Hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch
vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng là
hành vi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền ấn định giá mua hàng hóa, dịch vụ
thấp quá đáng. Giá mua được xem là bất hợp
lý khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
a) Giá mua do doanh nghiệp ấn định thấp
hơn mức trung bình giá thành toàn bộ của
hàng hóa, dịch vụ trong thị trường liên quan.
Trong trường hợp khó thu thập được dữ liệu về
giá thành toàn bộ của tất cả các nhà sản xuất,
cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong thị trường
liên quan để tính mức trung bình, thì giá mua
do doanh nghiệp ấn định thấp hơn mức giá
thành phổ biến trên thị trường liên quan với
các chi phí cấu thành trong nó có cơ sở khách
quan rõ ràng;
b) Chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua
không kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch vụ
đã mua trước đó; và
c) Không có khủng hoảng kinh tế, thiên
tai, địch họa hoặc biến động bất thường làm
giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ
trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới
giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp so với trước đó.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một vài phân tích và kiến nghị sửa đổi pháp luật cạnh tranh về chống định giá quá đáng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5112
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
1. Quy định pháp luật về hành vi định giá
quá đáng
Trên thế giới, pháp luật Hoa Kỳ không
chống định giá quá đáng vì cho rằng lợi nhuận
là sự tưởng thưởng cho thành công trong cạnh
tranh chính đáng để đạt được vị trí thống lĩnh
hoặc độc quyền và định giá quá đáng cũng là
cơ chế phục hồi cấu trúc cạnh tranh1. Pháp
luật Liên minh Châu Âu thì chống lại hành
vi này với ý nghĩa thực hiện mục đích bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng. Pháp luật Việt Nam,
tại Khoản 1 Điều 13 và khoản 1 Điều 14 Luật
Cạnh tranh cấm doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền “áp đặt giá mua giá bán
hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá
bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng”.
Quy định này cho thấy pháp luật Việt Nam
ngoài hai hành vi định giá quá đáng theo lý
luận truyền thống còn bổ sung thêm hành vi
“ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho
khách hàng”. Như vậy, nhóm hành vi định giá
quá đáng theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
bao gồm ba dạng sau đây:
1.1. Hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý gây
thiệt hại cho khách hàng
Áp đặt giá bán xảy ra khi bên bán là doanh
MỘT VÀI PHÂN TÍCH VÀ KIẾN NGHị
SỬA ĐỔI PHÁP LUẬT CạNH TRANH
VỀ CHỐNG ĐịNH GIÁ QUÁ ĐÁNG
(*) ths. Khoa Luật thương Mại, Đại học Luật tP. Hồ chí Minh.
(1) Xem Trần Hoàng Nga, Các hình thức định giá lạm dụng trong pháp luật Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ, Tạp chí Khoa học Pháp lý,
số 4 năm 2009, trang 52.
TRầN HOÀNG NGA*
Biến động giá đang là vấn đề mang tính thời sự ở Việt Nam. Trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, sự thay
đổi “nóng”, “lạnh” bất thường của giá đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, tiêu dùng. Vì thế quản lý, điều
chỉnh hoạt động định giá của doanh nghiệp sao cho vừa phản ánh đúng quy luật kinh tế khách quan, vừa tác
động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội là vấn đề Nhà nước phải tăng cường quan tâm thực hiện. Một trong
những nguyên nhân làm giá cả biến động hoặc duy trì ở tình trạng bất thường có thể là hành vi định giá quá
đáng. Theo lý luận được thừa nhận rộng rãi, những doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
có khả năng chi phối giá cả trong thị trường liên quan và thường có xu hướng lạm dụng khả năng đó khi định
giá nhằm mục đích bóc lột khách hàng và/hoặc hạn chế cạnh tranh. Trong các hành vi đó, định giá quá đáng
(hay còn gọi là định giá độc quyền) là hành vi lạm dụng mang tính bóc lột đặc trưng. Bài viết này sẽ phân tích
quy định hiện hành của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về chống định giá quá đáng. Dựa vào kết quả phân
tích, một số kiến nghị cụ thể cũng sẽ được trình bày hướng đến sửa đổi, bổ sung những điểm thiếu sót hoặc
không phù hợp của các quy định, nhằm góp phần nâng cao tính khả thi và hiệu quả của pháp luật cạnh tranh.
