Nghị định 163/2006/NĐ-CP cần sửa đổi,
bổ sung theo hướng mở rộng quy định
liên quan đến phạm vi, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp
xã và cơ quan công an nơi tiến hành thu
giữ tài sản bảo đảm cũng như mở rộng
quyền yêu cầu của bên xử lý tài sản bảo
đảm. Theo đó, bên xử lý tài sản bảo đảm
không chỉ có quyền yêu cầu cơ quan công
an, Uỷ ban nhân dân cấp xã tham gia để
giữ gìn an ninh, trật tự mà còn có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng biện pháp buộc bên giữ tài sản
bảo đảm phải giao tài sản bảo đảm cho
bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm để
xử lý.
Thứ hai, sau thời gian thí điểm áp
dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 cần
sửa đổi Điều 301 Bộ luật dân sự năm
2015 theo hướng quy định trao quyền
thu giữ tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo
đảm nói chung, tức là mở rộng phạm vi
đối tượng áp dụng. Theo đó, khi người
đang giữ tài sản không giao tài sản thì
bên nhận bảo đảm có quyền áp dụng các
biện pháp hợp pháp để thu giữ tài sản
bảo đảm đó mà không nhất thiết phải
khởi kiện ra Tòa án.
Thứ ba, bổ sung quy định đưa ra căn
cứ để định giá theo giá thị trường đối với
tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà
người sử dụng đất được nhà nước trao
quyền sử dụng đất thông qua hợp đồng
cho thuê quyền sử dụng đất.
Thứ tư, bổ sung các quy định để hướng
dẫn cụ thể đối với từng phương thức xử lý
tài sản bảo đảm theo thỏa thuận, trong đó
đặc biệt lưu ý đến các quy định về trình
tự, thủ tục thực hiện các phương thức xử
lý tài sản bảo đảm đó .
Thứ năm, cần bổ sung các quy định
hướng dẫn về việc sử dụng văn bản thay
thế thay cho hợp đồng chuyển nhượng
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Tóm lại, yêu cầu phải sửa đổi, bổ
sung cơ chế pháp lý liên quan đến xử lý
tài sản bảo đảm nói chung và xử lý tài sản
bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của
tổ chức tín dụng nói riêng là hết sức cần
thiết nhằm khắc phục những vướng mắc,
bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Đồng thời, góp phần quan trọng trong
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các bên trong quan hệ tín dụng cũng như
góp phần phát triển thị trường mua, bán
nợ nhằm giải quyết có hiệu quả các khoản
nợ của tổ chức tín dụng, giúp khơi thông
dòng vốn tín dụng, tạo đà cho phát triển
kinh tế xã hội./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_vuong_mac_bat_cap_cua_cac_quy_dinh_ve_xu_ly_tai_san_b.pdf