Bốn là, quy định rõ cách thức để xử lý các
tình huống phát sinh trong kê biên tài sản là
quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất
thì không có quy định nào hướng dẫn quy định
Chấp hành viên phải kê biên như thế nào khi diện
tích kê biên thực tế và diện tích đất trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có sự sai lệch.
Đây là một thực tiễn thường xuyên xảy ra trong
khi kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi
hành án mà Chấp hành viên thường gặp đó là
diện tích kê biên nhỏ hơn, hoặc lớn hơn so với
diện tích mà người phải thi hành án được cấp
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc diện tích
trong bản án, quyết định của Toà án đã tuyên.
Thực tế cho thấy khi đưa tài sản kê biên là quyền
sử dụng đất ra đấu giá thì Công chứng viên chỉ
công chứng đúng diện tích được ghi nhận trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không
công chứng theo diện tích thực tế của Chấp hành
viên kê biên. Điều này hoặc gây thiệt hại cho
người phải thi hành án, hoặc gây thiệt hại cho
người được thi hành án, người trúng đấu giá. Vì
vậy, tác giả đề xuất bổ sung quy định khoản 4
Điều 111, VBHN Luật thi hành án dân sự:
“Trong trường hợp khi kê biên tài sản là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thấy có sự
chênh lệch về diện tích, Chấp hành viên cần kê
biên đúng diện tích thực tế, tạm dừng việc xử lý
tài sản và đề nghị các cơ quan có liên quan xác
định lại đúng diện tích đất trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để làm căn cứ xử lý tài sản
theo quy định của pháp luật”
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vướng mắc trong thực tiễn thi hành các quy định pháp luật thi hành án dân sự về kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án ảnh hưởng đến tiến độ đấu giá tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
18
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỀ KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN
CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TIẾN ĐỘ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
Lê Thị Hương Giang1
Tóm tắt: Kê biên, xử lý tài sản là biện pháp cưỡng chế được áp dụng thường xuyên nhất2 nhưng
trong quá trình kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án cơ quan thi hành án dân sự đã gặp
khá nhiều những khó khăn vướng mắc. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kê biên, xử lý tài sản thi hành
án dân sự cho thấy còn nhiều mâu thuẫn, bất cập với các pháp luật có liên quan, nhiều quy định
không có tính khả thi hoặc thiếu các quy định cụ thể để triển khai ảnh hưởng đến tiến trình xử lý tài
sản. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động kê biên, xử lý tài sản đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ
đấu giá tài sản nói riêng, tiến độ thi hành án dân sự nói chung, làm tăng lượng án dân sự tồn đọng3.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ phân tích một số những vướng mắc trong thực tiễn hoạt động
kê biên tài sản của người phải thi hành án đang ảnh hưởng đến tiến trình xử lý tài sản của cơ quan
thi hành án dân sự và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Từ khoá: Kê biên, Thi hành án dân sự, người phải thi hành án
Nhận bài: 03/02/2018; Hoàn thành biên tập: 12/03/2018; Duyệt đăng: 02/04/2018
Abstract: Deterrence, asset handling is the most frequently applied coercive measure. However,
in the course of distraining and handling property of the judgment debtors, the civil judgment-
executingbodies have met many difficulties and problems. Practical implementation of the law on
distraint, dealing with assets of civil verdicts shows that there are still many conflicts and
inadequacies with relevant laws, many regulations are not feasible or lack of regulations.To
implement the process affect the property. The quality and effectiveness of distraining and asset
handling have influenced not only the progress of auctioning assets in particular, the progress of civil
judgment in general, and the increasing number of civil cases. For the purpose of this paper, the
author analyzes some of the obstacles in the practice of distrainting assets of a debtor who is
influencing the asset processing process of the civil judgment enforcement body and made some
recommendations to improve the law in this area.