52 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền về
cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong thị trường
liên quan định đoạt mức giá bán bất hợp lý
để tận thu lợi nhuận. Người mua, do cấu trúc
thị trường kém hoặc không có cạnh tranh, rơi
vào thế bị bóc lột, buộc phải chấp nhận mua
sản phẩm với mức giá bất hợp lý mà bên bán
đặt ra. Pháp luật Liên minh Châu Âu xác định
hành vi định giá bán “quá cao so với giá trị
kinh tế của sản phẩm” là hành vi định giá quá
đáng. Để đánh giá sự quá cao hay quá đáng
của giá bán sản phẩm, cơ quan có thẩm quyền
ở Liên minh Châu Âu áp dụng hai bước kiểm
tra. Bước 1 so sánh giá thành với giá bán.
Bước 2 kiểm tra để xác định giá bán đó có quá
đáng trên cơ sở các yếu tố nội tại của chính nó
hoặc trên cơ sở so sánh với giá bán sản phẩm
của đối thủ cạnh tranh. Tòa án Tư pháp Liên
minh Châu Âu thường dùng phối hợp nhiều
phép so sánh trong hai bước kiểm tra nói trên,
bao gồm: (i) so sánh giá - chi phí; (ii) so sánh
giá của doanh nghiệp thống lĩnh với giá của
đối thủ cạnh tranh; (iii) so sánh giá của doanh
nghiệp thống lĩnh với giá của chính nó ở nhiều
thị trường địa lý khác nhau; và (iv) so sánh giá
của doanh nghiệp thống lĩnh ở các thời điểm
khác nhau. Thực tế cho đến nay, phán quyết về
hành vi định giá quá đáng ở Liên minh Châu
Âu khá hiếm vì ba lý do. Thứ nhất, việc xác
định sự quá đáng của giá bán rất phức tạp, đòi
hỏi sự thận trọng toàn diện. Cơ quan có thẩm
quyền luôn phải áp dụng nhiều phép kiểm tra
và chỉ có thể kết luận khẳng định về hành vi
này nếu tất cả các phép kiểm tra đều dẫn đến
cùng một kết quả2. Thứ hai, cơ quan có thẩm
quyền cho rằng, điều kiện căn bản để tồn tại
hành vi định giá quá đáng là các rào cản gia
nhập thị trường, do đó thay vì chống hành vi
này thì nên tập trung xóa bỏ các rào cản, rồi
để tự cơ chế cạnh tranh của thị trường điều
chỉnh. Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền không
muốn sử dụng pháp luật cạnh tranh để can
thiệp và điều tiết giá cả3. Mục tiêu cốt yếu của
doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh là thu
lợi nhuận. Triển vọng lợi nhuận lớn chính là
yếu tố thu hút, thúc đẩy đầu tư, gia nhập vào
một ngành, một lĩnh vực kinh doanh. Trong
nền kinh tế thị trường, nhà nước không thể
theo xác định chủ quan, dùng mệnh lệnh hành
chính để khống chế biên lợi nhuận tối đa của
một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Vì thế, xác
định mức giá bán một sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ của doanh nghiệp như thế nào là quá
đáng, là bất công hay “bất hợp lý” không phải
việc đơn giản dễ dàng.
