Về kỹ thuật trình bày
Bên cạnh những điều chỉnh về nội
dung, Dự thảo luật cũng cần được hoàn
thiện thêm về kỹ thuật trình bày:
Thứ nhất, Dự thảo chưa thống nhất
trong việc viết hoa tên luật. Ví dụ: trong
phần căn cứ Dự thảo viết Luật Giáo dục
nhưng trong Điều 1 lại viết Luật giáo dục.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 351/2017/
UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định thể thức và
kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp
luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước thì sẽ viết hoa ký tự đầu
tiên trong tên luật như “Luật Quản lý nợ
công”. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần xem
xét chỉnh sửa lại tên của luật tại các điều sau:
Điều 1, Điều 35, Điều 38, Điều 46, Điều 96,
Điều 97, Điều 119, Điều 120.
Thứ hai, khoản 3 Điều 9 Dự thảo luật
quy định: “Ngoại ngữ quy định trong chương
trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ
biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức
dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở
giáo dục khác cần bảo đảm để người học
được học liên tục và có hiệu quả”. Chúng
tôi cho rằng, trong giáo dục đào tạo, hoạt
động giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các
cơ sở đào tạo trong nước với cơ sở đào tạo
của nước ngoài là khá phổ biến. Vì vậy, thay
vì cụm từ “giao dịch quốc tế”, chúng tôi đề
nghị sử dụng cụm từ “giao tiếp quốc tế”.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số ý kiến đóng góp đối với dự thảo luật giáo dục sửa đổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP
ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT GIÁO DỤC SỬA ĐỔI
Tóm tắt:
Dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi ngày 27/9/2018 đã thể hiện được
tinh thần cải cách, đổi mới, dần tiến đến hoàn thiện hệ thống giáo
dục của nước ta. Bên cạnh đó, vẫn còn một số nội dung cần được
tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện.
Võ Nguyễn Nam Trung*
* Khoa Luật - Trường ĐH Cần Thơ.
Abstract
The Bill of Law on Education Law (amendation) (version of
September 27, 2018) has shown the spirit of reform and innovation,
gradually orienting towards improvements of the education system
of our country. Besides, there are still a number of contents that
need to be reviewed for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: dự thảo, sửa đổi, giáo dục,
đào tạo, luật giáo dục
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/10/2018
Biên tập : 14/11/2018
Duyệt bài : 21/11/2018
Article Infomation:
Keywords: bill of law, amendment,
education, training, Law on Education
Article History:
Received : 15 Oct. 2018
Edited : 14 Nov. 2018
Approved : 21 Nov. 2018
Hầu hết các nội dung trong Dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi ngày 27/9/2018 (Dự thảo luật) đã thể hiện
được tinh thần cải cách, đổi mới, dần tiến
đến hoàn thiện hệ thống giáo dục của nước
ta. Qua đó phát triển toàn diện con người
Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, có lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc và ý thức công dân
toàn cầu; trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
1 Điều 2 Dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi.
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân; phát huy tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
hội nhập quốc tế1. Tuy nhiên, Dự thảo luật
vẫn còn có một số vấn đề cần tiếp tục được
chỉnh sửa.
1. Giải thích và sử dụng các thuật ngữ
Thuật ngữ “niên chế”.
Khoản 8 Điều 4 Dự thảo luật quy
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
22 Số 24(376) T12/2018
định: “Niên chế là hình thức tổ chức quá
trình giáo dục, đào tạo theo năm học”. Tuy
nhiên, ở các nội dung sau đó, Dự thảo luật
lại chuyển sang sử dụng thuật ngữ năm học.
