Thứ tám, hoàn thiện hơn nữa quy định
trong lĩnh vực hình sự đối với các hành vi
cưỡng bức lao động. ILO đã khuyến nghị
Việt Nam nghiên cứu, xác định các hành vi
liên quan đến cưỡng bức lao động. Thực tế,
trước đây tại Việt Nam nếu có hành vi cưỡng
bức lao động thì chủ yếu xử phạt hành chính
hoặc xử lý hình sự bằng các tội danh khác
như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giam giữ
người trái pháp luật, mua bán phụ nữ, mua
bán trẻ em mà chưa có tội phạm nào cụ thể
về cưỡng bức lao động. Khắc phục hạn chế
này, BLHS sửa đổi năm 2015 lần đầu tiên đã
có tội danh riêng biệt về cưỡng bức lao động
tại Điều 297 - Tội cưỡng bức lao động:
Tuy nhiên, quy định chưa tương xứng
với mức độ nguy hiểm của hành vi. Tội cố ý
gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác thì tỷ lệ tổn thương cơ thể
là từ 11% đến 30 % nhưng đối với tội về
cưỡng bức lao động tỷ lệ tổn thương cơ thể
lại là từ 31%. Hậu quả cả hành vi cưỡng bức
lao động không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe
của nạn nhân mà trong nhiều trường hợp còn
ảnh hưởng đến tinh thần đối với nạn nhân.
Ngoài ra, cưỡng bức lao động còn
được hình sự hóa trong trường hợp mua bán
người nhằm mục đích cưỡng bức lao động.
Lúc này hành vi mua bán người đã hoàn
thành kể từ khi bên tuyển mộ tiếp nhận,
chuyển giao người. Sau khi nạn nhân bị bán
cho bên tuyển mộ họ có thể bị buộc lao động
nặng nhọc, độc hại, vắt kiệt sức lao động
Mua bán người vì mục đích cưỡng
bức lao động không được quy định trong tội
Cưỡng bức lao động. Hiện nay, một người
thực hiện hành vi mua bán người vì mục
đích cưỡng bức lao động thì sẽ bị xử lý về
tội danh mua bán người, mà không phải tội
cưỡng bức lao động. Để tránh nhầm lẫn giữa
hai tội danh này cần thiết phải có văn bản
hướng dẫn.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế về chống lao động cưỡng bức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỨC ĐỘ TƯƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỚI CÁC TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VỀ CHỐNG LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC1
1 Bài viết có sử dụng kết quả của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Lao động cưỡng bức - Tiêu chuẩn quốc tế, pháp
luật và thực tiễn ở Việt Nam” do ThS. Lê Phú Hà làm chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Để đánh giá pháp luật Việt Nam về xóa bỏ lao động cưỡng bức
cần có sự so sánh, đánh giá toàn diện với các chuẩn mực pháp luật
quốc tế về chống lao động cưỡng bức. Công ước số 29 và Công
ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế được coi là hai văn kiện
cơ bản về chống lao động cưỡng bức. Công ước số 29 được Hội
nghị toàn thể thông qua ngày 28/6/1930 và Công ước số 105 được
Hội nghị toàn thể thông qua ngày 25/6/1957. Hiện nay, Việt Nam
đã gia nhập Công ước số 29 và đang nghiên cứu để xem xét việc
gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế2.
2 Xem thêm Quyết định số 2528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
Lê Phú Hà*
* ThS. Viện Nghiên cứu Lập pháp
Abstract
In order to evaluate the Vietnamese law on the elimination of
forced labour, it is needed to proceed comprehensive comparisons
and assessments with international standards on the forced
labour. The Convention No. 29 and Convention No. 105 of the
International Labor Organization are considered as the two
foundermental documents on anti-forced labour. The Convention
No. 29 was adopted by the Plenary Session on June 28, 1930 and
the Convention No. 105 was adopted by the Plenary Session on
June 25, 1957. Currently, Vietnam has joined the Convention No.
29 and is also reviewing to consider joining the Convention No.
105 of the International Labor Organization.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: lao động cưỡng bức, chống lao
động cưỡng bức, cưỡng bức lao động
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/11/2018
Biên tập : 12/12/2018
Duyệt bài : 18/12/2018
Article Infomation:
Keywords: forced labourers; anti-forced
labour; compulsory labour
Article History:
Received : 18 Nov. 2018
Edited : 12 Dec. 2018
Approved : 18 Dec. 2018
1. Về định nghĩa lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc
Công ước số 29 của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO) đã đưa ra định nghĩa khá đầy
đủ về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc.
Theo đó, tại khoản 1 Điều 2 Công ước số
29 quy định: "Tất cả các công việc hay dịch
vụ mà một người thực hiện dưới sự đe dọa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 4(380) T2/2019
phải chịu một hình phạt và vì hình phạt này
người đó không tự nguyện làm việc". Như
vậy, một hoạt động lao động được coi là lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc khi có sự
hiện diện của cả 3 yếu tố:
Thứ nhất, một người thực hiện một
công việc hoặc dịch vụ cho người khác;
Thứ hai, người này không tự nguyện
thực hiện công việc hoặc dịch vụ đó;
Thứ ba, người thực hiện công việc
hoặc dịch vụ đó bị đe dọa sẽ chịu một hình
phạt nào đó nếu không tiến hành công việc
hoặc dịch vụ đó.