Keywords: Distraint, civil judgment execution, judgment debtors
Date of receipt: 03/02/2018; Date of revision: 12/03/2018; Date of approval: 02/04/2018
1. Một số vướng mắc, bất cập trong thực
tiễn thực hiện các quy định pháp luật về kê
biên, xử lý tài sản thi hành án dân sự
Thứ nhất, vướng mắc trong thực tiễn thực
hiện quy định của pháp luật về nguyên tắc “tương
ứng” trong kê biên tài sản
Tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-
CP ngày 18/7/2015 quy định: “Việc áp dụng biện
pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương
ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và
các chi phí cần thiết, trừ trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 24 Nghị định này. Như vậy, trừ
1 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Công chứng viên và các chức danh khác - Học viện Tư pháp
2 Theo báo cáo công tác thống kê của Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp từ 01/10/2008 đến 30/9/2016, tổng
số việc và tiền các cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định cưỡng chế kê biên 55.690 việc, trong khi đó các
biện pháp cưỡng chế khác thi hành nghĩa vụ trả tiền như: khấu trừ tiền trong tài khoản 4.208 việc, thu hồi xử lý tiền
của người phải thi hành án 1355 việc, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án 3746 việc, khai thác tài sản của
người phải thi hành án 131 việc. Riêng từ 01/10/2016 đến 30/9/2017 thì tổng số việc đã ra quyết định kê biên là
7.619 việc tương ứng với số tiền là 14.044.369.989
3 Theo báo cáo công tác thi hành án dân sự 06 tháng đầu năm 2017 Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư Pháp cho
thấy: “Tổng số vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhưng không thành là 7.535 việc, tương ứng với số tiền là
10.898 tỷ 734 triệu 293 nghìn đồng, chiếm 1,09% số việc và 11,8% số tiền có điều kiện thi hành của toàn quốc (trong
đó số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 5.225 việc, tương ứng với số tiền là 11.572 tỷ 942 triệu 820 nghìn đồng)”
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
19
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 24 Nghị
định 62/NĐ-CP, còn lại khi áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế Chấp hành viên
phải xác định giá trị tài sản “tương ứng với nghĩa
vụ của người phải thi hành án và các chi phí
cần thiết”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành chỉ
đưa ra nguyên tắc này khi kê biên nhưng chưa có
một hướng dẫn cụ thể như thế nào được coi là
“tương ứng”. Trong giảng dạy kỹ năng cho các
Chấp hành viên thì các giảng viên thường hướng
dẫn tương ứng không có nghĩa là giữa nghĩa vụ
thi hành án và tài sản bị kê biên phải bằng nhau
mà còn các chi phí cần phải tính toán từ kê biên,
định giá, đấu giá. Trên thực tế, một số Chấp
hành viên đã thực hiện việc tạm tính giá trước
khi kê biên tài sản nhưng vấn đề là tạm tính giá
trị tài sản kê biên này dựa vào những tiêu chí gì,
các cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ phối hợp
với Chấp hành viên trong công việc này hay
không? Hoặc trong hồ sơ thi hành án của Chấp
hành viên phải thể hiện việc tạm tính giá như thế
nào để bảo đảm nguyên tắc tương ứng? Thực tế
cho thấy Chấp hành viên không phải là chuyên
gia về thẩm định giá do đó việc tạm tính giá của
Chấp hành viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì
vậy, để bảo đảm nguyên tắc này, các Chấp hành
viên ngay từ khi kê biên đã “âm thầm” đề nghị
một tổ chức thẩm định giá nào đó xác định giá
tài sản trước để kê biên cho bảo đảm nguyên tắc
“tương ứng” đối với tài sản kê biên có thể phân
chia được. Điều này dẫn đến thực trạng là quyền
của các đương sự thoả thuận về giá khởi điểm, tổ
chức thẩm định giá theo quy định của pháp luật
thi hành án dân sự để bảo đảm quyền dân chủ
cho các đương sự chỉ là “hình thức”. Dưới sự
“hướng dẫn” của Chấp hành viên chỉ cần một lá
đơn của người được thi hành án về việc không
muốn thoả thuận về giá khởi điểm, về tổ chức
thẩm định giá với người phải thi hành án là Chấp
hành viên không cần tổ chức cho các đương sự
thoả thuận về giá khởi điểm, tổ chức thẩm định
giá, thậm chí cả tổ chức bán đấu giá. Sau khi kê
biên, Chấp hành viên sẽ lựa chọn chính tổ chức
thẩm định giá đã giúp Chấp hành viên xác định
nguyên tắc tương ứng trước khi kê biên để định
giá tài sản dựa trên căn cứ các đương sự không
thoả thuận được về giá tài sản kê biên, tổ chức
thẩm định giá. Bên cạnh đó, do không có quy
định cụ thể như thế nào là “tương ứng” nên khi
các đương sự có khiếu nại về việc Chấp hành
viên kê biên không tương ứng ảnh hưởng đến
quyền lợi ích hợp pháp của họ thì cơ quan thi
hành án dân sự cũng không thể dựa vào đâu để
xác định là việc kê biên của Chấp hành viên có
tương ứng hay không?
