KẾT LUẬN
Qua phân tích tiền cứu 154 trường hợp xuất
huyết não nguyên phát tại bệnh viện Đa Khoa
Trung Tâm Tiền Giang từ tháng 1 đến tháng 7
năm 2010, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Nhóm tuổi bị xuất huyết não nguyên phát
nhiều nhất từ 50 – 59.
Có 10 yếu tố liên quan (p<0,05) đến tình
trạng sống còn của bệnh nhân xuất huyết não
nguyên phát tại thời điểm 48 giờ, đó là: khoảng
thời gian nhập viện, mạch, nhiệt độ, huyết áp
tâm thu, điểm Glasgow, đường huyết, bạch cầu,
loại xuất huyết, mức độ lệch đường giữa và thể
tích ổ xuất huyết.
Có 3 yếu tố độc lập tiên đoán tử vong sớm
của bệnh nhân xuất huyết não nguyên phát tại
thời điểm 48 giờ, đó là: điểm Glasgow, lệch
đường giữa và thể tích xuất huyết.
Đây chỉ là nghiên cứu bước đầu về tử vong
sớm của BN XHN. Chúng tôi hy vọng trong thời
gian tới sẽ có những nghiên cứu rộng hơn, thời
gian theo dõi lâu hơn, có kết hợp sử dụng thang
điểm đánh giá khả năng phục hồi mRS để đánh
giá đầy đủ hơn các yếu tố tiên lượng và tình trạng
hồi phục sau khi xuất viện của BN đột quỵ.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một sốyếu tốtiên lượng tử vong sớm trong xuất huyết não tại bệnh viện Đa khoa trung tâm Tiền Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 125
MỘT SỐ YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG SỚM TRONG XUẤT HUYẾT NÃO
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM TIỀN GIANG
Nguyễn Văn Dũng*, Trần Thị Thanh Tuyền*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố tiên lượng tử vong sớm trong xuất huyết não tại bệnh viện Đa khoa
Trung tâm Tiền Giang.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phân tích tiền cứu, đối tượng là những bệnh nhân xuất huyết
não nhập viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang trong 48 giờ đầu.
Kết quả: Tuổi trung bình 62,54, tỉ lệ nam 68%, tỉ lệ tử vong 42,2%. Kết quả phân tích đơn biến các yếu tố
liên quan đến tử vong: thời gian nhập viện, mạch, nhiệt độ, huyết áp tâm thu, điểm Glasgow, đường huyết, bạch
cầu, loại xuất huyết, lệch đường giữa và thể tích ổ xuất huyết. Sau khi phân tích đa biến còn 3 yếu tố tiên lượng
là Glasgow<=8, lệch đường giữa và thể tích ổ xuất huyết.
Kết luận: Điểm Glasgow<=8, lệch đường giữa và thể tích ổ xuất huyết là 3 yếu tố tiên lượng tử vong sớm
trong xuất huyết não tại BVĐKTTTG
Từ khoá: Tiên lượng, xuất huyết não, tử vong sớm.
ABSTRACT
FACTORS TO PROGNOSTIC EARLY DEATH OF CEREBRAL HEMORRHAGE AT TIEN GIANG
CENTER GENERAL HOSPITAL
Nguyen Van Dung, Tran Thi Thanh Tuyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 125 - 132
Objective: To determine factors to prognostic early death of cerebral hemorrhage at Tien Giang Center
General hospital.
Method: This is prospective, analytic, descriptive, cross-sectional study in cerebral hemorrhaged patients to
be hospitalized Tien Giang Center General hospital within 48 fist hours time.
Results: Mean age of patients was 65.54, proportion of male was 68%, proportion of death was 42.2%.
Results of univariate analyses factors concerned to death: hospitalized time, pulse, temperature, systolic blood
pressure, Glasgow score, glycemie, kinds of cerebral hemorrhage, center line, cerebral hemorrhage volume. After
multivariate analyses, there were factrs to prognostic: Glasgow score<=8, center line, cerebral hemorrhage volume
≥ 30ml.
Conclusions: Glasgow score 5mm, hemorrhage volume ≥30ml are factors to prognostic
early death of hemorrhage at Tien Giang center general hospital.
Key word: prognostic, cerebral hemorrhage, early death.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não hay còn gọi là đột
quỵ là một trong những bệnh thường gặp trong
thực hành lâm sàng, bệnh có tỉ lệ tử vong cao và
để lại nhiều di chứng nặng nề. Xuất huyết não
chiếm khoảng 10-15% tất cả các trường hợp đột
quỵ nhưng có tỉ lệ tử vong cao chiếm 35-52%
∗Bệnh viện đa khoa Tiền Giang
Tác giả liên lạc: BS. ThS.BS Nguyễn Văn Dũng ĐT: 0913683671 Email: tavantram@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 126
trong tháng đầu, phần lớn trong đó tử vong
trong 2 ngày đầu.