Về phạm vi, khái niệm mà Công ước
29 đưa ra không bó hẹp dưới dạng các hành
động cụ thể là "đánh đập, nhục mạ hoặc bị
ép buộc" người lao động mà nó thể hiện
dưới dạng cả đe dọa và cả hành động liên
quan tới bạo lực, hay hạn chế về thân thể,
hay tước đoạt quyền tự do và các đặc quyền
khác của người lao động. Về đối tượng của
đe dọa hay áp dụng các hình phạt nhằm ép
buộc người lao động phải làm những công
việc mà bản thân họ không tự nguyện hoặc
trong những điều kiện lao động tồi tàn theo
khái niệm của Công ước 29 không chỉ đối
với người lao động mà còn có thể đối với cả
thân nhân của họ. Về công việc sử dụng lao
động cưỡng bức theo khái niệm của Công
ước 29 cũng không chỉ bó hẹp trong phạm vi
giao kết và thực hiện hợp đồng lao động hay
trong quan hệ lao động mà đó có thể là bất
kỳ một "công việc hoặc dịch vụ" nào "mà
một người ép buộc phải làm dưới sự đe dọa
của một hình phạt nào đó mà bản thân người
đó không tự nguyện làm".
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm
lao động cưỡng bức được quy định tại khoản
10 Điều 3 của Bộ luật Lao động (BLLĐ)
năm 2012. Theo đó cưỡng bức lao động là
việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác
3 Về vấn đề này, xem thêm Phan Thị Thanh Huyền, Nhận diện về lao động cưỡng bức trong pháp luật lao động Việt Nam
hiện hành, tại
lao động trái ý muốn của họ. Quy định này
chủ yếu nhấn mạnh yếu tố không tự nguyện
là do việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực, trong khi thực tế có rất nhiều những
dạng ép buộc, cưỡng bức khác. Thuật ngữ
“thủ đoạn khác” chưa được giải thích một
cách rõ ràng nên rất khó xác định.
Ngoài ra, phạm vi điều chỉnh của
BLLĐ năm 2012 là những hoạt động lao
động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật
cấm, nên việc dùng thuật ngữ “lao động”
trong định nghĩa về lao động cưỡng bức ở
BLLĐ năm 2012 dẫn đến cách hiểu là lao
động cưỡng bức chỉ xảy ra khi một người
phải thực hiện những công việc hợp pháp
trái với ý muốn của họ, còn những công việc
bất hợp pháp mà một người phải thực hiện
ngoài ý muốn của họ không nằm trong nội
hàm khái niệm lao động cưỡng bức.
Cách hiểu đó hẹp hơn khái niệm về lao
động cưỡng bức của Công ước số 29. Công
ước này dùng thuật ngữ “một người phải
thực hiện một công việc hoặc dịch vụ” để
chỉ cả những trường hợp mà công việc hay
dịch vụ hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Nói
cách khác, theo Công ước số 29, lao động
cưỡng bức không được xác định theo tính
chất của công việc (có thể hợp pháp hoặc
không hợp pháp theo luật quốc gia) mà phải
theo tính chất của mối quan hệ giữa người
thực hiện công việc và người hưởng lợi từ
công việc3.
Khái niệm lao động cưỡng bức chưa
được làm rõ đã gây khó khăn cho việc xử lý,
cũng như cho việc xác định nạn nhân và bảo
vệ, hỗ trợ nạn nhân của lao động cưỡng bức
theo như yêu cầu của Công ước số 29.
2. Các công việc không được coi là lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc
Theo quy định của Công ước 29, lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc không bao
gồm:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 4(380) T2/2019
- Mọi công việc hoặc dịch vụ buộc
phải làm theo các đạo luật về nghĩa vụ quân
sự bắt buộc và trong những công việc có
tính chất quân sự thuần túy;
- Mọi công việc hoặc dịch vụ thuộc
những nghĩa vụ công dân bình thường của
công dân trong một nước tự quản hoàn toàn;
- Mọi công việc hoặc dịch vụ mà một
người buộc phải làm do một quyết định của
Tòa án, với điều kiện là công việc hoặc dịch
vụ đó phải tiến hành dưới sự giám sát và
kiểm tra của những nhà chức trách công
cộng, và người đó không bị chuyển nhượng
hoặc bị đặt dưới quyền sử dụng của những
tư nhân, công ty hoặc hiệp hội tư nhân;
- Mọi công việc hoặc dịch vụ buộc
phải làm trong những trường hợp khẩn cấp,
nghĩa là trong những trường hợp có chiến
tranh, xảy ra tai họa hoặc có nguy cơ xảy ra
tai họa như là cháy, lụt, đói, động đất, dịch
bệnh dữ dội của người và gia súc, sự xâm hại
của thú vật, côn trùng hoặc ký sinh trùng, và
nói chung là mọi tình thế gây nguy hiểm cho
đời sống hoặc cho sự bình yên của toàn thể
hoặc một phần dân cư;
- Những công việc của thôn xã vì lợi
ích trực tiếp của tập thể và do những thành
viên của tập thể đó thực hiện, và vì vậy,
có thể coi như là nghĩa vụ công dân bình
thường của các thành viên tập thể, với điều
kiện là những thành viên trong tập thể đó
hoặc những người đại diện trực tiếp của họ
có quyền được tham khảo ý kiến về sự cần
thiết của công việc ấy.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam
rải rác trong Bộ luật, Luật và các văn bản
hướng dẫn thi hành thì có một số công việc
mà công dân phải thực hiện như nghĩa vụ,
không được coi là lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc.