Thứ hai, vướng mắc liên quan đến nội dung
biên bản kê biên tài sản của người phải thi hành
án trong thực tiễn thực hiện
Để thực hiện việc kê biên tài sản thì Chấp
hành viên cần phải lập biên bản kê biên tài sản
đối với tài sản kê biên. Tuy nhiên căn cứ vào
khoản 2 Điều 88 Văn bản hợp nhất (VBHN) Luật
thi hành án dân sự số 12 ngày 11/12/2014 cho
thấy đang có những bất cập:
“Việc kê biên tài sản phải lập biên bản. Biên
bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê biên, họ,
tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được
ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng
và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của
việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu
của đương sự và ý kiến của người làm chứng”.
Xuất phát từ quy định của pháp luật thi hành
án dân sự hiện hành là chỉ yêu cầu ghi trong biên
bản kê biên diễn biến của việc kê biên và mô tả
tình trạng từng tài sản kê biên nên dẫn đến rất
nhiều biên bản kê biên tài sản được ghi rất chung
chung, không cụ thể, không chính xác về số
lượng tài sản bị kê biên. Về trình tự, thủ tục sau
khi kê biên xong, cơ quan thi hành án phải giao
bảo quản tài sản kê biên, tài sản kê biên trong
biên bản kê biên không chính xác, chi tiết về đặc
điểm, số lượng sẽ rất dẫn đến sự thất thoát không
kiểm soát được. Đặc biệt, sau khi kê biên trong
thời hạn 05 ngày làm việc cơ quan thi hành án
lại phải thực hiện việc ký hợp đồng dịch vụ thẩm
định giá để định giá đối với tài sản nếu trong biên
bản kê biên chỉ mô tả chung chung về tình trạng
của tài sản thì lấy căn cứ nào để xác định được
chính xác giá khởi điểm của tài sản.
Tình huống thực tiễn:
Quyết định công nhận sự thoả thuận của các
đương sự số 86/QĐST- KDTM ngày 19/8/2015
của Toà án nhân dân tỉnh Đ tuyên: “Buộc công ty
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
20
TNHH thương mại dịch vụ T phải thanh toán cho
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Đ số tiền 3.895.812.500 đồng. Trong đó
nợ gốc là 3.000.000.000 đồng, lãi tính đến ngày
11/8/2015 là 895.812.500 đồng và lãi phát sinh
trên số dư nợ gốc. Tài sản bảo đảm gồm:
“... Lô gỗ tròn Pauerro nhập khẩu 181,
625m2. Tài sản được thế chấp bảo đảm cho công
ty TNHH thương mại - dịch vụ T theo hợp đồng
thế chấp số 303/07/HĐ ngày 18/10/2010”.
Sau khi có Quyết định thi hành án của Cục
thi hành án dân sự tỉnh Đ và hết thời gian tự
nguyện thi hành án do công ty TNHH thương
mại dịch vụ T không tự nguyện thi hành án nên
Chấp hành viên đã ra quyết định kê biên toàn bộ
số tài sản thế chấp nêu trên để bảo đảm thi hành
án. Trong biên bản kê biên tài sản lô gỗ tròn
Pauferro nêu trên được lập với nội dung về tài
sản kê biên như sau:“Tài sản kê biên gồm: Lô gỗ
tròn Pauferro nhập khẩu của công ty TNHH TM
DV T số lượng khoảng 181,625 m3, số lượng
khoảng 960 lóng. Đường kính mỗi lóng khoảng
từ 20 cm đến 55 cm, chiều dài mỗi lóng khoảng
1m đến 4,5 m. Tất cả các lóng gỗ trên đã mục
hết phần giác gỗ và chỉ còn lại phần lõi gỗ. Hội
đồng không xác định được số lượng cụ thể của
tài sản đã kê biên. Lý do: lô gỗ này bỏ lộn xộn,
rải rác không đo được số lượng thực tế”
Sau khi kê biên xong Hội đồng cưỡng chế thống
nhất: Giao các tài sản đã kê biên nêu trên cho
DNTN thương mại P tiếp tục bảo quản chờ ý kiến
cho xử lý tài sản Cục thi hành án dân sự tỉnh Đ”
Căn cứ vào biên bản kê biên nêu trên nếu áp
vào quy định tại khoản 2 Điều 88, VBHN Luật thi
hành án dân sự số 12 thì việc kê biên của Chấp
hành viên là đúng bởi pháp luật chỉ yêu cầu Chấp
hành viên mô tả tài sản kê biên chứ không yêu cầu
xác định rõ chính xác số lượng, khối lượng của tài
sản kê biên. Một vấn đề thực tiễn đặt ra là nếu
không xác định được số lượng thực tế khi giao tài
sản kê biên cho người thứ ba bảo quản nếu có sự
thất thoát thì căn cứ vào đâu để xác định có hay
không có sự thiếu hụt, mất mất. Tài sản kê biên