Trước một đột quỵ xuất huyết não, vấn đề
tiên lượng luôn luôn được đặt ra cho các thầy
thuốc và cũng là một đòi hỏi từ phía gia đình
bệnh nhân. Trong những nghiên cứu về tiên
lượng xuất huyết não trong những năm qua, các
nhà lâm sàng đã tìm cách xác định các yếu tố
tiên lượng và lập ra công thức tiên lượng nhằm
lượng giá mức độ nặng của bệnh. Những kết
quả nghiên cứu này cho ra những yếu tố tiên
lượng không giống nhau tùy thuộc vào sự khác
nhau về vùng lãnh thổ, trình độ chuyên môn
và đặc biệt là thời gian tiên lượng. Bệnh viện
ĐKTT Tiền Giang hàng năm tiếp nhận số lượng
bệnh nhân đột quỵ không nhỏ, trong đó có
nhiều bệnh nhân xuất huyết não.
Chính vì những lý do trên chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu xác
định một số yếu tố tiên lượng sớm xuất huyết
não tại bệnh viện ĐKTT Tiền Giang.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phân tích tiền
cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân đột quỵ xuất huyết não lần
đầu hoặc tái phát nhập viện điều trị tại bệnh
viện ĐKTT Tiền Giang trong thời gian nghiên
cứu thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn mẫu và tiêu
chuẩn loại trừ.
Cỡ mẫu
Dùng công thức tính cỡ mẫu cho phân tích
đa biến: n = 10 v/r (trong đó n: cỡ mẫu, v: số biến
số có giá trị tiên lượng theo y văn được khảo sát,
r: tỉ lệ xuất hiện tiêu chí đánh giá). Theo y văn có
5 biến số có giá trị, tỉ lệ tử vong r = 0,350,52, vậy
cỡ mẫu tối thiểu là 142. Trong nghiên cứu chúng
tôi có số bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu là
154 lớn hơn cỡ mẫu tối thiểu cho phép.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán xuất huyết não
nguyên phát bằng lâm sàng và CT Scan.
Bệnh nhân có thời gian từ lúc khởi bệnh đến
lúc được khám và chụp CT Scan không quá 48
giờ.
Tiêu chuẩn loại trừ
Xuất huyết não nghi ngờ do chấn thương, vỡ
dị dạng mạch máu não, rối loạn đông máu.
Xuất huyết não trong u não, nhồi máu não.
Xuất huyết màng não và/hoặc xuất huyết
não thất đơn thuần.
Có bệnh lý nội khoa góp phần thúc đẩy tử
vong như suy tim, NMCT cấp, hôn mê do ĐTĐ,
nhiễm trùng
Phân tích số liệu
Số liệu được mã hoá, xử lý và phân tích bằng
phần mềm SPSS 16.0.
Bước 1: Đầu tiên thống kê mô tả chung các
biến số nghiên cứu.
Bước 2: Phân tích đơn biến để tìm mối liên
quan giữa đặc điểm dân số học, lâm sàng và cận
lâm sàng với tình trạng bệnh nhân tại thời điểm
48 giờ. Đối với biến định tính thì chúng tôi dùng
phép kiểm chi bình phương, đối với biến định
lượng thì dùng phép kiểm t.
Bước 3: Chọn những biến có liên quan với
tình trạng sống còn của bệnh nhân (p<0,5) đưa
vào phân tích đa biến. Chúng tôi dùng phương
pháp hồi quy logistic để tìm ra các yếu tố tiên
lượng tử vong trong 48 giờ đầu của xuất huyết
não. Sau cùng chúng tôi thiết lập phương trình
hồi quy đa biến.
KẾT QUẢ
Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2010, tại
BVĐKTT Tiền Giang chúng tôi thu được 154
bệnh nhân xuất huyết não thỏa tiêu chuẩn chọn
mẫu và tiêu chuẩn loại trừ.
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Giới
Mẫu nghiên cứu có 154 bệnh nhân, trong đó
có 104 nam chiếm tỉ lệ 68% và 50 nữ chiếm 32%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 127
Tuổi
15.58%
18.83%
14.93%
31.81%
17.53%
1.29%
0
5
10
15
20
25
30
35
30 - 39 40 - 49 50 - 59 60 - 69 70 - 79 >=80
Biểu đồ 1: Phân bố theo nhóm tuổi
Tình trạng bệnh nhân sau 48 giờ
Tại thời điểm 48 giờ sau khởi phát, số bệnh
nhất tử vong là 65 chiếm tỉ lệ 42,21%, 89 bệnh
nhân còn sống chiếm tỉ lệ 57,79 %.