Thứ nhất, về những công việc liên quan
đến nghĩa vụ quân sự, Luật Nghĩa vụ quân
sự năm 2015 quy định công dân trong độ
tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân
biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi
cư trú phải thực hiện nghĩa vụ quân sự theo
quy định. Về điểm này, quy định của pháp
luật Việt Nam phù hợp với quy định của
Công ước 29 về lao động cưỡng bức.
Thứ hai, về nghĩa vụ công dân bình
thường, pháp luật Việt Nam trước đây có
quy định trong Pháp lệnh Nghĩa vụ lao động
công ích năm 1999 về nghĩa vụ của người
dân đóng góp ngày công để làm những việc
vì lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên, cùng với
điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, Pháp
lệnh này đã được bãi bỏ. Hiện nay, quyền
cũng như nghĩa vụ của công dân trong từng
lĩnh vực được pháp luật điều chỉnh trong
lĩnh vực đó quy định rõ ràng, cụ thể. Về cơ
bản, công dân chỉ cần đảm bảo những nghĩa
vụ bình thường trong chế độ XHCN tự do,
tự nguyện, bình đẳng. Quy định về vấn đề
này phù hợp với quy định về mọi công việc
hoặc dịch vụ thuộc những nghĩa vụ công dân
bình thường của công dân trong một nước tự
quản hoàn toàn không được coi là lao động
cưỡng bức.
Thứ ba, về việc lao động theo quyết
định của Tòa án, theo quy định của pháp luật
Việt Nam bao gồm các trường hợp sau: lao
động trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc
(theo quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc của Tòa án đối với người nghiện ma
túy); lao động trong các trường giáo dưỡng
(theo quyết định đưa vào trường giáo dưỡng
của Tòa án đối với trường hợp người chưa
thành niên phạm tội); lao động trong trại
giam (theo bản án, quyết định phạt tù của
Tòa án đối với trường hợp người phạm tội
theo quy định của Bộ luật Hình sự - BLHS).
Trước hết là đối với trường hợp lao
động trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Người nghiện ma túy được đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc với mục đích trị liệu chữa
bệnh, hướng nghiệp dạy nghề để tái hòa
nhập cộng đồng cho họ. Lao động bắt buộc
của họ trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 4(380) T2/2019
cũng không ngoài mục đích đó. Quy định
của pháp luật Việt Nam về vấn đề này về cơ
bản phù hợp với quy định của Công ước số
29. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý là thực tế
cho thấy, dễ phát sinh cưỡng bức lao động
từ các cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng việc
thanh tra, giám sát lại chưa được chặt chẽ,
kịp thời.
Đối với lao động của người chưa thành
niên trong các trường giáo dưỡng, theo quy
định tại Điều 96 BLHS năm 2015 thì việc
đưa người chưa thành niên vào trường giáo
dưỡng không phải là hình phạt mà là một
trong những biện pháp tư pháp có tính giáo
dục, phòng ngừa do Tòa án quyết định, áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành
vi phạm tội, do nhân thân và môi trường
sống của người đó mà cần đưa người đó vào
một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
Người được đưa vào trường giáo dưỡng
phải chịu sự giám sát, quản lý, giáo dục của
nhà trường và phải học tập, rèn luyện, lao
động, sinh hoạt dưới sự quản lý, hướng dẫn
của cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng.
Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đã
cách ly người chưa thành niên khỏi môi
trường sống của người đó, khỏi gia đình,
nhà trường và đưa họ vào một môi trường
hoàn toàn mới với kỷ luật chặt chẽ, nghiêm
khắc. Người chưa thành niên lại là những
người chưa trưởng thành, tâm sinh lý còn
đang phát triển và nhận thức chưa đầy đủ.
Mặt khác, pháp luật quy định về lao động
của người chưa thành niên trong trường
giáo dưỡng còn chưa xác định rõ một số
vấn đề cơ bản, trực tiếp liên quan đến quyền
và nghĩa vụ lao động của các em như nghề
phù hợp với người chưa thành niên, giám
sát lao động của người chưa thành niên của
các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực
lao động Đặc biệt, về vấn đề thực thi các
quy định pháp luật liên quan đến lao động
trong trường giáo dưỡng còn thiếu sự giám
sát thanh tra thường xuyên nên có thể dẫn
đến trường hợp lợi dụng để cưỡng bức lao
động trên thực tế.
Đối với một hình thức lao động khác
theo quyết định của Tòa án là lao động của
các phạm nhân trong trại giam. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam, các phạm
nhân trong tù phải chấp hành nội quy, quy
chế trại giam trong đó phải chấp hành chế độ
lao động bắt buộc phù hợp với độ tuổi, sức
khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục,
hòa nhập cộng đồng. Quy định của pháp
luật Việt Nam về cơ bản phù hợp với quy
định pháp luật quốc tế về việc lao động theo
quyết định của Tòa án không được coi là lao
động cưỡng bức. Việc người phạm tội khi
chấp hành án phạt tù hoặc người chưa thành
niên phải thực hiện nghĩa vụ lao động, học
tập nhằm giáo dục, cải tạo họ, ngăn ngừa
tái phạm và vi phạm pháp luật. Tuy nhiên,
cũng giống như các quy định pháp luật về
lao động của người chưa thành niên trong
trường giáo dưỡng, lao động của người
nghiện ma túy trong các cơ sở cai nghiện bắt
buộc, việc hướng dẫn triển khai thi hành các
quy định về lao động của phạm nhân trong
trại giam còn chưa cụ thể và thi hành trên
thực tế còn khoảng cách so với quy định của
pháp luật.