Theo nội dung khoản 2 Điều 27 Nghị định
số 116/2005/NĐ-CP, hành vi áp đặt giá bán
hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây
thiệt hại cho khách hàng nếu có đủ ba điều
kiện: cầu không tăng đột biến tới mức vượt
quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất
của doanh nghiệp; giá bán lẻ trung bình tại
cùng thị trường liên quan trong thời gian 60
ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt
quá 5% hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng
vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng
thời gian tối thiểu đó; không có biến động bất
thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng
hóa dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối
thiểu 60 ngày trước khi bắt đầu tăng giá. Như
vậy hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam
chỉ đưa ra cơ sở cho hành vi định giá bán quá
đáng dựa vào biểu hiện của việc “tăng giá bán
bất hợp lý” chứ không đưa ra chuẩn mực để
xác định “mức giá bán cao bất hợp lý”. Nếu
so sánh với quy định của Liên minh Châu Âu,
pháp luật cạnh tranh Việt Nam bỏ qua nhiều
phép kiểm tra quan trọng, chỉ dựa vào phép so
sánh giá của doanh nghiệp tại các thời điểm
khác nhau. Khoảng thời gian giữa các thời
điểm so sánh là 60 ngày. Nếu trong vòng 60
ngày không có biến động tăng đáng kể về nhu
(2) Xem Glader, Marcus và Larsen, Sune Chabert, Article 82: Excessive pricing – An outline of the legal principles relating to excessive
pricing and their future application in the field of IP rights and industry standards, Tạp chí Competition Law Insight, ngày 4/ 7/
2006, trang 3
(3) Xem O’Donoghue, Robert và Padilla, A Jorge, The Law and Economics of Article 82EC, Nhà xuất bản Hart Publishing, 2010, trang
195 và các trang từ 603 đến 638.
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5312
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
cầu và chi phí, mà doanh nghiệp thống lĩnh/
độc quyền tăng giá bán hơn 5%, thì bị xem là
định giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho khách
hàng. Nếu một trong hai điều kiện về nhu cầu
hoặc chi phí có biến động đáng kể, việc tăng
giá bán hơn 5% của doanh nghiệp không bị
xem là bất hợp lý.
Quy định về điều kiện xác định tính bất hợp
lý của giá theo Nghị định 116/2005/NĐ-CP cho
thấy, cơ sở và định hướng của pháp luật cạnh
tranh Việt Nam đối với hành vi định giá quá
đáng chỉ dự liệu điều chỉnh tình huống doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp sau một quá
trình cạnh tranh chính đáng đã đạt được vị
trí thống lĩnh hoặc độc quyền, và từ khi nắm
giữ vị trí đó mới bắt đầu xuất hiện nguy cơ
thực hiện hành vi định giá quá đáng. Nói cách
khác, giá bán trước khi thực hiện hành vi này
được cho là giá cạnh tranh, và nếu các điều
kiện khách quan của thị trường không có biến
động gì ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm
mà doanh nghiệp tăng giá bán ở mức đáng
kể (trên 5% trong khoảng thời gian 60 ngày)
nghĩa là doanh nghiệp đang thực hiện hành
vi định giá quá đáng để bóc lột khách hàng.
Theo lý thuyết, chênh lệch giữa giá bán với giá
thành càng nhiều thì biên lợi nhuận càng lớn.
Có ba cách để mở rộng biên lợi nhuận. Một là
tìm cách giảm giá thành (tiết kiệm chi phí, áp
dụng kỹ thuật, công nghệ mới tăng hiệu suất)
trong khi giữ nguyên hoặc giảm giá bán nhưng
mức giảm ít hơn mức giảm của giá thành. Hai
là giá thành không đổi hoặc tăng ít nhưng giá
bán tăng hoặc tăng nhiều hơn mức tăng của
giá thành. Ba là vừa giảm giá thành vừa tăng
giá bán. Khoản 2 Điều 27 Nghị định 116/2005/
NĐ-CP cho thấy pháp luật chỉ cấm doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mở
rộng biên lợi nhuận theo cách thứ hai, thứ ba.