Ví dụ, khoản 4 Điều 7 quy định: “Chương
trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo
năm học đối với giáo dục mầm non và giáo
dục phổ thông; theo năm học hoặc theo
phương thức tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ
đối với giáo dục nghề nghiệp; theo hình thức
tích lũy tín chỉ, năm học hoặc phối hợp giữa
hình thức tích lũy tín chỉ và năm học đối với
giáo dục đại học”;
Để bảo đảm sự thống nhất, khi một
thuật ngữ đã được giải thích chính thức trong
luật thì cần phải sử dụng thuật ngữ đó trong
các điều khác của văn bản, tránh sử dụng
những thuật ngữ đồng nghĩa. Bên cạnh đó,
cũng cần lưu ý, việc thay thế này không áp
dụng một cách cơ học để thay tất cả những
từ năm học thành niên chế. Tùy theo ngữ
cảnh mà vận dụng cho linh hoạt, ví dụ, điểm
a khoản 1 Điều 27 Dự thảo luật quy định:
“Giáo dục tiểu học được thực hiện trong
năm năm học, từ lớp một đến hết lớp năm.
Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu
tuổi và được tính theo năm”.
Giải thích phân biệt nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân
chưa hợp lý.
Khoản 15 Điều 4 Dự thảo luật quy
định: “Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có
quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không
có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên thực
hiện hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo
dục”; khoản 16 Điều 4 Dự thảo luật quy
định: “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân
có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập
theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt
động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục tại Việt
Nam”. Quy định của điều luật mới dựa trên
yếu tố quốc tịch để phân biệt cá nhân là
nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước
ngoài. Theo đó, dấu hiệu cơ bản là cá nhân
nhà đầu tư có quốc tịch Việt Nam hay có
quốc tịch nước ngoài. Phương án này chưa
tính đến trường hợp một nhà đầu tư vừa có
quốc tịch Việt Nam vừa có quốc tịch nước
ngoài (theo quy định của Điều 5 Luật Quốc
tịch Việt Nam năm 2008 sửa đổi, bổ sung
năm 2014, Nhà nước Việt Nam công nhận
công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc
tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác). Để khắc phục hạn chế này,
Dự thảo luật có thể lựa chọn một trong hai
phương án sau: (i) Chỉ xem cá nhân có một
quốc tịch và quốc tịch duy nhất đó là Việt
Nam là nhà đầu tư trong nước, còn cá nhân
vừa có quốc tịch Việt Nam vừa có quốc tịch
nước ngoài là nhà đầu tư nước ngoài và cần
quy định bổ sung về vấn đề quốc tịch này
vào định nghĩa; (ii) Quy định mở đối với cá
nhân vừa có quốc tịch Việt Nam vừa có quốc
tịch nước ngoài theo hướng cho họ lựa chọn
tư cách công dân nước nào khi thực hiện
đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và họ phải sử
dụng hộ chiếu, giấy tờ hợp pháp để chứng
minh cho quốc tịch đó.
2. Văn bằng, chứng chỉ
Điều 10 Dự thảo luật quy định: “Văn
bằng của hệ thống giáo dục quốc dân gồm
bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt nghiệp
trung cấp, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng
cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ”. Quy
định này dành chung cho cả hệ thống giáo
dục, bao gồm cả giáo dục đại học. Như vậy,
người tốt nghiệp đại học được cấp bằng cử
nhân hoặc văn bằng tương đương đối với
một số ngành đào tạo theo định hướng nghề
nghiệp chuyên sâu. Việc đặt tên văn bằng là
bằng cử nhân dẫn đến sự nhập nhằng với các
danh hiệu cử nhân, kỹ sư, bác sĩ Bên cạnh
đó, điểm b khoản 1 Điều 72 Dự thảo luật
cũng không sử dụng tên gọi văn bằng này
là bằng cử nhân mà sử dụng với tên gọi là
bằng tốt nghiệp đại học (bằng tốt nghiệp đại
học sư phạm hoặc bằng tốt nghiệp đại học
và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
đối với giáo viên trung học cơ sở). Chúng tôi
cho rằng, để tránh nhầm lẫn cần sử dụng tên
gọi bằng đại học hoặc bằng tốt nghiệp đại
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
23Số 24(376) T12/2018
học như đang áp dụng hiện nay2.