Mối liên quan trong phân tích đơn biến
giữa đặc điểm về dân số học, lâm sàng và
cận lâm sàng với tình trạng bệnh nhân tại
thời điểm 48 giờ sau khởi phát bệnh
Ảnh hưởng của các yếu tố lâm sàng
Bảng 1: Thời gian nhập viện(tính từ lúc khởi phát
đến lúc nhập viện, đơn vị là giờ)
Tình trạng BN Tần số TGNV trung bình Độ lệch chuẩn
Tử vong 65 4,52 5,31
Sống 89 7,9 9
P=0,004
Chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p=0,004) về thời gian nhập viện
giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Thời gian
nhập viện trung bình của nhóm tử vong (4,52
giờ) sớm hơn nhóm sống (7,9 giờ).
Bảng2: Điểm Glasgow
Tình trạng BN Tần số GCS trung bình Độ lệch chuẩn
Tử vong 65 4,37 1,72
Sống 89 11,88 3,07
P<0,0001
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất
mạnh (p=<0,0001) về điểm Glasgow lúc nhập
viện giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Điểm
Glasgow trung bình của nhóm tử vong (4,37)
thấp hơn nhiều so với nhóm sống (11,88).
Bảng 3: Tương quan giữa phân nhóm điểm Glasgow
và tình trạng bệnh nhân
Tình trạng BN 8 Tổng cộng
Tử vong 63(96,92%) 2(3,07%) 65(100%)
Sống 15(16,85%) 74(83,14%) 89(100%)
Tổng cộng 78(50,64%) 76(49,35%) 154(100%)
P<0,0001
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p8 giữa nhóm sống và
tử vong. Đối với Glasgow<=8 thì tỉ lệ tử vong là
96,92%, trong khi GCS>8 thì tỉ lệ tử vong chỉ
3,07%.
Kết quả các yếu tố lâm sàng khác: giới tính
(p=0,46), tuổi (p=0,33), TS THA (p=0,65), TS ĐTĐ
(p=0,09), TS ĐQ (p= 0,26), nhịp thở (p=0,95),
mạch (p=0,04), nhiệt độ (p=0,003), HATT
(p=0,02), HATTr (p=0,07).
Ảnh hưởng của các yếu tố cận lâm sàng
Bảng 4: Loại xuất huyết:
Tình trạng
BN
XH nhu mô đơn
thuần
XH nhu mô +
não that
Tổng
cộng
Tử vong 24 41 65
Sống 63 26 89
Tổng cộng 87 67 154
P<0,0001
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất
mạnh (p<0,0001) về loại xuất huyết giữa nhóm
sống và nhóm tử vong. Trong xuất huyết nhu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 128
mô + não thất thì nhóm tử vong chiếm tỉ lệ cao
hơn nhiều so với nhóm sống.
Bảng 5: Tương quan giữa lệch đường giữa và tình
trạng bệnh nhân
Tình trạng BN Tần số Lệch trung bình Độ lệch chuẩn
Tử vong 65 5,67 0,70
Sống 89 1,14 0,28
P<0,0001
Chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê rất mạnh (p<0,0001) về mức độ
lệch đường giữa trung bình lúc nhập viện giữa
nhóm sống và nhóm tử vong. Lệch đường giữa
trung bình lúc nhập viện của nhóm tử vong
(5,67) cao hơn hẳn nhóm sống (1,14).
Bảng 6: Tương quan giữa phân nhóm lệch đường
giữa và tình trạng bệnh nhân
Tình trạng BN 5mm Tổng cộng
Tử vong 25(38,46%) 40(61,53%) 65(100%)
Sống 81(91,01%) 8(8,89%) 89(100%)
Tổng cộng 106(68,83%) 48(31,16%%) 154(100%)
P<0,0001
Sự khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,001)
giữa 2 nhóm sống và tử vong về lệch đường
giữa 5mm. Tỉ lệ tử vong của nhóm
lệch đường giữa<=5mm là 38,46%, trong khi
nhóm >5mm tỉ lệ tử vong đến 61,53%.