Thứ tư, về mọi công việc hoặc dịch
vụ buộc phải làm trong những trường hợp
khẩn cấp, nghĩa là trong những trường hợp
có chiến tranh, xảy ra tai họa hoặc có nguy
cơ xảy ra tai họa như là cháy, lụt, đói, động
đất, dịch bệnh dữ dội của người và gia súc,
sự xâm hại của thú vật, côn trùng hoặc ký
sinh trùng và nói chung là mọi tình thế gây
nguy hiểm cho đời sống hoặc cho sự bình
yên của toàn thể hoặc một phần dân cư. Luật
Quốc phòng Việt Nam tại Điều 37 có quy
định: "Công dân Việt Nam là nguồn nhân
lực cơ bản, chủ yếu của quốc phòng". Khi có
chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội có thể xem xét, quyết
định tổng động viên hoặc động viên cục bộ
(Điều 30 Luật Quốc phòng). Đây là việc huy
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 4(380) T2/2019
động sức dân trong đảm bảo an ninh chung
cho toàn xã hội, bảo vệ tài sản chung của
nhân dân, của Nhà nước, phù hợp với quy
định của pháp luật quốc tế và không được
coi là cưỡng bức lao động.
Tuy nhiên, đối với quy định tại Điều
107 BLLĐ năm 2012 về việc người sử dụng
lao động có quyền yêu cầu người lao động
làm thêm giờ vào bất kỳ ngày nào và người
lao động không được từ chối trong các
trường hợp sau đây:
1. Thực hiện lệnh động viên, huy động
bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an
ninh theo quy định của pháp luật;
2. Thực hiện các công việc nhằm bảo
vệ tính mạng con người, tài sản của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và khắc
phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh
và thảm họa” .
Quy định của BLLĐ năm 2012 như
vậy quá rộng so với quy định về các trường
hợp khẩn cấp được phép huy động lao động
cưỡng bức tại khoản 2 Điều 2 của Công ước
số 29. Theo đó, Công ước số 29 chỉ cho phép
lao động bắt buộc trong các trường hợp khẩn
cấp, trong khoảng thời gian đặc biệt trong
chiến tranh hoặc thiên tai hoặc nguy cơ thiên
tai và trong các trường hợp nguy hiểm tới sự
an toàn của một phần hoặc toàn nhân loại4.
Thứ năm, về những công việc của thôn
xã vì lợi ích trực tiếp của tập thể và do những
thành viên của tập thể đó thực hiện. Hiến
pháp năm 2013 có quy định: Công dân có
nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật;
tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh
hoạt công cộng5. Trên thực tế, việc thực hiện
những công việc của thôn xã là vì lợi ích của
4 Observation (CEACR) - adopted 2013, published 103rd ILC session (2014) C029 - Forced Labour Convention, 1930
(No. 29) -Viet Nam, tại Mục VII.
5 Điều 46 Hiến pháp năm 2013.
6 Điều 25 Hiến pháp năm 2013.
tập thể và trên tinh thần tự nguyện, dân chủ
của nhân dân, không có quy định ép buộc
công dân phải tham gia lao động công ích
cho thôn xã.
3. Về cam kết không sử dụng bất kỳ hình
thức lao động cưỡng bức nào
Công ước số 105 của ILO về xóa bỏ
lao động cưỡng bức quy định về việc cam
kết không sử dụng bất kỳ hình thức lao động
cưỡng bức nào như một trong các biện pháp
sau đây:
- Như là một biện pháp cưỡng chế hay
giáo dục chính trị, hoặc như một sự trừng
phạt đối với những ai đang có hoặc đang
phát biểu chính kiến, hay ý kiến chống đối
về tư tưởng đối với trật tự chính trị, xã hội
hoặc kinh tế đã được thiết lập;
- Như là một biện pháp huy động và
sử dụng nhân công vào mục đích phát triển
kinh tế;
- Như là một biện pháp về xử lý vi
phạm kỷ luật lao động;
- Như là một sự trừng phạt đối với việc
đã tham gia đình công;
- Như là một biện pháp phân biệt đối
xử về chủng tộc, xã hội, dân tộc và tôn giáo.
Pháp luật Việt Nam không có quy
định việc sử dụng lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc như là một sự trừng phạt những
ai đang có hoặc phát biểu chính kiến hay ý
kiến chống đối về tư tưởng đối với trật tự xã
hội hoặc kinh tế đã thiết lập. Hiến pháp năm
2013 đã quy định: Công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình6. Tuy nhiên,
đối với quy định của Công ước số 105 về
việc không sử dụng lao động cưỡng bức như
là một biện pháp cưỡng chế hay giáo dục
cần được xem xét lại một cách kỹ lưỡng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 4(380) T2/2019
Đây cũng là một vấn đề trở ngại khi Việt
Nam phê chuẩn Công ước số 105. Việt Nam
hiện nay vẫn tồn tại trong cả pháp luật và
thực tiễn việc đưa người chưa thành niên vi
phạm pháp luật vào trường giáo dưỡng để
giáo dục. Người chưa thành niên buộc phải
chấp hành mọi nội quy, quy chế của trường
giáo dưỡng, trong đó có quy định về việc bắt
buộc lao động.