nếu bị thiếu hụt, mất mát sẽ ảnh hưởng đến quyền
lợi ích hợp pháp của cả người phải thi hành án và
người được thi hành án. Và vấn đề là nếu có sự
thiếu hụt thì ngay chính cả đương sự, cơ quan thi
hành án sau khi kê biên cũng không thể kiểm soát
được do tại buổi kê biên đã không kiểm soát được
chính xác số lượng thực tế của tài sản kê biên.
Xuất phát từ thực tiễn này, tác giả cho rằng cần
phải có quy định cụ thể để kiểm soát thực tế số
lượng, khối lượng tài sản kê biên trong biên bản kê
biên tài sản thi hành án dân sự làm cơ sở để giao
bảo quản tài sản kê biên và định giá tài sản kê biên
chính xác và đúng thời hạn luật định.
Thứ ba, vướng mắc đối với việc xác định quyền
sử dụng đất nào được kê biên để thi hành án
Một trong những vướng mắc lớn nhất đối
với tài sản kê biên là quyền sử dụng đất được
đưa ra đấu giá là do VBHN Luật thi hành án
dân sự số 12 quy định không nhất quán về việc
được kê biên quyền sử dụng đất nào để thi hành
án? Tại khoản 1, Điều 110, VBHN Luật thi
hành án dân sự số 12 quy định:“Chấp hành
viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người
phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển
quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về
đất đai”.Với quy định này được hiểu là Chấp
hành viên “chỉ kê biên” trong trường hợp
quyền sử dụng đất của người thi hành án thuộc
trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo
pháp luật đất đai là những trường hợp đã có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên,
tại khoản 2 Điều 110, VBHN Luật thi hành án
dân sự số 12 lại quy định: “Người phải thi hành
án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy
hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết
định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý
quyền sử dụng đất đó.” Như vậy, theo khoản 2
điều này lại cho phép Chấp hành viên kê biên
cả những trường hợp đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Tự thân theo
khoản 2, Điều 110 đã mâu thuẫn với chính
khoản 1 và đang mâu thuẫn với điều kiện để
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là phải có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo khoản
1 Điều 188, Luật đất đai năm 2013. Xuất phát
từ bất cập trong quy định này đã dẫn đến phần
lớn Chấp hành viên không muốn kê biên tài sản
là quyền sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
21
quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, có trường hợp
Chấp hành viên kê biên và đưa tài sản ra đấu
giá tại tổ chức đấu giá, tổ chức đấu giá đã tiến
hành đúng trình tự, thủ tục đấu giá đối với tài
sản là bất động sản. Tuy nhiên, khi xác định
được người trúng đấu giá, Công chứng viên từ
chối công chứng hợp đồng mua bán tài sản bán
đấu giá là quyền sử dụng đất đối với người
trúng đấu giá vì chưa có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Tình huống thực tiễn:
Công ty cổ phần bán đấu giá AT đã ký Hợp
đồng bán đấu giá tài sản thi hành án số
06/2016/ĐG-AT ngày 30/7/2016 với Chi cục thi
hành án dân sự huyện M. Tài sản bán đấu giá là
quyền sử dụng đất 70m2 chưa có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng thuộc diện được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại khu D, xã
H, huyện M, thành phố H. Người trúng đấu giá là
ông Nguyễn Huy Hoàng, khi ký kết hợp đồng
mua bán tài sản trên, Công chứng viên đã từ chối
công chứng hợp đồng mua bán tài sản bán đấu
giá đối quyền sử dụng đất nêu trên. Lý do Công
chứng viên từ chối công chứng hợp đồng mua
bán tài sản bán đấu giá trong trường hợp này là
Công chứng viên căn cứ quy định tại khoản 8
Điều 40, Luật Công chứng năm 2014:
“Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu
công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ
quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước
khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp
đồng, giao dịch”. Khoản 1 Điều 40, Luật Công