Bảng 7: Thể tích ổ xuất huyết (ml)
Tình trạng BN Tần số Thể tích trung bình Độ lệch chuẩn
Tử vong 65 40,66 36,57
Sống 89 16,74 16,42
P<0,0001
Sử dụng phép kiểm t so sánh hai trị số trung
bình, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê rất mạnh (p<0,0001) về thể tích ổ
xuất huyết trung bình lúc nhập viện giữa nhóm
sống và nhóm tử vong. Thể tích ổ xuất huyết
trung bình lúc nhập viện của nhóm tử vong
(40,66ml) cao hơn nhóm sống (16,74ml).
Bảng 8: Tương quan giữa phân nhóm thể tích ổ xuất
huyết và tình trạng bệnh nhân
Tình trạng BN <30ml ≥30ml Tổng cộng
Tử vong 25(38,46%) 40(61,53%) 65(100%)
Sống 77(86,51%) 12(13,48%) 89(100%)
Tổng cộng 102(66,23%) 52(33,77%) 154(100%)
P<0,0001
Có sự khác biệt (p<0,0001) về VXH<30ml và
VXH ≥30ml giữa nhóm sống và nhóm tử vong.
Đối với nhóm <30ml thì tỉ lệ tử vong là 38,46%,
trong khi đối với nhóm VXH≥30ml thì tỉ lệ tử
vong đến 61,53%.
Kết quả yếu tố cận lâm sàng khác: đường
huyết (p<0,0001), bạch cầu (p<0,0001), vị trí xuất
huyết theo tầng (p= 0,071), vị trí xuất huyết theo
vùng (p=0,272).
Các yếu tố tiên lượng tử vong sớm trong 48
giờ đầu của xuất huyết não
Qua kết quả phân tích mối liên quan đơn
biến giữa một biến phụ thuộc là tình trạng sống
còn của BN tại thời điểm 48 giờ sau khởi phát
bệnh với các biến độc lập là dữ liệu về dân số
học, lâm sàng và cận lâm sàng thu thập lúc nhập
viện, chúng tôi chọn ra được 10 biến có liên
quan đủ ý nghĩa thống kê (P<0,05) để đưa vào
phân tích đa biến, bao gồm: khoảng thời gian
nhập viện, mạch, nhiệt độ, huyết áp tâm thu,
điểm Glasgow, đường huyết, bạch cầu, loại xuất
huyết, mức độ lệch đường giữa và thể tích ổ
xuất huyết.
Chúng tôi sử dụng phương pháp hồi quy
logistic đa biến tiên đoán xác suất tử vong dựa
vào hệ số hồi quy logistic. Kết quả như sau:
Bảng 9: Mô hình hồi quy logistic đa biến tính toán
dựa vào hệ số hồi quy
Yếu tố tiên lượng Hệ số hồi
quy
Độ lệch
chuẩn
Giá trị
p
Điểm Glasgow(GCS)<=8 1,304 0,315 <0,0001
Lệch đường
giữa(ĐG)>5mm
0,208 0,125 0,024
Thể tích ổ xuất huyết(V-
XH)>=30ml
-0,015 0,057 0,026
Hằng số -12,217 21,475 0,045
Mô hình hồi quy đa biến được viết như sau:
Y= 1,304GCS + 0,208ĐG - 0,015VXH – 12,217
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 129
BÀN LUẬN
Mối liên quan trong phân tích đơn biến
giữa đặc điểm về dân số học, lâm sàng và
cận lâm sàng với tình trạng bệnh nhân tại
thời điểm 48 giờ sau khởi phát bệnh
Ảnh hưởng của yếu tố dân số học
Tuổi
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
tuổi không phải là yếu tố liên quan (p=0,331)
đến tình trạng sống còn trong 48 giờ đầu của
BN xuất huyết não. Các tác giả khác cũng có
cùng nhận xét như chúng tôi, chỉ khác thời
điểm tiên lượng: 14 ngày của Trần Công
Thắng(13), 30 ngày của Broderick(2), Lisk(6).
Nhưng theo William A. Pulsinelli lại cho rằng:
cùng với thể tích xuất huyết, tuổi là yếu tố
nguy cơ tiên lượng xấu cho XHN. Vũ Anh
Nhị(14) cũng nhận định: Bệnh nhân XHN trên
60 tụổi thì tiên lượng tử vong cao.
Có lẽ tuổi là yếu tố chỉ điểm quan trọng nhất
về dự hậu xa, nhưng dường như nó không ảnh
hường gì tới tiên lượng gần.