Như vậy Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã
thu hẹp phạm vi điều chỉnh của pháp luật cạnh
tranh Việt Nam khi không quy định trường hợp
doanh nghiệp vừa gia nhập thị trường đã nắm
vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền và mức
giá doanh nghiệp ấn định đã bất hợp lý nhằm
bóc lột khách hàng ngay từ đầu. Ngoài ra, điều
kiện về biên độ tăng giá (trên 5%) và khoảng
thời gian tối thiểu (60 ngày) để xác định hành
vi định giá quá đáng cũng là điều cần xem xét
lại vì trong điều kiện thị trường ổn định, doanh
nghiệp thống lĩnh/độc quyền vẫn có thể tăng
giá bán từ từ, đều đặn hai tháng một lần với
mức tăng đến 5% - trong vòng một năm có thể
tăng giá đến 30% - một mức tăng gấp từ bốn
đến năm lần so với tốc độ tăng trưởng GDP
của Việt Nam4 mà không bị coi là lạm dụng vị
trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
Một vấn đề khác nữa là pháp luật cạnh
tranh Việt Nam chưa quan tâm đến chênh lệch
giữa giá và chi phí. Phép kiểm tra của pháp
luật Việt Nam không trực tiếp so sánh giá bán
và giá thành để tìm ra biên lợi nhuận. Nghị
định 116/2005/NĐ-CP chỉ quy định một mức
tăng tối thiểu cho cả giá và giá thành là “quá
5%”. Sự sơ hở này có thể dẫn đến kết quả
doanh nghiệp chỉ tăng giá bán không nhiều
vẫn bị xem là định giá quá đáng, trong khi có
doanh nghiệp tăng giá bán rất nhiều vẫn không
bị pháp luật cạnh tranh điều chỉnh. Ví dụ, một
doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền tăng giá
6% trong khoảng thời gian 60 ngày, khi giá
tăng đến 5%, bị xem là định giá quá đáng. Một
doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền khác tăng
giá 20% trong khoảng thời gian 60 ngày, nhưng
chứng minh được giá thành đã tăng “quá 5%”
(giả sử 6%), thì không bị xem là định giá quá
đáng. Ví dụ này cho thấy nghịch lý ở chỗ biên
lợi nhuận trong trường hợp đầu tiên chỉ tăng
thêm 1% doanh nghiệp bị xem là vi phạm,
trong khi biên lợi nhuận tăng đến 14% - mức
độ bóc lột khách hàng cao hơn gấp nhiều lần -
lại không bị xem là vi phạm. “Bão giá” trong
lĩnh vực dược phẩm và sữa ở Việt Nam thời
gian qua có thể là những ví dụ thực tế cho sơ
hở này của pháp luật cạnh tranh. Người bán có
thể viện các lý do như tỷ giá ngoại hối tăng,
giá nguyên vật liệu tăng, chi phí vận chuyển
tăng..., dẫn đến giá thành sản phẩm tăng hơn
(4) Ví dụ, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2008 là 6,2%, năm 2009 là 5,3% và 2010 là 6,7%. Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
54 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
5%, từ đó quyết định tăng giá bán lẻ, mức tăng
có thể cao hơn nhiều so với mức tăng của giá
thành, nhưng cơ quan có thẩm quyền không
thể áp dụng pháp luật cạnh tranh để xử lý.
1.2. Hành vi áp đặt giá mua bất hợp lý gây
thiệt hại cho khách hàng
Tương tự như hành vi áp đặt giá bán, áp
đặt giá mua xảy ra khi doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh/độc quyền về thu mua, lợi dụng vị
thế của mình định đoạt giá mua thấp mà bên
bán buộc phải chấp nhận. Hành vi này có thể
gây hệ lụy lớn đến sự ổn định và phát triển của
ngành kinh tế, từ đó tác động xấu đến người
tiêu dùng, về lâu dài nó có khả năng gây đình
đốn hoạt động sản xuất, cung ứng sản phẩm
đầu vào vì các nhà sản xuất, cung ứng không
chịu đựng được thua lỗ phải từ bỏ thị trường.
Tuy pháp luật cạnh tranh không giải thích thế
nào là “áp đặt”, nhưng bản thân từ này gợi ra
dấu hiệu: mức giá do bên mua đưa ra, còn bên
bán ở vào thế bị động và phải chấp nhận. Giá
được xác định không trên cơ sở thỏa thuận tự
nguyện của hai bên, mà theo ý chí của bên
mua. Hành vi áp đặt giá mua của doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền chỉ bị coi
là hành vi lạm dụng khi giá mua áp đặt đó “bất
hợp lý”. Bên mua ý thức được sự bất hợp lý
của giá mua nhưng vẫn cố tình áp đặt để bóc
lột bên bán.
