Tài trợ truy đòi toàn bộ : theo phương thức này khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu hàng hoá, CTBL cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
- Tài trợ truy đòi hạn chế : theo phương thức này trách nhiệm của CTBL đối với khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mừng nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã thoả thuận giữa ngân hàng và CTBL.
- Tài trợ miễn truy đòi : theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, CTBL không còn chịu trách nhiệm cho việc các khoản nợ có được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro cao nên chi phí tài trợ thường được ngân hàng tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được lựa chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những CTBL có uy tín mới được áp dụng phương thức này.
78 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1096 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch I vẫn chưa chú trọng đến loại sản phẩm này, xét về lâu dài, đây có thể là sản phẩm đem lại nhiều doanh thu cho ngân hàng. Đối với sản phẩm cho vay du học, vẫn còn chiếm tỉ trọng thấp dưới 5%, dư nợ đối với loại sản phẩm này chưa nhiều, do đây là sản phẩm mới, chưa được quan tâm đúng mức, Sở giao dịch vẫn chưa có hướng phát triển hợp lí cho loại sản phẩm đang phổ biến trong những năm gần đây, do thủ tục vẫn còn rườm rà, chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở việc cho vay để chứng minh năng lực tài chính và thanh toán tiền học phí. Còn việc cho vay để thanh toán tiền sinh hoạt phí chưa được thực hiện nhiều.
Qua số liệu trên cũng thấy rằng, sản phẩm của Sở giao dịch I vẫn chưa nhiều, chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày một cao của xã hội.
Biểu 2.2. Cơ cấu dư nợ CVTD theo mục đích tài trợ
* Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo thời hạn
Bảng 2.7.Cơ cấu dư nợ CVTD theo thời hạn
(Đơn vị : Tỷ đồng)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Dư nợ
38
100%
43
100%
55
100%
Ngắn hạn
18,6
48,9%
21
48,8%
18,1
33%
Trung hạn
17,3
45,6%
18,8
43,7%
36,9
67%
Dài hạn
2,1
5,5%
3,2
7,5%
0
0%
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005,2006,2007 của Sở giao dịch I)
Về mặt thời gian, có thể nói các sản phẩm CVTD tại Sở giao dịch I thường là các nhu cầu vay vốn ngắn hạn và trung hạn trên 90%. Tỷ lệ cho vay dài hạn chiếm tỷ lệ nhỏ. Sở dĩ như vậy bởi các khoản vay vốn ngắn hạn thường dùng để đáp ứng các mục đích mua nhà, sửa chữa nhà. Tuy nhiên trong năm 2007, tỉ trọng cho vay trung hạn tăng nhanh, gấp 2 lần so với vay ngắn hạn, còn cho vay dài hạn giảm mạnh, từ 7,5 % trong năm 2006 xuống còn 0% năm 2007. Nguyên nhân là do Sở giao dịch tập trung chủ yếu cho vay ngắn hạn và trung hạn,với thời gian < 5 năm, thứ nhất là dễ kiểm soát hơn so với cho vay dài hạn, thứ hai là do sản phẩm của Sở giao dịch I vẫn chủ yếu tập trung vào sản phẩm cho vay để mua , xây dựng sửa chữa nhà ở, có sổ đỏ để thế chấp, dễ dàng hơn trong việc thu hồi nợ khi đến hạn.
Biểu 2.3. Cơ cấu dư nợ CVTD theo thời gian
*Cho vay có bảo đảm và không có bảo đảm
Trong hoạt động CVTD, Sở giao dịch I cho vay có bảo đảm là chủ yếu, đó là cho vay có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay ngoài việc dựa vào nguồn trả nợ, uy tín của bản thân khách hàng thì tài sản đảm bảo cũng là một yếu tố thường được nhắc đến.
Nhìn chung dư nợ cho vay có bảo đảm cao, chiếm gần như 100% tổng dư nợ CVTD. Thông thường việc cho vay không có bảo đảm chỉ được áp dụng đối với phương án vay vốn dành cho CBCNV có nguồn trả nợ từ lương hàng tháng.