chứng năm 2014 quy định một trong những giấy
tờ bắt buộc trong hồ sơ yêu cầu công chứng
là:“bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế
được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch
liên quan đến tài sản đó”. Tại thời điểm công
chứng, Chấp hành viên và tổ chức đấu giá lại
không thể cung cấp được bản sao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vì đất này khi kê biên
thuộc diện đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng chưa có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Một số Chấp hành viên
trong tình huống này đã cung cấp biên bản xác
minh về tình trạng thửa đất, không có tranh chấp,
thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp
xã nhưng cũng không được Công chứng viên
chấp nhận vì theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự cũng như Luật đất đai năm 2013
không có quy định cụ thể “giấy tờ thay thế được
pháp luật quy định đối với tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu” trong trường hợp này là giấy tờ
nào? Kết quả, tài sản thi hành án dân sự đã đấu
giá thành nhưng không ký được hợp đồng mua
bán với người trúng đấu giá do Công chứng viên
từ chối công chứng. Trong khi tài sản thi hành án
dân sự bán đấu giá nhiều lần không thành, không
có người mua, các bên phải thoả thuận huỷ kết
quả đấu giá vì Công chứng viên từ chối không
công chứng hợp đồng mua bán.
Thứ tư, vướng mắc về việc xử lý các tình
huống phát sinh khi kê biên tài sản là quyền sử
dụng đất
Tại quy định tại Điều 111, VBHN Luật thi
hành án dân sự số 12 quy định: “Việc kê biên
quyền sử dụng đất phải lập biên bản ghi rõ vị trí,
diện tích, ranh giới thửa đất được kê biên, có chữ
ký của những người tham gia kê biên.”
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất
thì không có quy định nào hướng dẫn quy định
Chấp hành viên phải kê biên như thế nào khi diện
tích kê biên thực tế và diện tích đất trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có sự sai lệch.
Đây là một thực tiễn thường xuyên xảy ra trong
khi kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi
hành án mà Chấp hành viên thường gặp đó là
diện tích kê biên nhỏ hơn, hoặc lớn hơn so với
diện tích mà người phải thi hành án được cấp sổ
đỏ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đưa
tài sản kê biên là quyền sử dụng đất ra đấu giá
thì Công chứng viên chỉ công chứng đúng diện
tích được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mà không công chứng theo diện tích
thực tế của Chấp hành viên kê biên. Điều này
hoặc gây thiệt hại cho người phải thi hành án,
hoặc gây thiệt hại cho người được thi hành án,
người trúng đấu giá. Một vấn đề nữa cũng cần
đặt ra để giải quyết đó là trường hợp bản án,
quyết định của Toà án kê biên tài sản trong quá
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
22
trình xét xử để bảo đảm thi hành án nhưng khi
Chấp hành viên tổ chức kê biên thì diện tích lại
không đúng với bản án, quyết định tuyên thì Luật
thi hành án dân sự cũng cần phải có quy định
hướng dẫn về vấn đề này. Đây là vấn đề mà
không được giải quyết triệt để sẽ gây ra những
khiếu nại không đáng có trong hoạt động kê biên
tài sản là quyền sử dụng đất của người phải thi
hành án. Vụ sai phạm về việc kê biên tài sản của
Chấp hành viên Đặng Xuân Quang ở Phú Thọ là
một minh chứng rất điển hình do pháp luật thi
hành án dân sự chưa có hướng dẫn cụ thể để giải
quyết tình huống khi kê biên có sự chênh lệch về
diện tích?4
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về kê biên tài sản của người phải thi hành án
Một là, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc chỉ
kê biên tài sản của người phải thi hành án tương
ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và
các chi phí cần thiết tác giả đề xuất cần có quy
định hướng dẫn về thời điểm, cách thức để xác
định nguyên tắc tương ứng đối với tài sản kê biên
trong thi hành án dân sự.