3. Tôn giáo trong trường học
Điều 19 Dự thảo luật quy định:
“Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các
nghi thức tôn giáo trong nhà trường, cơ sở
giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc
dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ
trang nhân dân”.
Dự thảo luật sử dụng thuật ngữ “nghi
thức tôn giáo” là chưa đồng bộ với các quy
định về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay. Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 không sử
dụng thuật ngữ này. Việc sử dụng thuật ngữ
không thống nhất với các quy định của pháp
luật chuyên ngành dẫn đến tình trạng nội
dung cấm ở Điều này là mơ hồ vì sẽ không
xác định được hành vi như thế nào là tiến
hành các nghi thức tôn giáo. Để bảo đảm
phù hợp với pháp luật chuyên ngành về tôn
giáo, chúng tôi đề nghị thể hiện lại Điều 19
của Dự thảo luật như sau: “Không truyền bá
tôn giáo, tiến hành các lễ nghi, sinh hoạt tôn
giáo trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác
của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân”.
4. Thanh tra giáo dục
Dự thảo dành ba điều ở mục 4 Chương
VIII quy định về thanh tra giáo dục. Tại mục
này, các quy định về thanh tra nhà nước
ngành giáo dục và thanh tra cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học được
trình bày xen kẽ nhau trong từng điều.
Đối với thanh tra nhà nước ngành
giáo dục, các quy định dừng lại ở mức độ
chỉ dẫn. Khoản 1 Điều 11 Dự thảo quy định:
“Tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục
được thực hiện theo quy định của pháp luật
về thanh tra”; khoản 1 Điều 113 Dự thảo
nhắc lại: “Tổ chức và hoạt động thanh tra
2 Khoản 1 Điều 38 Luật Giáo dục đại học năm 2012.
3 Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, Đặc san tuyên truyền pháp luật: Chủ đề Thanh
tra và Pháp luật về thanh tra, 6/2012, tr. 21.
giáo dục được thực hiện theo quy định của
pháp luật về thanh tra”. Việc quy định trùng
lặp như vậy cần được khắc phục. Ngoài ra,
vấn đề đặt ra ở đây là có nên quy định dẫn
chiếu một cách chung chung sang pháp luật
thanh tra như Dự thảo luật hay không. Đến
tháng 6/2012, bên cạnh Luật Thanh tra năm
2010, khoảng 50 văn bản luật, pháp lệnh đã
có những quy định liên quan đến thanh tra.
Nguyên nhân của hiện tượng này là việc
quan niệm thanh tra, kiểm tra là một chu
trình của quản lý nhà nước, cho nên, trong
mọi lĩnh vực cũng cần có hoạt động thanh
tra, kiểm tra. Quan niệm này một mặt, làm
cho hệ thống pháp luật thanh tra khó bảo
đảm sự đồng bộ, thống nhất; mặt khác, làm
giảm hiệu quả tác động của Luật Thanh tra
trên thực tế và cũng dẫn đến những khó
khăn trong việc xác định phạm vi điều chỉnh
của Luật Thanh tra3. Vì vậy, chúng tôi cho
rằng, nếu không đặc thù, các luật và pháp
lệnh không nên xây dựng quy định riêng về
thanh tra. Điều này là cần thiết nhằm đảm
bảo một hệ thống pháp luật thanh tra thống
nhất, đồng bộ.
Đối với thanh tra nội bộ cơ sở giáo
dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học,
chúng tôi cho rằng, cần được quy định đầy
đủ hơn. Bên cạnh giám sát ngoài của thanh
tra nhà nước đối với ngành giáo dục thì cơ
chế giám sát nội bộ của cơ sở giáo dục nghề
nghiệp và cơ sở giáo dục đại học cũng đóng
vai trò quan trọng trong công tác đảm bảo
pháp chế, giữ gìn trật tự, kỷ cương và nề nếp
trường học. Chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ
sung trong mục 4 Chương VIII Dự thảo luật
theo hướng sau:
(i) Quy định một điều riêng về thanh
tra nhà nước với nội dung: Thanh tra nhà
nước về giáo dục và đào tạo thực hiện theo
quy định của Luật Thanh tra, Luật Giáo dục
đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp;
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 24(376) T12/2018
(ii) Quy định về thanh tra nội bộ
trường học theo hướng bắt buộc có thanh tra
nội bộ đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
cơ sở giáo dục đại học; đối với những cơ
sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại
học có quy mô nhỏ, không đảm bảo nguồn
nhân lực thì phải có phân công người phụ
trách thanh tra, pháp chế;
(iii) Quy định thủ trưởng cơ sở giáo
dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học chịu
trách nhiệm về công tác thanh tra nội bộ; Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề
nghiệp ở trung ương quy định cụ thể về vấn
đề thanh tra nội bộ trường học.