2.3.2.2 Nợ quá hạn
Hoạt động CVTD chứa đựng rất nhiều rủi ro, vì thế phòng khách hàng cá nhân kết hợp với các phòng ban khác luôn cố gắng hoàn thành tốt khâu thẩm định, quản lý món vay và thu hồi nợ khi đến hạn. Hầu hết các món vay tiêu dùng của Sở giao dịch có chất lượng tốt, một số trường hợp còn trả nợ trước hạn. Dư nợ quá hạn của từ hoạt động CVTD trong ba năm qua là rất nhỏ so với tổng dư nợ quá hạn, và có chiều hướng giảm, đặc biệt năm 2007 không có dư nợ quá hạn, so với năm 2005 và 2006, tỉ lệ dư nợ quá hạn vẫn còn chiếm tỉ trọng cao, trên 5%, nhưng đến năm 2007 dư nợ quá hạn từ cho vay nói chung và CVTD nói riêng đã giảm đáng kể. Nguyên nhân là do Sở giao dịch I đã thực hiện tốt quá trình thu hồi nợ quá hạn, có được kết quả này là do sự nỗ lực không ngừng từ phía CBTD của ngân hàng đã thực hiện tốt quá trình kiểm tra, kiểm soát các món vay, xử lý các món vay khi đến hạn.
Bảng 2.8 .Tình hình dư nợ quá hạn các năm 2005-2007
(Đơn vị : Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Dư nợ quá hạn từ cho vay
7,2
1,5
1,1
Dư nợ quá hạn từ CVTD
0,4
0,08
0
Tỷ trọng (%)
5,5
5,3
0
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005,2006,2007 của Sở giao dịch I)
2.3.2.3 Lợi nhuận từ CVTD
Lợi nhuận từ hoạt động CVTD chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng lợi nhuận nhưng có xu hướng tăng về cả số tuyệt đối lẫn tương đối qua các năm, năm 2007 đạt 5,34 tỷ chiếm 7,39%, cho thấy hoạt động CVTD ngày càng phát huy hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sở dĩ như vậy vì khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cao và dư nợ ổn định hơn việc cho vay đối với phương án cho vay kinh doanh của các tổ chức kinh tế nên thu lãi từ CVTD ngày càng tăng trong tổng thu lãi cho vay.
Bảng 2.9. Lợi nhuận CVTD trong tổng thu lãi cho vay
( Đơn vị : Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
năm 2007
Lợi nhuận từ CV
58,6
69,33
72,2
Lợi nhuận từ CVTD
3,18
4,32
5,34
Tỷ trọng (%)
5,42
6,23
7,39
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I-NHCT)
Biểu đồ 2.4. Lợi nhuận từ CVTD các năm 2005-2007
(Đơn vị: Tỷ đồng)
2.3.2.4 Vòng quay vốn CVTD
Vòng quay vốn CVTD phản ánh số vòng chu chuyển vốn CVTD. Vòng quay vốn CVTD của Sở giao dịch I-NHCT được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.10. Vòng quay vốn CVTD
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh số thu nợ CVTD
42
56
74
Dư nợ CVTD bình quân
38
43
55
Vòng quay vốn CVTD
1,1
1,3
1,34
(Nguồn:báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004, 2005, 2006 Sở giao dịch I-NHCT)
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy vòng quay vốn tín dụng tiêu dùng năm sau cao hơn năm trước. Năm 2007, doanh số thu nợ đạt 74 tỷ, tăng 32% so với năm 2006, dư nợ bình quân CVTD lại giảm,điều này chứng tỏ công tác thu hồi nợ đã được thực hiện tốt hơn, vốn được luân chuyển nhanh hơn, từ đó ngân hàng đáp ứng được nhiều vốn hơn cho thị trường. Chỉ số vòng quay vốn CVTD qua các năm có xu hướng tăng và ngày một nâng cao cho thấy vốn CVTD đêm cho vay các năm đều thu hồi được, hệ số này càng cao phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
2.3.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động CVTD tại Sở giao dịch I – NHCT
2.3.4.1 Những kết quả đạt được
Qua những số liệu trên đây, chúng ta thấy rằng chất lượng CVTD của Sở giao dịch I- NHCT ngày càng được nâng cao. Hoạt động CVTD đã có sự tăng trưởng nhanh và vững chắc, đóng góp vào doanh thu của ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận. Sở giao dịch đã đạt được một số kết quả sau:
* Doanh số
Sự tăng trưởng về doanh số đều qua các năm cho thấy nhu cầu về CVTD ngày càng tăng trong xã hội, đồng thời đã đóng góp vào sự gia tăng về doanh số cho vay nói riêng, cũng như tổng tài sản nói chung. Từ 60 tỷ ( năm 2005) tăng lên 93 tỷ ( năm 2007), tăng 55% lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng của hoạt động cho vay nói chung chỉ là 42%, điều này phản ánh nhu cầu của người dân về vay tiêu dùng ngày một nhiều, cũng như sự nỗ lực không ngừng của ban lãnh đạo cũng như CBCNV của Sở trong việc tăng doanh số cho vay. Sản phẩm CVTD chủ yếu mà Sở cung cấp cho khách hàng là cho vay mua nhà, sửa chữa, xây dựng nhà ở, chiếm 2/3 tỷ trọng CVTD, do nền kinh tế phát triển, người dân có nhu cầu trong việc mua bất động sản, song giá trị của một bất động sản không nhỏ, vì vậy cần vay mượn để trang trải kinh phí. Sản phẩm cho vay mua ô tô cũng có sự tăng trưởng đều qua các năm, trong những năm gần đây, nhu cầu về mua ô tô đang tăng mạnh trong dân cư, đặc biệt là tầng lớp có thu nhập cao và ổn định. Đối với sản phẩm cho vay du học, cũng có sự tăng trưởng đều, tuy nhiên đây là sản phẩm mới, nên vẫn còn chiếm tỉ trọng thấp.