Khoản 1 Điều 27 Nghị định số 116/2005/
NĐ-CP quy định giá mua hàng hóa, dịch vụ
“bất hợp lý” là giá được áp đặt ở mức thấp
hơn giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ
trong điều kiện: (i) chất lượng hàng hóa, dịch
vụ đặt mua không kém hơn chất lượng hàng
hóa, dịch vụ đã mua trước đó, và (ii) không có
khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa làm
giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ
trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới
giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp so với trước đó. Như vậy, khác
với cách tiếp cận gián tiếp với khái niệm áp
đặt giá bán bất hợp lý, Nghị định 116/2005/
NĐ-CP đã định nghĩa thế nào là “giá mua bất
hợp lý”- đó là mức giá thấp hơn giá thành sản
xuất. Do đó, việc kiểm tra xác định hành vi áp
đặt giá mua bất hợp lý gồm hai bước. Bước
thứ nhất so sánh giá mua doanh nghiệp đặt ra
với giá thành sản xuất. Nếu kết quả cho thấy
giá mua thấp hơn giá thành sản xuất, cơ quan
có thẩm quyền mới tiến hành bước thứ hai: so
sánh chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua với
chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã mua trước đó,
và xem xét các điều kiện khách quan như có
khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa xảy
ra dẫn đến giá bán buôn hàng hóa, giá cung
ứng dịch vụ trên thị trường liên quan giảm tới
mức dưới giá thành sản xuất trong thời gian
tối thiểu sáu mươi ngày liên tiếp trước đó hay
không.
Vấn đề đầu tiên đặt ra ở đây là tại sao Nghị
định 116/2005/NĐ-CP không dùng giá thành
toàn bộ, mà dùng giá thành sản xuất làm mức
chuẩn cho phép kiểm tra hành vi lạm dụng
này. Giá thành sản xuất chỉ là một phần trong
giá thành toàn bộ, do đó ngay cả áp đặt giá
mua ngang với giá thành sản xuất cũng có thể
gây lỗ cho người bán. Mặt khác, mỗi người
sản xuất, cung ứng dịch vụ có thể có giá thành
riêng. Giá thành toàn bộ trong phép kiểm tra
xác định định giá bán quá đáng dựa vào chi
phí của doanh nghiệp thống lĩnh, nên doanh
nghiệp tính toán biết rõ được. Trong khi đó,
giá thành sản xuất trong phép kiểm tra áp đặt
giá mua quá đáng dựa vào chi phí của người
bán về nguyên vật liệu và các chi phí trực tiếp
chuyển hóa nguyên vật liệu thành sản phẩm.
Làm sao bên mua có thể tính chính xác được
các chi phí đó để đưa ra đề nghị giá cao hơn?