Pháp luật Việt Nam cũng không có
quy định việc sử dụng lao động cưỡng bức
hoặc bắt buộc như một biện pháp huy động
và sử dụng nhân công vào mục đích phát
triển kinh tế.
Đối với việc cam kết không sử dụng
lao động cưỡng bức như là một biện pháp về
xử lý kỷ luật lao động, pháp luật Việt Nam
mặc dù chưa ghi nhận trực tiếp về vấn đề
này, nhưng cũng quy định khá chặt chẽ và cụ
thể về vấn đề xử lý kỷ luật lao động để hạn
chế xảy ra cưỡng bức lao động. Các hình
thức kỷ luật lao động được quy định trong
BLLĐ bao gồm: khiển trách; kéo dài thời
hạn nâng lương không quá sáu tháng hoặc
chuyển làm công việc khác có mức lương
thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng
hoặc cách chức; sa thải. Khi tiến hành việc
xử lý kỷ luật lao động, người sử dụng lao
động phải chứng minh được lỗi của người
lao động. Người lao động có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân
dân hoặc người khác bào chữa. Khi xem xét
xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự
và phải có sự tham gia của đại diện Ban chấp
hành Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp
và phải được ghi thành biên bản. Những quy
định trên đã phần nào hạn chế được những
hành vi mang tính chất cưỡng bức lao động
mà người sử dụng lao động áp đặt đối với
người lao động khi họ vi phạm kỷ luật lao
động. Tuy nhiên, việc triển khai trên thực
tế các quy định này trong doanh nghiệp cần
phải có sự giám sát và cần phải có chế tài đủ
mạnh để thực hiện đúng mục đích không sử
dụng lao động cưỡng bức như là một biện
pháp về xử lý kỷ luật lao động.
Đối với việc cam kết không sử dụng
lao động cưỡng bức như một sự trừng phạt
đối với việc đã tham gia đình công, pháp
luật Việt Nam quy định nghiêm cấm tất cả
các hành động trù dập, trả thù người tham
gia đình công hoặc lãnh đạo cuộc đình công.
Người cản trở việc thực hiện quyền đình
công hoặc ép buộc người khác đình công,
người có hành vi bất hợp pháp trong khi đình
công, người không thi hành Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định của Tòa
án nhân dân, thì tùy theo mức độ vi phạm,
phải bồi thường thiệt hại, bị xử phạt hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Những quy định này thể hiện cam kết mạnh
mẽ của Việt Nam trong việc không sử dụng
lao động cưỡng bức như một sự trừng phạt
đối với việc tham gia đình công. Tuy nhiên,
thực tế của các cuộc đình công xảy ra tại Việt
Nam, chủ sử dụng lao động thường trừng
phạt người lao động bằng rất nhiều hình thức
rất tinh vi. Một trong số đó là việc ép buộc
người lao động chuyển sang làm một công
việc khác với mức lương thấp hơn, điều kiện
làm việc kém hơn, bóc lột sức lao động hoặc
sử dụng những nội quy khắc nghiệt để buộc
người lao động phải nghỉ việc.
Đối với việc loại bỏ việc sử dụng lao
động cưỡng bức làm phương tiện phân biệt
đối xử, pháp luật Việt Nam không có quy
định việc sử dụng lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc như một biện pháp phân biệt đối xử
về chủng tộc, xã hội, dân tộc hoặc tôn giáo.
Hiến pháp Việt Nam quy định: "...Nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc".
Như vậy, về cơ bản quy định của pháp
luật Việt Nam phù hợp với tinh thần của pháp
luật quốc tế về việc cam kết không sử dụng
bất kỳ hình thức nào của lao động cưỡng bức.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam còn
chưa đầy đủ đối với vấn đề này. Bên cạnh
đó, việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực này
cũng chưa nghiêm túc và thiếu sự giám sát
của các cơ quan có thẩm quyền.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 4(380) T2/2019
4. Chế tài đối với việc cưỡng bức hoặc bắt
buộc lao động
Pháp luật quốc tế có quy định về việc
áp dụng chế tài đối với việc cưỡng bức lao
động. Điều 25 Công ước số 29 về lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc quy định: "Hành vi
huy động bất hợp pháp việc đi làm lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc sẽ phải bị chế tài
hình sự" và chế tài do pháp luật quy định
phải có đủ hiệu lực thực sự và được áp dụng
nghiêm ngặt. Điều 2 Công ước số 105 về
xóa bỏ lao động cưỡng bức quy định: "Mọi
nước thành viên của ILO phê chuẩn Công
ước này cam kết sử dụng các biện pháp có
hiệu quả nhằm xóa bỏ ngay và toàn bộ lao
động cưỡng bức bắt buộc".
Theo pháp luật Việt Nam, cưỡng bức
lao động là hành vi trái pháp luật. Người
thực hiện hành vi này có thể phải chịu các
chế tài về dân sự, hành chính và hình sự.