Giới tính
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho rằng
giới tính không liên quan (p=0,464) đến tình
trạng sống còn của BN trong 48 giờ đầu. Các
nghiên cứu khác về tiên lượng XHN cũng cho
kết quả tương tự như của chúng tôi, của Hàn
Tiểu Sảo(5) và Mạc Văn Hoà(8). Ngoại trừ Lisk(6)
thấy rằng nữ có tiên lượng xấu hơn nam tính
đến thời điểm 30 ngày của XHN trên lều.
Tiền căn tăng huyết áp
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
không có sự liên quan (p=0,645) giữa tiền căn
THA và tình trạng sống còn của bệnh nhân. Kết
quả này tương tự như kết quả của những nghiên
cứu khác, như của Togha với p= 0,14, của Mạc
Văn Hòa(2009)(8) tại bệnh viện 115 với p=0,113.
Tiền căn đái tháo đường
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì tiền căn
ĐTĐ không có liên quan (p=0,097) đến tình
trạng sống còn của BN. Nghiên cứu của
Cheung (2003) tại Hồng Kông(10), Mạc Văn Hoà
tại BV 115 cũng cho kết quả tương tự với p lần
lượt là 0,054,và 0,523.
Tiền căn đột quỵ
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
không có sự liên quan (p=0,257) giữa tiền căn
đột quỵ và tình trạng sống còn của BN. Cùng
với nhận định như của chúng tôi còn có các tác
giả khác, như là của Hàn Tiểu Sảo(5), Ngược lại
Mạc Văn Hòa(8) tiên lượng tại thời điểm 30 ngày
thì cho rằng tiền căn đột quỵ có liên quan đến tử
vong của BN XHN.
Phải chăng nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiên
lượng trong 48 giờ đầu nên tiền căn đột quỵ
chưa ảnh hưởng nhiều đến tử vong trong giai
đoạn sớm.
Ảnh hưởng của các yếu tố lâm sàng
Thời gian nhập viện
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì
thời gian nhập viện có liên quan (p=0,004) đến
tình trạng sống còn của BN XHN tại thời điểm
48 giờ. Thời gian nhập viện trung bình của
nhóm tử vong (4,52) sớm hơn hẳn nhóm sống
(7,9). Cùng với nhận định như của chúng tôi có
Hàn Tiểu Sảo(5) với p=0,0012, của Trần Công
Thắng(5) thì cho rằng nhóm tử vong có thời gian
nhập viện trung bình là 17,52 giờ, sớm hơn
nhóm sống với thời gian nhập viện trung bình là
29,51 giờ.
Phải chăng những bệnh nhân tử vong
thường biểu hiện những dấu hiệu nặng nề sớm
nên thường được đưa đến bệnh viện sớm, còn
những BN không tử vong sớm thì biểu hiện lâm
sàng ban đầu nhẹ hơn nên được nhập viện trễ,
và nếu quá 48 giờ thì lại không có trong nhóm
nghiên cứu.
Nhịp thở
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,95) về nhịp thở lúc nhập viện giữa nhóm
sống và nhóm tử vong.
Theo nghiên cứu của Hàn Tiểu Sảo tại BV
Chợ Rẫy thì rối loạn nhịp thở có liên quan đến
tình trạng tử vong.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 130
Mạch
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy
rằng có sự liên quan (p=0,047) về mạch trung
bình lúc nhập viện giữa nhóm sống và nhóm
tử vong. Mạch trung bình của nhóm tử vong
(93) cao hơn nhóm sống (88). Cùng kết quả
như của chúng tôi còn có nghiên cứu của Hàn
Tiểu Sảo với p=0,018 và của Lý Ngọc Tú(7) (p=
0,001). Ở bệnh nhân đột quỵ cấp, mạch nhanh
là biểu hiện phản ứng cấp với stress, biến
chứng tim ở bệnh nhân đột quỵ, phản ứng
mạch nhanh với tình trạng nhiễm trùng.
Nhiệt độ
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,003) về nhiệt độ trung bình lúc nhập viện
giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Nhiệt độ
trung bình của nhóm tử vong (37,57) cao hơn
nhóm sống (37,19). Điều này phù hợp với nhiều
tác giả và y văn kinh điển. Kết quả nghiên cứu
của tác giả Hàn Tiểu Sảo(5) cho rằng việc gia tăng
thân nhiệt có liên quan chặt chẽ với tình trạng
sống còn của BN XHN trong 48 giờ đầu với
p<0,0001.
XHN lớn gây tụt não thuỳ thái dương,
chèn ép thân não; hoặc bản thân ổ xuất huyết
chảy vào hệ thống não thất, thấm vào các
trung tâm sinh tồn ở vùng dưới đồi gây nên
rối loạn về thân nhiệt và đó là dấu hiệu chỉ báo
tiên lượng nặng.