* Mức độ rủi ro
Trong quá trình phát triển thị trường CVTD, sự tăng trưởng về qui mô cho vay, lợi nhuận , các dịch vụ bán chéo sản phẩm , CVTD cũng không năm ngoài qui luật kinh doanh tiền tệ tín dụng là luôn đi kèm với rủi ro phát sinh. Tuy nhiên, Sở giao dịch I đã làm tốt được quá trình thu hồi công nợ nên tỷ lệ nợ quá hạn trong lĩnh vực CVTD nói riêng và cho vay nói chung đã giảm đáng kể. Từ tỉ lệ nợ quá hạn trên 5% trong năm 2005 và năm 2006, đến năm 2007 là 0%. Đây là kết quả của những cố gắng vượt bậc từ nhân viên và ban lãnh đạo của Ngân hàng, nó đã minh chứng cho khả năng và trình độ của họ trong việc triển khai hoạt động CVTD.
* Thu nhập đem lại cho Sở giao dịch I
Hiệu quả của việc thực hiện CVTD cũng khá cao, thu nhập từ hoạt động CVTD tăng trưởng đều qua các năm. Lợi nhuận từ 3,18 tỷ ( năm 2005) tăng lên 5,34 tỷ ( năm 2007).
Như vậy, mặc dù tỷ trọng của CVTD trên tổng doanh số cho vay và tổng lợi nhuận của ngân hàng mới chỉ đạt dưới 10% nhưng CVTD vẫn thể hiện được tính ưu việt của một loại sản phẩm kinh doanh đem lại lợi ích kinh tế cao.
Tóm lại, Sở giao dịch I đã đạt được những kết quả khả quan trong việc nâng cao chất lượng CVTD nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung.
2.3.4.2 Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế tồn tại
CVTD của Sở giao dịch I – NHCT đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế.
Thứ nhất, chất lượng CVTD của Sở giao dịch I còn thấp. Tuy có sự tăng trưởng đều nhưng tỷ trọng doanh số và dư nợ CVTD so với tổng hoạt động tín dụng vẫn ở mức thấp, CVTD chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng lên trong dân cư. Doanh số cho vay chủ yếu tập trung vào sản phẩm mua nhà , xây dựng và sửa chữa nhà ở, xong vẫn chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Trong năm 2005 và 2006, tỉ lệ quá hạn vẫn còn ở mức trên 5% , là mức khá cao, tuy năm 2007 có giảm xuống còn 0%, song đây mới chỉ là kết quả đạt được trong 1 năm. Lợi nhuận từ hoạt động CVTD còn thấp, chiếm dưới 10% lợi nhuận của Sở.