5. Quy định về tuổi của người học
Điểm b, điểm c khoản 1 Điều 27 Dự
thảo luật quy định:
“b) Giáo dục trung học cơ sở được
thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến
hết lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải
hoàn thành chương trình tiểu học. Tuổi của
học sinh vào học lớp sáu là mười một tuổi và
được tính theo năm;
c) Giáo dục trung học phổ thông được
thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười
đến hết lớp mười hai. Học sinh vào học lớp
mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ
sở. Tuổi của học sinh vào học lớp mười là
mười lăm tuổi và được tính theo năm. Học
sinh tốt nghiệp trung học phổ thông có thể
học lên đại học hoặc theo học các chương
trình đào tạo nghề nghiệp”.
Chúng tôi cho rằng, việc quy định tuổi
của cá nhân cần được diễn đạt để có cách
hiểu thống nhất và có cơ sở để tính toán
chính xác trên thực tế. Vì vậy, chúng tôi đề
nghị điểm b, điểm c nêu trên quy định tuổi
tối thiểu được vào học ở các cấp học tương
ứng và những ngoại lệ cho việc học trước
tuổi sẽ được ghi nhận ở khoản 2 của cùng
Điều này.
Theo quy định của khoản 2 Điều 27
Dự thảo luật, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định về trường hợp học vượt lớp,
học ở tuổi cao hơn, học lưu ban. Tuy nhiên,
Dự thảo luật lại chưa quy định về trường
hợp được học trước tuổi. Để bảo đảm quyền
học tập của công dân, Dự thảo luật cần bổ
sung vào khoản 2 Điều 27 quy định về việc
cho phép học trước tuổi đối với học sinh.
6. Về kỹ thuật trình bày
Bên cạnh những điều chỉnh về nội
dung, Dự thảo luật cũng cần được hoàn
thiện thêm về kỹ thuật trình bày:
Thứ nhất, Dự thảo chưa thống nhất
trong việc viết hoa tên luật. Ví dụ: trong
phần căn cứ Dự thảo viết Luật Giáo dục
nhưng trong Điều 1 lại viết Luật giáo dục.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 351/2017/
UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định thể thức và
kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp
luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước thì sẽ viết hoa ký tự đầu
tiên trong tên luật như “Luật Quản lý nợ
công”. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần xem
xét chỉnh sửa lại tên của luật tại các điều sau:
Điều 1, Điều 35, Điều 38, Điều 46, Điều 96,
Điều 97, Điều 119, Điều 120.
Thứ hai, khoản 3 Điều 9 Dự thảo luật
quy định: “Ngoại ngữ quy định trong chương
trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ
biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức
dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở
giáo dục khác cần bảo đảm để người học
được học liên tục và có hiệu quả”. Chúng
tôi cho rằng, trong giáo dục đào tạo, hoạt
động giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các
cơ sở đào tạo trong nước với cơ sở đào tạo
của nước ngoài là khá phổ biến. Vì vậy, thay
vì cụm từ “giao dịch quốc tế”, chúng tôi đề
nghị sử dụng cụm từ “giao tiếp quốc tế”.