Ngoài ra quy định như thế có thể gây tác động
ngược. Giá mua đặt ra có thể thấp hơn giá
thành của người sản xuất, cung ứng dịch vụ
này nhưng bằng hoặc cao hơn giá thành của
người sản xuất, cung ứng dịch vụ khác. Với
cùng một loại sản phẩm, dịch vụ chất lượng
ngang nhau, người sản xuất, cung ứng có giá
thành cao tức là hiệu quả kinh tế và năng lực
cạnh tranh thấp. Do đó việc bị thua lỗ và đào
thải khỏi thị trường là phù hợp với quy luật
cạnh tranh, và pháp luật không bảo vệ những
người này bằng quy định buộc bên mua phải
chấp nhận mức giá cao hơn giá thành của từng
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5512
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
nhà sản xuất, cung ứng. Vậy mức giá thành
dùng làm chuẩn đánh giá trong trường hợp này
nên là giá thành của ai? Xét về lý luận, bên
mua có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền, tức là
có phạm vi thu mua rộng với nhiều người sản
xuất, cung ứng khác nhau. Mức giá bên mua
đặt ra được áp dụng chung với nhiều người bán
một loại sản phẩm có chất lượng ngang nhau
(nếu không, bên mua có thể bị cáo buộc vì vi
phạm định giá phân biệt đối xử). Do đó, mức
giá thành lấy làm chuẩn để kiểm tra đánh giá
nên hiểu là giá thành trung bình của tất cả các
nhà sản xuất, cung ứng, hoặc là mức giá thành
phổ biến trên thị trường liên quan với các chi
phí cấu thành trong nó có cơ sở khách quan
rõ ràng. Chỉ không nên dùng mức chuẩn vừa
nêu trong trường hợp mỗi sản phẩm mua vào
có chất lượng riêng không luôn tương xứng
với giá thành. Ví dụ, trường hợp sản phẩm đặt
mua là những bộ phim điện ảnh, hoặc các sản
phẩm mang tính nghệ thuật và sáng tạo khác,
chi phí bỏ ra để tạo ra sản phẩm không phải
lúc nào cũng phản ánh chính xác giá trị của sản
phẩm đó. Dùng mức chuẩn là giá thành trung
bình trong trường hợp này dễ dẫn đến kết luận
không đúng, do đó cần có cơ sở, tiêu chí đánh
giá riêng.
1.3. Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây
thiệt hại cho khách hàng
Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây
thiệt hại cho khách hàng mang dáng dấp của
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc,
loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà Luật
Cạnh tranh không đề cập, không điều chỉnh.
Tuy nhiên, các dấu hiệu của hành vi mà pháp
luật quy định đã được thiết kế để đảm bảo đây
là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền.
Tính chất đơn phương áp đặt ý chí của doanh
nghiệp nắm quyền lực chi phối thị trường được
khoản 3 Điều 27 Nghị định số 116/2005/NĐ-
CP thể hiện ở dấu hiệu “khống chế không cho
phép” các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán
lại hàng hóa thấp hơn “mức giá đã quy định
trước”. Như vậy bản chất mối quan hệ giữa các
chủ thể không phải là thỏa thuận mà là áp đặt ý
chí từ một bên có quyền lực.
Khi tiến hành ấn định giá bán lại tối thiểu,
doanh nghiệp có thể nhắm đến một, một số
hoặc tất cả các mục đích sau. Thứ nhất, tạo
mặt bằng giá sàn cho sản phẩm của mình, hạn
chế khả năng các nhà phân phối, các nhà bán
lẻ cạnh tranh với hệ thống bán lẻ trực tiếp đến
người tiêu dùng của chính doanh nghiệp. Thứ
hai, hạn chế khả năng cạnh tranh lẫn nhau giữa
các nhà phân phối, bán lẻ gây mất ổn định
hoặc thu hẹp mạng lưới phân phối sản phẩm
của doanh nghiệp trên thị trường. Thứ ba, duy
trì giá bán lẻ đến người tiêu dùng ở mức cao
để thu lợi nhuận nhiều hơn. Hệ quả của hành
vi là hạn chế cạnh tranh trong phân phối, bán
lẻ sản phẩm và gây thiệt hại cho khách hàng
(nhà phân phối, bán lẻ và người tiêu dùng).
Chỉ trong trường hợp nhà phân phối là đại lý
bán hàng cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp
có quyền ấn định giá bán5. Đại lý thương mại
chỉ nhận thù lao cho hoạt động bán hàng. Ấn
định giá bán lẻ hoặc giá giao cho đại lý khác
với ấn định giá bán lại tối thiểu đối với các nhà
phân phối độc lập. Mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và đại lý thương mại không phải là mối
quan hệ giữa nhà cung ứng với khách hàng,
mà là quan hệ đối tác trong hoạt động trung
gian thương mại. Trong mối quan hệ này,
doanh nghiệp vẫn duy trì quyền sở hữu đối
với sản phẩm cho đến khi nó được bán cho
khách hàng. Nếu giá bán lẻ hoặc giá giao đại lý
được ấn định ở mức “bất hợp lý”, thì cấu thành
hành vi áp đặt giá bán quá đáng, chứ không
phải hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu. Như
vậy, loại trừ các đại lý được coi như bộ phận
trong hệ thống bán hàng trực tiếp của doanh
nghiệp, các nhà phân phối, các nhà bán lẻ khác
đều là khách hàng của doanh nghiệp, thậm chí
là khách hàng thường xuyên và mua hàng số
lượng lớn (mua sỉ). Sau khi mua hàng, họ trở
thành chủ sở hữu và có quyền định đoạt giá bán
lẻ theo đường lối kinh doanh và cạnh tranh của
riêng họ. Việc bị khống chế, không cho phép
(5) Xem khoản 1 Điều 172 Luật Thương mại 2005.