Nếu việc xác định giá trị tương ứng của tài
sản kê biên được thực hiện trước khi kê biên và
do Chấp hành viên tự phải xác định thì tác giả
cho rằng đây là ý chí chủ quan của Chấp hành
viên. Mặt khác, Chấp hành viên cũng không
phải là một chuyên gia về giá nên khó có thể
xác định được chính xác tài sản mình kê biên
có tương ứng với nghĩa vụ thi hành án hay
không? Bên cạnh đó, trong trường hợp có một
tài sản duy nhất có giá trị lớn không thể phân
chia được thì Chấp hành viên vẫn phải kê biên
tài sản và lúc này thì không thể áp dụng nguyên
tắc tương ứng.
Do đó, tác giả cho rằng ngay từ khi chuẩn bị
tổ chức cưỡng chế kê biên thì pháp luật thi hành
án dân sự cần quy định cho Chấp hành viên thực
hiện báo gọi các đương sự về việc thoả thuận
về giá tài sản kê biên hoặc thoả thuận lựa chọn
về tổ chức thẩm định giá tài sản kê biên. Nếu
các đương sự không thoả thuận được thì Chấp
hành viên sẽ lựa chọn tổ chức thẩm định giá
theo quy định và tại buổi cưỡng chế kê biên
Chấp hành viên sẽ tiến hành tổ chức kê biên và
tổ chức thẩm định giá song song. Tổ chức thẩm
định giá chuyên nghiệp được lựa chọn tại buổi
kê biên sẽ giúp cho việc thực hiện kê biên của
Chấp hành viên bảo đảm nguyên tắc tương ứng,
tránh việc kê biên vượt quá nghĩa vụ của người
phải thi hành án gây ra những khiếu nại không
đáng có từ người phải thi hành án làm kéo dài
tiến trình xử lý tài sản. Việc tổ chức kê biên và
định giá tài sản tại cùng một thời điểm nếu trong
trường hợp các bên không thoả thuận được về
giá, tổ chức thẩm định giá sẽ bảo đảm được
nguyên tắc tương ứng cũng trong kê biên cũng
như rút ngắn được thời gian tổ chức thi hành án.
Sau buổi kê biên tài sản, trong thời hạn 05 ngày
làm việc tổ chức thẩm định giá được lựa chọn
phải xác định giá khởi điểm thay vì sau thời hạn
05 ngày làm việc kể từ ngày kê biên tài sản
Chấp hành viên mới tiến hành ký hợp đồng dịch
vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật
hiện hành. Nếu pháp luật cho phép được kê biên
và tổ chức thẩm định giá tại cùng một thời điểm
sẽ tránh được một thực tiễn vẫn thường xảy ra
là Chấp hành viên phải tổ chức một buổi để kê
biên tài sản và sau đó lại phải tổ chức một buổi
khác để định giá tài sản. Và đặc biệt như đã
phân tích việc xác định nguyên tắc tương ứng
trong kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án sẽ đảm bảo tính chính xác, khách quan,
bảo vệ tốt hơn quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự.
4 Trong vụ việc sai phạm về kê biên tài sản của Chấp hành viên Đặng Xuân Quang cho thấy tài sản của Công ty
Việt Hưng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cấp cho Công ty Việt Hưng ngày 22/05/2003
thì tổng diện tích là 300 m2 đất. Ngoài ra, theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 08.15.1711/HĐTC ngày 21/11/2008
giữa Ngân hàng Viettin Bank và Công ty Việt Hưng cũng xác định về tài sản thế chấp là nhà cấp III, 06 tầng và 01
tầng tum được xây dựng trên diện tích đất 300 m2. Tuy nhiên, tại Biên bản kê biên tài sản ngày 09/07/2013, Chấp
hành viên Đặng Xuân Quang lại xác định “Tài sản kê biên gồm: Kết cấu toàn nhà xây khung bê tông cốt thép chịu
lực, móng cọc, nhà có 07 tầng (01 tầng âm và 06 tầng nối, 01 mái tum). Diện tích xây dựng một sàn là 319.09 m2”
.Báo Điện tử - Dân trí -Vụ thi hành án “chấn động” TP Việt Trì. Chấp hành viên đã bất chấp pháp luật thế nào?
11/5/2017
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
23
Hai là, sửa đổi bổ sung quy định về biên bản
tài sản kê biên tài sản theo hướng cụ thể, chặt
chẽ hơn.