Thứ ba, cần bổ sung vào khoản 2 Điều
32 Dự thảo luật đơn vị hành chính thành phố
thuộc thành phố trực thuộc trung ương cho
phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015. Theo đó, khoản 2 Điều 32
được thể hiện như sau: “Phòng Giáo dục và
Đào tạo huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện)”.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 24(376) T12/2018
Thứ tư, viết tắt cấp huyện, cấp tỉnh.
Điều 32 Dự thảo luật đặt ra vấn đề viết tắt
cấp huyện, cấp tỉnh đối với các loại đơn vị
hành chính tương ứng, trong khi đó, Điều 30
Dự thảo luật đã đề cập đến các đơn vị hành
chính này. Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, đối
với chức danh Giám đốc Sở Giáo dục và
Đào tạo hay Trưởng phòng Giáo dục và Đào
tạo không cần phải ghi là Giám đốc Sở Giáo
dục và Đào tạo cấp tỉnh hay Trưởng phòng
Giáo dục và Đào tạo cấp huyện vì như vậy
là không cần thiết.
Thứ năm, cần sắp xếp lại thứ tự của
các điều 119 và 120 của Dự thảo luật. Chúng
tôi cho rằng, nên đưa quy định về hiệu lực
thi hành (Điều 120) thay cho vị trí của Điều
119 (quy định chuyển tiếp). Đồng thời, sửa
đổi khoản 1 Điều 119 về hiệu lực thi hành
như sau: “1. Luật này có hiệu lực thi hành
từ ngày * tháng * năm 2019, trừ trường hợp
quy định tại Điều 120 của Luật này”■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi (Dự thảo ngày 27/9/2018).
2. Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Dự thảo ngày 19/9/2018).
3. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 (hết hiệu lực).
4. Luật Giáo dục năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2014, 2015.
5. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.
6. Luật Giáo dục đại học năm 2012.
7. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 sửa đổi bổ sung năm 2015, 2017.
8. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
9. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
10. Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, Đặc san tuyên truyền pháp luật:
Chủ đề Thanh tra và Pháp luật về thanh tra, Số 6/2012.
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN...
(Tiếp theo trang 21)
hoạt động trong phạm vi kinh doanh nhỏ
hoặc vừa.
Thứ hai, các ngành nghề kinh doanh
luôn đòi hỏi sự an toàn cao về mặt pháp
lý như y tế (mở phòng khám chữa bệnh tư
nhân, cửa hàng bán thuốc, các vật tư ngành
y tế), dịch vụ pháp lý (văn phòng, công ty
luật, dịch vụ công chứng tư, thừa phát lại),
nhóm tư vấn thiết kế (xây dựng, kiến trúc,
thi công), hay kiểm toán, dược phẩm, hóa
chất thì không nên cho phép kinh doanh
dưới hình thức của công ty TNHH một thành
viên. Bởi đây đều là các ngành nghề đòi hỏi
sự an toàn rất cao về mặt pháp lý và yêu cầu
trách nhiệm cá nhân rất cao đối với những
chủ thể kinh doanh các dịch vụ kể trên. Điều
đó buộc người chủ kinh doanh phải có ý
thức trách nhiệm và cả tính cẩn trọng cao,
nhất là việc phải đảm bảo chất lượng dịch
vụ, qua đó bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và
của toàn xã hội. Vì thế, để có thể kinh doanh
các dịch vụ trên, đòi hỏi người kinh doanh
phải chịu trách nhiệm vô hạn. Hay có thể
nói, sẽ là hiệu quả và phù hợp hơn khi công
ty TNHH một thành viên chỉ nên được phép
kinh doanh trong các lĩnh vực không đòi hỏi
sự chịu trách nhiệm cao về mặt pháp lý và
tài sản. Thiết nghĩ, quy định này không làm
hạn chế quyền tự do kinh doanh. Bởi đây
có thể góp phần định hướng các ngành nghề
kinh doanh đi theo đúng trật tự, hoạt động an
toàn, hiệu quả và phù hợp với thế mạnh của
loại hình công ty TNHH một thành viên■
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 24(376) T12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_y_kien_dong_gop_doi_voi_du_thao_luat_giao_duc_sua_doi.pdf