56 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(209) 122011
bán lại hàng hóa thấp hơn một mức nhất định
quy định trước sẽ triệt tiêu khả năng giảm giá
bán lẻ để tiêu thụ được hàng trong những điều
kiện, hoàn cảnh riêng của họ. Còn người tiêu
dùng thì bị triệt tiêu khả năng mua được sản
phẩm với giá rẻ hơn. Tuy nhiên, hành vi lạm
dụng này được xác định chỉ bằng biểu hiện
“khống chế, không cho phép” của chủ thể là
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/ độc quyền,
không cần phải chứng minh có thiệt hại thực
tế đã xảy ra với khách hàng.
Trong khi Luật Cạnh tranh quy định hành
vi “ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại
cho khách hàng”, thì Nghị định 116/2005/NĐ-
CP lại thu hẹp phạm vi điều chỉnh của Luật
với giải thích đó là “bán lại hàng hóa”, tức
là không điều chỉnh hành vi này đối với dịch
vụ. Thực tế đã cho thấy khoảng trống này của
pháp luật trong vụ việc Megastar. Theo đó, ban
đầu các công ty điện ảnh dự định khiếu nại
Megastar về hành vi “ấn định giá bán lại tối
thiểu gây thiệt hại cho khách hàng”, nhưng sau
đó họ đã phải chuyển sang khiếu nại Megastar
theo quy định về hành vi “áp đặt giá bán bất
hợp lý”, với hai lý do. Thứ nhất, vì chính sách
ấn định giá mà Megastar áp đặt cho các công
ty điện ảnh là ấn định giá tối thiểu Megastar
thu của các công ty điện ảnh. 25 nghìn đồng là
mức tối thiểu các công ty điện ảnh phải trả cho
Megastar cho mỗi vé chiếu phim họ bán được.
Megastar không quan tâm, không ấn định hay
ép buộc các công ty điện ảnh phải bán vé ở
mức tối thiểu nào. Về nguyên tắc, các công
ty điện ảnh vẫn có quyền bán vé với giá thấp
hơn 25 nghìn đồng (dù thực tế họ không thể
làm như thế). Thứ hai, chiếu phim là dịch vụ,
giá vé xem phim là giá bán lẻ cho dịch vụ đó.