Huyết áp tâm thu
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,019) về HATT trung bình lúc nhập viện
giữa nhóm sống và tử vong. HATT trung bình
của nhóm tử vong (175,23) cao hơn hẳn nhóm
sống (160,90). Cùng kết quả với chúng tôi có tác
giả Quang(3) với p=0,007. Nhưng khi chúng tôi
đưa vào phân tích đa biến thì biến này không
còn.
Huyết áp tâm trương
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,076) về HATTr trung bình lúc nhập viện
giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Kết quả này
cũng tương tự như của Hòa (p=0,14) tại BV 115,
của Cheung (2003) tại Hồng Kông với p=0,272,
của Takahashi (2006) tại Nhật với p=0,9(8,12).
Glasgow
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất mạnh
(p=<0,0001) về điểm Glasgow trung bình lúc
nhập viện giữa nhóm sống và nhóm tử vong.
Điểm Glasgow trung bình của nhóm tử vong
(4,37) thấp hơn nhiều so với nhóm sống (11,88).
Kết quả này giống tác giả Hàn Tiểu Sảo
(p<0,0001) và tác giả Mạc văn Hoà (p<0,001). Tác
giả Broderick(2) và Stanley(11) qua các công trình
nghiên cứu của mình cũng kết luận: điểm
Glasgow là một trong những yếu tố mạnh mẽ
nhất tiên lượng tử vong 30 ngày đầu của xuất
huyết não.
Ảnh hưởng của các yếu tố cận lâm sàng
Đường huyết
Nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê rất mạnh (p<0,0001)
về ĐH trung bình lúc nhập viện giữa nhóm sống
và nhóm tử vong. ĐH trung bình lúc nhập viện
của nhóm tử vong (164,03) cao hơn hẳn nhóm
sống (127,82). Nghiên cứu của Mai Nhật Quang(9)
cũng cho kết quả tương tự như của chúng tôi. ĐH
tăng khi nhập viện có thể xảy ra ở bệnh nhân có
ĐH cao trước đây hay tăng ĐH do phản ứng.
Tăng ĐH làm cho kết quả điều trị xấu và là kết
quả của phản ứng não do tăng Glucose gây cho
tổn thương não ngày càng trầm trọng hơn trên
các bệnh nhân không bị ĐTĐ.
Yếu tố bạch cầu
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất
mạnh (p<0,0001) về BC trung bình lúc nhập viện
giữa nhóm sống và tử vong. BC trung bình lúc
nhập viện của nhóm tử vong (14040) cao hơn
hẳn nhóm sống (10010). Kết quả nghiên cứu của
Mai Nhật Quang cũng cho kết quả tương tự. BC
máu tăng khi cơ thể có tình trạng nhiễm trùng
hay phản ứng của cơ thể, trong nghiên cứu của
chúng tôi khảo sát khi bệnh nhân vừa vào viện
và loại bỏ những bệnh nhân nhiễm trung khi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 131
nhập viện, do đó các trường hợp tăng BC là do
phản ứng của cơ thể với đột quỵ.
Yếu tố vị trí xuất huyết
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,071) về vị trí XH theo tầng giữa nhóm sống
và nhóm tử vong. Vấn đề này có nhiều ý kiến
khác nhau: có một số tác giả cùng ý kiến với
chúng tôi như Hàn Tiểu Sảo (p>0,05), của một số
tác giả nước ngoài, nhưng một số khác lại cho
rằng vị trí ổ XH là một trong những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp tới mức độ hôn mê và tiên
lượng nặng của bệnh. Sự khác biệt này có thể do
cỡ mẫu, trong nghiên cứu của chúng tôi thì số
lượng BN XHN ở hố sau thấp. Do đó cần có một
cỡ mẫu lớn hơn để tính tỉ lệ tử vong theo vị trí
vùng xuất huyết não.
Yếu tố loại xuất huyết
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất
mạnh (p<0,0001) về loại xuất huyết giữa nhóm
sống và nhóm tử vong. Trong xuất huyết nhu
mô + não thất thì nhóm tử vong chiếm tỉ lệ cao
hơn nhiều so với nhóm sống. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Hàn Tiểu Sảo (p<0,0001)
và nghiên cứu của một số tác giả khác và trong y
văn. Nguyễn Văn Thông(10): 2/3 trường hợp xuất
huyết não nhu mô có biến chứng tràn máu não
thất thì tử vong do phù não phản ứng, kẹt và tụt
thân não, đa số BN chết trong một vài ngày đầu
sau đột quỵ.