Tác giả cho rằng hoạt động kê biên tài sản
của cơ quan thi hành án dân sự phải là một hoạt
động thực tế, phải kiểm soát được chính xác số
lượng của tài sản làm căn cứ để thực hiện các
hoạt động tiếp theo để xử lý tài sản kê biên. Tác
giả đề xuất sửa quy định về nội dung của biên
bản kê biên tài sản tại khoản 2 Điều 88, VBHN
Luật thi hành án dân sự số 12 như sau:“Biên
bản kê biên tài sản, phải ghi rõ loại tài sản, số
lượng, khối lượng, kích thước và các đặc điểm
khác của tài sản kê biên là căn cứ để giao bảo
quản tài sản kê biên và xác định giá khởi điểm
của tài sản”.
Ba là, quy định rõ về quyền sử dụng đất nào
được kê biên để thi hành án.
Để khắc phục vướng mắc trong việc kê biên
tài sản là bất động sản, đặc biệt là vướng mắc đối
với việc quyền sử dụng đất nào được kê biên để
thi hành án, tác giả đưa ra hai phương án sau:
Phương án 1. Sửa đổi điều kiện kê biên quyền
sử dụng đất để thi hành án trong VBHN Luật thi
hành án dân sự số 12 cho phù hợp với Luật đất đai
hiện hành. Theo đó điều 110, VBHN Luật thi hành
án dân sự số 12 chỉ quy định: “Chấp hành viên
chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi
hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử
dụng theo quy định của pháp luật về đất đai”. Bỏ
quy định: “Người phải thi hành án chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc
trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai
hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất,
nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được
kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó.”
Ưu điểm của phương án 1 này là có sự phù
hợp giữa pháp luật hiện hành về thi hành án và
quy định của Luật đất đai, giúp cho Chấp hành
viên và tổ chức đấu giá dễ dàng trong việc kê biên
và kiểm soát tình trạng tài sản là quyền sử dụng
đất được đưa ra đấu giá. Tuy nhiên về nhược điểm
của quy định này là không bảo vệ được tận cùng
quyền đeo đuổi của người được thi hành án yêu
cầu người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa
vụ thi hành án đến cùng chỉ cần xác định đó là tài
sản của người phải thi hành án mặc dù tài sản này
chưa được công nhận về mặt pháp lý là có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất!
Phương án 2. Sửa đổi điều kiện chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trong Luật đất đai và
các giấy tờ cần có trong hồ sơ công chứng quyền
sử dụng đất đối với tài sản là quyền sử dụng đất
trong thi hành án dân sự
Phương án này cho phép về cơ bản là giữ
nguyên quy định tại Điều 110 như sau: “Chấp
hành viên kê biên quyền sử dụng đất của người
phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển
quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về
đất đai. Người phải thi hành án chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc
trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai
hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất,
nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn
được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó.”
Để thực hiện được phương án 2 này đòi hỏi
Luật đất đai hiện hành phải được sửa đổi theo
hướng cho phép tổ chức đấu giá được quyền đấu
giá tài sản là quyền sử dụng đất trên cơ sở kê biên
của Chấp hành viên đối với trường hợp đất chưa
được cấp giấy chứng nhận nhưng thuộc trường
hợp được cấp giấy chứng nhận. Điều kiện để
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
trên cơ sở biên bản đấu giá thành của tổ chức đấu
giá. Bên cạnh đó, cần quy định các giấy tờ thay
thế cho giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi
ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá này là các
loại giấy tờ nào? Ví dụ như biên bản xác minh
của Chấp hành viên về hiện trạng đất tại Uỷ ban
nhân dân về việc đất không có tranh chấp, Công
văn trả lời của Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất xác định đất thuộc trường hợp được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong hai phương án trên, theo quan điểm của
tác giả phương án hai là bảo vệ được tốt hơn
quyền, nghĩa vụ của các bên trong thi hành án dân
sự, đặc biệt là người được thi hành án.
Bốn là, quy định rõ cách thức để xử lý các
tình huống phát sinh trong kê biên tài sản là
quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
24
thì không có quy định nào hướng dẫn quy định
Chấp hành viên phải kê biên như thế nào khi diện
tích kê biên thực tế và diện tích đất trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có sự sai lệch.