Về chế tài dân sự: Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân có quyền
dân sự bị xâm phạm phải được bồi thường
toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác7.
Về chế tài hành chính: BLLĐ năm
2012 quy định cấm ngược đãi người lao
động, cấm cưỡng bức lao động dưới bất kỳ
hình thức nào đồng thời đưa ra các quy định
về thanh tra nhà nước về lao động và việc
xử phạt vi phạm pháp luật lao động, trong
đó bao gồm cả việc xử phạt hành chính và
kỷ luật.
Bên cạnh đó, xuyên suốt trong Nghị
định số 95/2013/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo
hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam
7 Điều 13 Bộ luật Dân sự năm 2015.
8 Điều 5 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Nghị định số
95/2013/NĐ-CP).
9 Điều 6 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP
10 Điều 14 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và
Nghị định số 88/2015/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 7/10/2015 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 95 cũng quy định
việc xử phạt tiền và áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả đối với các hành vi có
dấu hiệu của lao động cưỡng bức, ví dụ như:
vi phạm quy định về giao kết hợp đồng lao
động8, vi phạm quy định về thử việc9, vi
phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi10...
Về chế tài hình sự, BLHS năm 2015
quy định Tội cưỡng bức lao động tại Điều
297. Trong đó quy định rõ tùy theo tính
chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi mà
việc phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ
hoặc phạt tù được áp dụng đối với người
nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao
động. Ngoài ra, người phạm tội có thể bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến
05 năm. Bên cạnh đó, chế tài hình sự cũng
được áp dụng đối với một số trường hợp
cưỡng bức lao động nếu có các dấu hiệu như
giam giữ người trái pháp luật, cưỡng ép bán
dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em...
So sánh quy định về chế tài đối với
cưỡng bức lao động của pháp luật quốc tế
với pháp luật Việt Nam có nhiều điểm tương
đồng về việc thực hiện các chế tài này. Tuy
nhiên, có một số hành vi cưỡng bức lao
động theo tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế
như cưỡng bức lao động bằng việc sử dụng
các biện pháp đe dọa tài chính, cưỡng bức
lao động bằng việc sử dụng các biện pháp
đe dọa về mặt tâm lý... vẫn chưa được quy
định trong pháp luật Việt Nam và có chế tài
xử phạt thích đáng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 4(380) T2/2019
5. Một số kiến nghị
Để công tác đấu tranh phòng ngừa và
trấn áp tội phạm cưỡng bức lao động được
thực hiện tốt trong thời gian tới, chúng ta
phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện,
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và làm cơ sở
pháp lý cho công tác này được thực thi có
hiệu quả. Theo đó, chúng ta cần tiến hành
nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật theo hướng: hoàn thiện các văn
bản pháp luật trong nước và tăng cường hợp
tác quốc tế (thông qua việc ký kết điều ước
quốc tế, tham gia các hội nghị, diễn đàn khu
vực và thế giới về vấn đề đấu tranh chống
lao động cưỡng bức).
Trước hết, pháp luật Việt Nam cần có
một định nghĩa đầy đủ và chính xác về lao
động cưỡng bức và các hình thức lao động
cưỡng bức cũng như các hình thức lao động
không được coi là cưỡng bức. Để đấu tranh,
hạn chế và xoá bỏ lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc, vấn đề then chốt là chúng ta phải
nhận diện được hành vi này thông qua các
quy định cụ thể, nhất quán của pháp luật về
định nghĩa lao động cưỡng bức cũng như
các hình thức cưỡng bức hoặc bắt buộc lao
động trong bối cảnh quan hệ lao động của
nền kinh tế thị trường và mang tính đặc thù
ở Việt Nam. Thực tế, cách hiểu và những
biểu hiện của lao động cưỡng bức ở mỗi một
khu vực địa lý, mỗi điều kiện kinh tế - xã
hội khác nhau của các quốc gia trên thế giới
lại có những đặc thù khác nhau. Nếu thiếu
những quy định này sẽ gây khó khăn cho
các chủ thể liên quan trong việc nhận diện,
phát hiện hành vi lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc trên thực tế, từ đó khó có thể giúp
họ phòng tránh chúng, hay giúp các nạn
nhân tố cáo các hành vi cưỡng bức lao động,
đồng thời giúp cơ quan có thẩm quyền xử lý
chúng một cách hiệu quả.
Cụ thể, cần đề xuất định nghĩa và quy
định về danh mục các hình thức được coi là
lao động cưỡng bức và bị pháp luật nghiêm
cấm. Đối với định nghĩa về lao động cưỡng
bức, cần bổ sung và làm rõ hơn khái niệm
lao động cưỡng bức quy định tại BLLĐ năm
2012 mà hiện có nội hàm hẹp hơn quy định
của Công ước số 29. Muốn vậy, cần thay đổi
cách thức định nghĩa lao động cưỡng bức từ
việc căn cứ vào tính hợp pháp của công việc
như hiện nay sang căn cứ theo tính chất của
mối quan hệ giữa người thực hiện công việc
và người hưởng lợi từ công việc như cách
tiếp cận của Công ước số 29.