Điều này có thể được lý giải như sau: XHN
nhỏ và nằm xa não thất thì thường khu trú trong
nhu mô não đơn thuần. Nhưng khi XHN lớn,
hoặc ổ XH nằm sâu và gần não thất thì ổ xuất
huyết vỡ hoặc chảy máu vào trong não thất
thường xảy ra, từ đó máu vào trong khoang
dưới nhện. Khi ấy lâm sàng thường rối loạn ý
thức sâu hơn, rối loạn các chức năng sinh tồn, rối
loạn thần kinh thực vật nặng và tử vong.
Yếu tố mức độ lệch đường giữa
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất mạnh
(p<0,0001) về mức độ lệch đường giữa trung
bình lúc nhập viện giữa nhóm sống và nhóm tử
vong. Lệch đường giữa trung bình lúc nhập viện
của nhóm tử vong (5,67) cao hơn hẳn nhóm
sống (1,14). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
của một số tác giả khác như Hàn Tiểu Sảo
(p<0,0001), của Daverat(4).
Yếu tố thể tích ổ xuất huyết
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất mạnh
(p<0,0001) về thể tích ổ xuất huyết trung bình lúc
nhập viện giữa nhóm sống và nhóm tử vong.
Thể tích ổ XH trung bình lúc nhập viện của
nhóm tử vong (40,66) cao hơn hẳn nhóm sống
(16,74). Kết quả này phù hợp với các tác giả khác
như của Takahashi (12) (p<0,001), của Mạc Văn
Hòa p<0,001), của Hàn Tiểu Sảo (P<0,0001). Thật
vậy thể tích ổ XH không chỉ liên quan chặt chẽ
đến tiên lượng BN XHN, mà nó còn là yếu tố
độc lập có sức thuyết phục mạnh mẽ đến tiên
lượng tử vong của BN XHN mà mọi tác giả và y
văn đều công nhận.
Các yếu tố tiên lượng tử vong trong 48 giờ
đầu của xuất huyết não
Trong số 10 yếu tố có liên quan đến tình
trạng sống còn của bệnh nhân xuất huyết não
tại thời điểm 48 giờ sau khởi phát bệnh được
đưa vào phân tích hồi quy đa biến bằng
phương pháp hồi quy logistic, chúng tôi có
được kết quả với 3 yếu tố độc lập tiên lượng tử
vong trong 2 ngày đầu của bệnh nhân xuất
huyết não, đó là điểm Glasgow, lệch đường giữa
và thể tích ổ xuất huyết.
Qua tham khảo các công trình nghiên cứu
trước đây về tiên lượng xuất huyết não nguyên
phát có sử dụng phương pháp hồi quy logistic,
chúng tôi nhận thấy điểm Glasgow, thể tích ổ
xuất huyết là 2 yếu tố độc lập tiên lượng tử vong
xuất huyết não nguyên phát trong tất cả các
nghiên cứu, và đây cũng chính là 2 trong 3 yếu
tố độc lập tiên lượng tử vong trong 48 giờ đầu
theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 132
Bảng 10: Các yếu tố tiên lượng tử vong xuất huyết
não trong các nghiên cứu trước đây
Tác giả Đánh giá tiên lượng Yếu tố tiên lượng
P.Daverat TV 30 ngày GSC,VXH,IVH,lệch đường
giữa
A.l.Qureshl TV xuất viện GSC,VXH, IVH.
T.C.Thắng TV 14 ngày GSC,VXH,IVH,mức độ hôn mê
theo tầng.
H.T.Sảo TV 2 ngày GSC,VXH,HAmin,dấu hiệu tăng
tiết,RLPXĐT
Raymond Adams(1) cho rằng, khi ổ xuất
huyết nhỏ thì nó chỉ tách các sợi thần kinh trong
chất trắng và gây đình chỉ chức năng của các sợi
thần kinh này mà chưa huỷ hoại chúng. Nhưng
khi kích thước ổ xuất huyết lớn hơn thì nó
không chỉ làm tăng áp lực nội sọ, xô đẩy, chèn
ép và huỷ hoại các cấu trúc mô não lân cận, mà
còn chèn ép thân não, đe dọa tụt não. Các trung
tâm sinh tồn bị thương tổn, BN mê sâu kèm rối
loạn thần kinh thực vật như tăng huyết áp, tăng
thân nhiệt, rối loạn nhịp thở, rối loạn nhịp tim,
rối loạn tiểu tiện và làm bệnh nhân tử vong
trong vài giờ hoặc trong 2 ngày đầu khởi bệnh.