Đây là một thực tiễn thường xuyên xảy ra trong
khi kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi
hành án mà Chấp hành viên thường gặp đó là
diện tích kê biên nhỏ hơn, hoặc lớn hơn so với
diện tích mà người phải thi hành án được cấp
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc diện tích
trong bản án, quyết định của Toà án đã tuyên.
Thực tế cho thấy khi đưa tài sản kê biên là quyền
sử dụng đất ra đấu giá thì Công chứng viên chỉ
công chứng đúng diện tích được ghi nhận trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không
công chứng theo diện tích thực tế của Chấp hành
viên kê biên. Điều này hoặc gây thiệt hại cho
người phải thi hành án, hoặc gây thiệt hại cho
người được thi hành án, người trúng đấu giá. Vì
vậy, tác giả đề xuất bổ sung quy định khoản 4
Điều 111, VBHN Luật thi hành án dân sự:
“Trong trường hợp khi kê biên tài sản là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thấy có sự
chênh lệch về diện tích, Chấp hành viên cần kê
biên đúng diện tích thực tế, tạm dừng việc xử lý
tài sản và đề nghị các cơ quan có liên quan xác
định lại đúng diện tích đất trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để làm căn cứ xử lý tài sản
theo quy định của pháp luật”./.
Tuy nhiên để được coi việc thi hành mệnh lệnh
của người chỉ huy hoặc của cấp trên thuộc trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khi hành vi của
người thực hiện gây thiệt hại phải thỏa mãn những
điều kiện và yêu cầu cụ thể, đó là, mệnh lệnh phát
ra phải là mệnh lệnh của người có thẩm quyền
đúng là người chỉ huy hoặc của cấp trên đúng lực
lượng của người thi hành mà không phải người
chỉ huy, cấp trên của lực lượng khác; Mục đích
của việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang phải nhằm
mục đích thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
mà không phải nhiệm vụ khác; Người có hành vi
gây thiệt hại đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo
người ra lệnh nhưng người ra lệnh vẫn yêu cầu
phải tuân thủ chấp hành mệnh lệnh đó; Việc thi
hành mệnh lệnh không thuộc trường hợp phạm tội
phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm
chiến tranh. Vì vậy nếu không thoái thác nhiệm
vụ khi bị ép buộc mà vẫn thi hành thì vẫn bị phạm
tội không được miễn trách nhiệm hình sự, tuy
nhiên mức độ áp dụng hình phạt thấp hơn, đó là
đối với các tội cụ thể như: Tội phá hoại hòa bình,
gây chiến tranh xâm lược (khoản 2 Điều 421); Tội
chống loài người (khoản 2 Điều 422); Tội phạm
chiến tranh (khoản 2 Điều 423) mà mức hình phạt
trong ba tội cụ thể trong chương XXVI, đó là
“Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do
thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ
10 năm đến 20 năm”.
Như vậy hành vi của người gây thiệt hại khi
thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp
trên phải bắt buộc thỏa mãn các yêu cầu và điều
kiên nêu trên mới được coi là trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự. Còn đối với người ra mệnh
lệnh trong các trường hợp trên phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, cần quy định cụ thể trong trường hợp
nào thì pháp nhân thương mại được loại trừ trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự. Hiện nay
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 có quy định chủ thể là pháp nhân thương
mại, tuy nhiên để bảo đảm pháp luật được áp
dụng thống nhất, tạo sự bình đẳng giữa các chủ
thể thì cần có văn bản quy định chi tiết trong
trường hợp nào thì Pháp nhân thương mại được
loại trừ trách nhiệm hình sự.
Hai là, các cơ quan tư pháp Trung ương cần
có văn bản liên ngành hướng dẫn cụ thể đối với
trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự
trong khi bắt giữ người phạm tội, để việc thực thi
tuân thủ theo đúng tinh thần của điều luật, tránh
tình trạng tùy nghi, dẫn đến lạm dụng trường hợp
này trong thực tiễn
Ba là, cần có hướng dẫn và giải thích cụ thể
đối với trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
cấp trên trong lực lượng vũ trang để khi áp dụng
được thống nhất./.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ...
(Tiếp theo trang 13)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_vuong_mac_trong_thuc_tien_thi_hanh_cac_quy_dinh_phap.pdf