Nghị định 116/2005/NĐ-CP không quy định
điều chỉnh nên các công ty điện ảnh không thể
khiếu nại Megastar về hành vi ấn định giá bán
lại tối thiểu. Luật sư của các công ty điện ảnh
cho rằng đây là “lỗ hổng” của pháp luật cạnh
tranh Việt Nam, và mong rằng lỗ hổng này
sớm được khắc phục6.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004
về chống doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền
định giá quá đáng với ba dạng hành vi cụ thể
nêu trên là phù hợp với mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, của
người tiêu dùng. Tuy nhiên, các quy định giải
thích, hướng dẫn áp dụng Luật Cạnh tranh của
Nghị định 116/2005/NĐ-CP cần được sửa đổi,
(6) Xem Quỳnh Như, Vụ Megastar ép khách hàng: Có “kiện” mới thấy luật còn kẽ hở, Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, ngày 12/5/2010,
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
Số 24(209) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5712
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
bổ sung để đảm bảo sự đầy đủ, chặt chẽ, rõ
ràng:
2.1. Đối với quy định về hành vi áp đặt giá
bán bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng
Quy định hướng dẫn của Nghị định
116/2005/NĐ-CP cần được sửa đổi, bổ sung
theo hướng định nghĩa rõ và phân biệt được
hành vi định giá lạm dụng mang tính bóc lột
với hành vi tìm kiếm lợi nhuận chính đáng của
doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền. Ngoài ra,
Nghị định hướng dẫn Luật Cạnh tranh cũng
cần xác định một số cơ sở thực tế của sự bất
hợp lý trong giá bán để chứng minh hành vi
định giá quá đáng này. Tác giả kiến nghị sửa
đổi khoản 2 Điều 27 Nghị định 116/2005/NĐ-
CP như sau:
Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ
bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng là
hành vi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị
trí độc quyền ấn định giá bán cao quá đáng
nhằm thu lợi nhuận hơn đáng kể so với mức
lợi nhuận bình thường phổ biến của hàng hóa,
dịch vụ. Giá bán được xem là bất hợp lý khi
chênh lệch đáng kể so với giá thành toàn bộ
của hàng hoá, dịch vụ, và thỏa mãn ít nhất một
trong các điều kiện sau đây:
a) Giá bán của doanh nghiệp cao hơn nhiều
so với giá bán cùng sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh không có vị trí thống lĩnh;
b) Giá bán của doanh nghiệp cao hơn nhiều
so với giá bán phổ biến cùng sản phẩm ở thị
trường khác có điều kiện tương tự; hoặc
c) Giá bán của doanh nghiệp tăng đáng kể
khi chi phí không tăng hoặc tăng không nhiều
như giá và nhu cầu không tăng đột biến tới
mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng
lực sản xuất của doanh nghiệp, làm cho lợi
nhuận của doanh nghiệp tăng đáng kể so với
trước đó.
Đối với các mức độ “đáng kể” nêu trong quy
định này, tác giả kiến nghị giao cho cơ quan có
thẩm quyền về cạnh tranh xác định căn cứ vào
dữ kiện thực tế của từng trường hợp.
2.2. Đối với quy định về hành vi áp đặt giá
mua bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng
Khoản 1 Điều 27 Nghị định 116/2005/NĐ-
CP nên được sửa đổi như sau:
Hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch
vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng là
hành vi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền ấn định giá mua hàng hóa, dịch vụ
thấp quá đáng. Giá mua được xem là bất hợp
lý khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
a) Giá mua do doanh nghiệp ấn định thấp
hơn mức trung bình giá thành toàn bộ của
hàng hóa, dịch vụ trong thị trường liên quan.
Trong trường hợp khó thu thập được dữ liệu về
giá thành toàn bộ của tất cả các nhà sản xuất,
cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong thị trường
liên quan để tính mức trung bình, thì giá mua
do doanh nghiệp ấn định thấp hơn mức giá
thành phổ biến trên thị trường liên quan với
các chi phí cấu thành trong nó có cơ sở khách
quan rõ ràng;
b) Chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua
không kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch vụ
đã mua trước đó; và
c) Không có khủng hoảng kinh tế, thiên
tai, địch họa hoặc biến động bất thường làm
giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ
trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới
giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp so với trước đó.
2.3. Đối với quy định về hành vi ấn định giá
bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách
hàng
Như đã phân tích ở trên, quy định giải thích
về hành vi này ở Nghị định 116/2005/NĐ-CP
đã rõ ràng, thể hiện đúng bản chất quá đáng,
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
Tuy nhiên, quy định có điểm thiếu sót khi
không liệt kê ấn định giá bán lại tối thiểu đối
với sản phẩm dịch vụ. Vì vậy, tác giả kiến nghị
bổ sung “dịch vụ” vào nội dung khoản 3 Điều
27 Nghị định 116/2005/NĐ-CP như sau:
Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại
cho khách hàng là việc khống chế không cho
phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán
lại hàng hóa, dịch vụ thấp hơn mức giá đã quy
định trước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_vai_phan_tich_va_kien_nghi_sua_doi_phap_luat_canh_tranh.pdf