Nghiên cứu của Daverat(4) cũng cho rằng
lệch đường giữa cũng là yếu tố tiên lượng độc
lập trong xuất huyết não, kết quả này tương tự
như của chúng tôi. Khi đường giữa bị lệch
chứng tỏ có hiệu ứng choán chỗ đủ lớn để đẩy
lệch đường giữa, lúc này dẫn đến tình trạng
tăng áp lực nội sọ, chèn ép, huỷ hoại các cấu trúc
lân cận và cuối cùng sẽ dẫn đến tử vong.
KẾT LUẬN
Qua phân tích tiền cứu 154 trường hợp xuất
huyết não nguyên phát tại bệnh viện Đa Khoa
Trung Tâm Tiền Giang từ tháng 1 đến tháng 7
năm 2010, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Nhóm tuổi bị xuất huyết não nguyên phát
nhiều nhất từ 50 – 59.
Có 10 yếu tố liên quan (p<0,05) đến tình
trạng sống còn của bệnh nhân xuất huyết não
nguyên phát tại thời điểm 48 giờ, đó là: khoảng
thời gian nhập viện, mạch, nhiệt độ, huyết áp
tâm thu, điểm Glasgow, đường huyết, bạch cầu,
loại xuất huyết, mức độ lệch đường giữa và thể
tích ổ xuất huyết.
Có 3 yếu tố độc lập tiên đoán tử vong sớm
của bệnh nhân xuất huyết não nguyên phát tại
thời điểm 48 giờ, đó là: điểm Glasgow, lệch
đường giữa và thể tích xuất huyết.
Đây chỉ là nghiên cứu bước đầu về tử vong
sớm của BN XHN. Chúng tôi hy vọng trong thời
gian tới sẽ có những nghiên cứu rộng hơn, thời
gian theo dõi lâu hơn, có kết hợp sử dụng thang
điểm đánh giá khả năng phục hồi mRS để đánh
giá đầy đủ hơn các yếu tố tiên lượng và tình trạng
hồi phục sau khi xuất viện của BN đột quỵ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adams RD (1997). Cerebrovascular disease. Principle of
Neurology: 773-873.
2. Broderick JP et al (1993). Intracerebral hemorrhage more than
twice as common as subarchnoid hemorrhage. J Neurosurg,
78: 88-191.
3. Cheung RTF et al (2003). Use of the original, modified, or new
Intracerebral Hemorrhage score to predict mortality and
morbidity after intracerebral hemorrhage. Stroke, 34: 1717-
1722.
4. Daverat P, Castel JP et al. (1991): Death and functional
outcome after spontaneous intracerebral hemorrhage”. Stroke,
Vol 22, No 1: 1-6.
5. Hàn Tiểu Sảo (2000). Một số yếu tố tiên lượng tử vong sớm
trong xuất huyết não. Luận văn thạc sĩ y học. Đại Học y Dược
TP Hồ Chí Minh.
6. Lisk DR, Pasteur W, Rhoades H, Putnam RD, Grotta JC
(1994). Early presentation of hemispheric intracerebral
hemorrhage: prediction of outcome and guildeline for
treament allocation. Neurology 44: 133-139.
7. Lý Ngọc Tú (2009). Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ gây tử
vong trên bệnh nhân đột quỵ cấp trong 14 ngày đầu. Luận văn
thạc sĩ y học. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
8. Mạc Văn Hòa (2009). Tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất
huyết não theo điểm ICH. Luận văn thạc sĩ y học. Đại học Y
Dược TP Hồ Chí Minh.
9. Mai Nhật Quang (2008). Tần suất các yếu tố nguy cơ và tỉ lệ
tử vong bệnh TBMMN tại BVĐK An Giang. Luận văn thạc sĩ y
học. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Văn Thông (1997). Bệnh mạch máu não và các cơn
đột quỵ. NXB Y Học.
11. Tuhrim S et al (1995). Validation and comparision of models
predicting survival folloing intracerebral hemorrhage”.
Critcal care medicine: 950-954.
12. Takahashi O et al (2006). Risk stratification for in-hospital
mortality in spontaneous intracerebral hemorrhage: A
classification and regression tree analysis. Q J Med, 99: 743-
750.
13. Trần Công Thắng (1999). Sử dụng các dữ liệu lâm sàng và CT
scan não lúc nhập viện để tiên lượng xuất huyết não. Luận án
tốt nghiệp bác sĩ nội trú. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 45-46.
14. Vũ Anh Nhị (1998). Xuất huyết trong não. Giáo trình giảng dạy
sau đại học. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, tr 27-40.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_soyeu_totien_luong_tu_vong_som_trong_xuat_huyet_nao_tai.pdf