Đối với danh mục các hình thức được
coi là lao động cưỡng bức, pháp luật cần đặc
biệt nghiêm cấm hình thức cò mồi, trung
gian lao động, bắt ép người lao động đặt
cọc, thế chấp hoặc chi trả tiền, tài sản vượt
quá mức pháp luật cho phép để được đi xuất
khẩu lao động, tổ chức đưa người qua biên
giới nhằm mục đích lao động mà không có
giấy phép lao động Cần bổ sung quy định
nghiêm cấm sử dụng lao động cưỡng bức:
Thứ hai, về thời gian làm việc, BLLĐ
năm 2012 đã có những quy định chặt chẽ về
giờ làm thêm của người lao động để tránh
tình trạng bóc lột sức lao động, cưỡng bức
lao động. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng lao
động làm thêm giờ của doanh nghiệp là rất
lớn, điều đó dẫn đến một thực tế là nhiều
doanh nghiệp huy động lao động làm thêm
quá số giờ quy định mà không có sự thoả
thuận với người lao động, hoặc nếu người
lao động không đồng ý sẽ bị đe doạ xử lý kỷ
luật. Trong khi đó, giới hạn của thời giờ làm
thêm vẫn có thể mở rộng hơn nữa, trên phạm
vi đồng đều hơn nhưng vẫn nằm trong giới
hạn cho phép để tránh và hạn chế tai nạn lao
động cũng như đảm bảo được sức khoẻ và
sự tái tạo sức lao động cho người lao động.
Qua đó, nhu cầu về huy động lao động làm
thêm giờ của doanh nghiệp được đáp ứng,
cũng là cách thức chúng ta hạn chế và chấm
dứt hình thức lao động cưỡng bức liên quan
đến vấn đề thời giờ làm thêm. Ví dụ như đối
với một số ngành nghề với đặc thù công việc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 4(380) T2/2019
cần phải huy động làm thêm giờ theo mùa
vụ như dệt may, da giầy, chế biến thuỷ hải
sản pháp luật cần có những quy định linh
hoạt, dựa trên sự thoả thuận thống nhất giữa
người sử dụng lao động và người lao động.
Thứ ba, về việc bổ sung, điều chỉnh
các quy định pháp luật đối với lao động nước
ngoài tại Việt Nam. Trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) và Cộng đồng ASEAN, căn
cứ vào thực tế lao động nước ngoài tại Việt
Nam thì việc dần dần phải loại bỏ các rào
cản, tiến tới mở cửa thị trường lao động là xu
hướng không thể tránh khỏi. Chính sách đối
với người lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam cần được đặt trong chiến lược tổng
thể phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Một
mặt, cần có cơ chế khuyến khích, chào đón
những nhân sự có trình độ cao gia nhập thị
trường lao động Việt Nam phục vụ mục tiêu
hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, cần hình
thành một “bộ lọc tốt” để những lao động phổ
thông, chất lượng thấp của nước ngoài không
thể thẩm thấu vào thị trường nội địa. Đối với
việc cấp giấy phép lao động cho người nước
ngoài làm việc tại Việt Nam cần sửa đổi, bổ
sung quy định cấp giấy phép đối với lao động
nước ngoài làm việc có thời hạn dưới 3 tháng
để đảm bảo quản lý và giám sát được đội ngũ
lao động này, tránh để xảy ra tình trạng cưỡng
bức lao động phát sinh.
Thứ tư, cần sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện các quy định pháp luật về lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Các quy
định hiện nay về hợp đồng, vấn đề chi phí
môi giới, dịch vụ, tiền dịch vụ mà doanh
nghiệp xuất khẩu lao động thoả thuận với
người lao động cần sửa đổi theo hướng chặt
chẽ và cụ thể hơn. Bên cạnh đó, cần bổ sung
quy định để quản lý hình thức liên kết giữa
doanh nghiệp xuất khẩu lao động và cá nhân
hoặc tổ chức trực tiếp tuyển lao động để đảm
bảo nghĩa vụ pháp lý của các cá nhân, doanh
nghiệp và tổ chức này, để minh bạch hóa
hoạt động xuất khẩu lao động. Đặc biệt cần
có chế tài xử phạt đủ mạnh đối với những
doanh nghiệp xuất khẩu lao động vi phạm
pháp luật. Pháp luật hiện nay chỉ quy định
duy nhất trường hợp người lao động được
bồi thường thiệt hại do doanh nghiệp xuất
khẩu lao động gây ra. Thực tế, trường hợp
người lao động bị tai nạn lao động, bị phá
hợp đồng... do lỗi của phía sử dụng lao động
nước ngoài cũng cần quy định chế tài xử
phạt cụ thể, nghiêm minh. Bên cạnh đó, để
đảm bảo vai trò của doanh nghiệp trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài,
cần quy định doanh nghiệp hoạt động dịch
vụ xuất khẩu lao động ký quỹ thế chấp để
khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng đến quyền lợi
người lao động, Chính phủ sẽ sử dụng quỹ
này để hỗ trợ quyền lợi cho người lao động.
Thứ năm, cần tiến hành rà soát, sửa
đổi một số quy định của pháp luật lao động
nói chung và BLLĐ năm 2012 nói riêng để
ngăn ngừa khả năng lợi dụng các quy định
đó để cưỡng bức lao động, cụ thể như quy
định về quyền tạm điều chuyển người lao
động làm công việc khác (Điều 31), cho
thuê lại lao động (các Điều từ 53-58).., đồng
thời ban hành Nghị định mới hoặc sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày
12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số nội dung của
BLLĐ năm 2012 theo hướng cụ thể hoá các
quy định về liên quan đến lao động cưỡng
bức hoặc lao động bắt buộc trong BLLĐ
năm 2012.
Thứ sáu, cần có những quy định về
điều kiện đảm bảo cho hoạt động của tổ
chức công đoàn một cách hiệu quả và có
cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn khi họ
bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động
nói chung, trong đấu tranh với hiện tượng
cưỡng bức lao động đối với người lao động
nói riêng. Điều đó không chỉ góp phần hoàn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 4(380) T2/2019
thiện thêm cơ chế ba bên trong quan hệ lao
động mà còn để tránh tình trạng phân biệt
đối xử đã xảy ra trong thực tiễn với chính
cán bộ công đoàn dưới góc độ là một trong
những biểu hiện về lao động cưỡng bức
hoặc bắt buộc vì lý do tham gia hoạt động
công đoàn.
Thứ bảy, cần sửa đổi, bổ sung các quy
định về thanh tra, kiểm tra và giám sát dối
với việc sử dụng lao động trong các trường
giáo dưỡng, các cơ sở cai nghiện bắt buộc và
trại giam. Việc tiến hành thanh tra, kiểm tra
và giám sát này cần có sự phối kết hợp của
nhiều cơ quan chức năng. Triển khai nghiên
cứu xây dựng cơ chế phù hợp đối với việc
đưa người nghiện ma tuý, vào các cơ sở cai
nghiện bắt buộc hoặc đưa người chưa thành
niên vào trường giáo dưỡng. Thực tiễn này
của Việt Nam trong suốt thời gian qua đã
gặp nhiều phản ứng từ phía các tổ chức và
các nhà hoạt động nhân quyền quốc tế.
Thứ tám, hoàn thiện hơn nữa quy định
trong lĩnh vực hình sự đối với các hành vi
cưỡng bức lao động. ILO đã khuyến nghị
Việt Nam nghiên cứu, xác định các hành vi
liên quan đến cưỡng bức lao động. Thực tế,
trước đây tại Việt Nam nếu có hành vi cưỡng
bức lao động thì chủ yếu xử phạt hành chính
hoặc xử lý hình sự bằng các tội danh khác
như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giam giữ
người trái pháp luật, mua bán phụ nữ, mua
bán trẻ em mà chưa có tội phạm nào cụ thể
về cưỡng bức lao động. Khắc phục hạn chế
này, BLHS sửa đổi năm 2015 lần đầu tiên đã
có tội danh riêng biệt về cưỡng bức lao động
tại Điều 297 - Tội cưỡng bức lao động:
Tuy nhiên, quy định chưa tương xứng
với mức độ nguy hiểm của hành vi. Tội cố ý
gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác thì tỷ lệ tổn thương cơ thể
là từ 11% đến 30 % nhưng đối với tội về
cưỡng bức lao động tỷ lệ tổn thương cơ thể
lại là từ 31%. Hậu quả cả hành vi cưỡng bức
lao động không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe
của nạn nhân mà trong nhiều trường hợp còn
ảnh hưởng đến tinh thần đối với nạn nhân.
Ngoài ra, cưỡng bức lao động còn
được hình sự hóa trong trường hợp mua bán
người nhằm mục đích cưỡng bức lao động.
Lúc này hành vi mua bán người đã hoàn
thành kể từ khi bên tuyển mộ tiếp nhận,
chuyển giao người. Sau khi nạn nhân bị bán
cho bên tuyển mộ họ có thể bị buộc lao động
nặng nhọc, độc hại, vắt kiệt sức lao động
Mua bán người vì mục đích cưỡng
bức lao động không được quy định trong tội
Cưỡng bức lao động. Hiện nay, một người
thực hiện hành vi mua bán người vì mục
đích cưỡng bức lao động thì sẽ bị xử lý về
tội danh mua bán người, mà không phải tội
cưỡng bức lao động. Để tránh nhầm lẫn giữa
hai tội danh này cần thiết phải có văn bản
hướng dẫn.
Thứ chín, hoàn thiện quy định về thi
hành án hình sự đối với vấn đề cưỡng bức
lao động. So với Pháp lệnh Thi hành án hình
sự năm 2007, Luật Thi hành án hình sự năm
2010 quy định về lao động phạm nhân tại
các trại giam có nhiều hạn chế. Pháp lệnh thi
hành án hình sự năm 2007 quy định cấm sử
dụng lao động là tù nhân trong các cơ sở tư
nhân; bảo đảm thời giờ, điều kiện làm việc,
vệ sinh, trả công nhưng Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 bỏ quy định cấm sử dụng
lao động là tù nhân trong các cơ sở tư nhân
và bỏ ngỏ vấn đề này. Điều này không những
đi ngược lại xu hướng của thế giới mà còn
dẫn đến việc vi phạm Công ước 29 của ILO
mà Việt Nam đã tham gia. Nhằm nâng cao
hiệu quả phòng chống lao động cưỡng bức
đối với phạm nhân, Luật Thi hành án hình
sự cần có một chương riêng quy định về cơ
chế giám sát kiểm tra nội bộ và cơ chế thanh
tra, kiểm tra giám sát từ bên ngoài■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 4(380) T2/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- muc_do_tuong_thich_cua_phap_luat_viet_nam_voi_cac_tieu_chuan.pdf