Thứ hai, trong khi những hàng hóa có độ thỏa mãn ngày càng cao, thị trường ngày càng phong phú thì danh mục sản phẩm CVTD lại chưa đa dạng, phong phú, dịch vụ CVTD chưa bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các hình thức CVTD mà ngân hàng cung cấp như tài trợ mua nhà đất, ô tô, du học đều là những dịch vụ truyền thống đó quá phổ biến. Danh mục sản phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm cũng chưa cao, chưa tạo ra sự khác biệt để hấp dẫn khách hàng. Sản phẩm của ngân hàng vẫn chỉ dừng lại ở mức chung chung, chưa tạo được đặc tính riêng cho ngân hàng, vì vậy số lượng khách hàng đến với ngân hàng chưa cao. Hơn nữa số sản phẩm còn hạn chế, các sản phẩm của ngân hàng chỉ đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng cơ bản, ngân hàng chưa tạo được cho mình những sản phẩm riêng biệt, nhiều đối tượng cho vay vẫn còn bị hạn chế về thời gian và khoản vay.
Thứ ba, những khó khăn khi phải đối mặt là môi trường pháp lý chưa hoàn thiện của Việt Nam. Các qui định pháp luật hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về CVTD . Những quy định còn nhiều vướng mắc, hạn chế, gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc triển khai hoạt động CVTD. Đặc biệt là những thủ tục pháp lý liên quan đến đảm bảo tiền vay, giao dịch bảo đảm vẫn chưa được đồng bộ nên gây nhiều khó khăn trong quá trình cho vay của ngân hàng. Ngoài ra, công tác marketing còn chưa mạnh, chưa chuyên nghiệp.Việc thực hiện các hoạt động tiếp thị, quảng cáo chưa đem lại hiệu quả lớn cho hoạt động CVTD của ngân hàng.
* Nguyên nhân hạn chế :
Những hạn chế còn tồn tại ở Sở giao dịch I trong hoạt động CVTD xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Bao gồm :
- Các nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng bao gồm:
Thứ nhất, chính sách CVTD của Sở giao dịch I chưa thực sự thông thoáng và đồng nhất . Đối tượng vay tiêu dùng còn hạn chế : Hiện tạo hầu như các sản phẩm CVTD của Sở giao dịch I đang bị giới hạn ở những khách hàng có hộ khẩu thường trú tại Hà nội. Trong khi thực tế số người từ các tỉnh thành phố khác về làm ăn sinh sống tại Hà nội rất lớn. Chính những người này mới có nhu cầu vay vốn để trang trải các chi phí sinh hoạt cũng như đáp ứng các nhu cầu nhà ở. Ngoài ra, tài sản đảm bảo là nhà đất được qui định là phải có sổ đỏ. Do vậy rất nhiều khách hàng có khả năng trả nợ, nhân thân tốt nhưng tài sản đảm bảo chưa đủ giấy tờ pháp lý cũng bị loại khỏi danh sách những người được vay vốn. Sở giao dịch I vẫn còn thận trọng trong việc cung ứng CVTD dài hạn mặc dù số lượng người dân mong muốn sử dụng dịch vụ này ngày càng đông. Quy mô và hạn mức các món cho vay dài hạn thường bị hạn chế để đảm bảo an toàn, tránh nguy cơ mất vốn. Vì thế, khả năng sinh lời từ hoạt động CVTD bị giảm bớt.
Thứ hai, Sở giao dịch I vẫn còn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của NHCT và các cơ quan quản lý khác, đồng thời nhận được sự bảo trợ của NHNN trên một số lĩnh vực, nguyên nhân này nhiều khi làm ngân hàng kém chủ động, nhạy bén trên thị trường, nhất là trong hoạt động CVTD - một hoạt động mới phát triển và chịu nhiều áp lực cạnh tranh.
Thứ ba, nguồn nhân lực của Sở giao dịch I vẫn còn nhiều hạn chế, kỹ năng bán hàng của cán bộ tín dụng còn yếu, mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng số cán bộ này vẫn chưa được đào tạo một cách đầy đủ về kỹ năng bán hàng, nghiệp vụ marketing nên khả năng tiếp cận khách hàng .Công tác kiểm tra sau khi giải ngân của cán bộ tín dụng chưa được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên, chỉ khi nào khách hàng có xu hướng chậm trả hoặc có áp lực kiểm tra từ phía kiểm soát nội bộ thì mới hoàn thành. Vì vậy, CBTD không phát hiện được những nhu cầu mới phát sinh cũng như những biểu hiện về một khoản nợ xấu từ giai đoạn đầu.
Thứ tư, thời hạn làm thủ tục cho vay còn dài, trong khi các ngân hàng khác chỉ tính bằng giờ thì thời gian làm thủ tục cho vay của Sở tính theo ngày. Đây cũng là điểm hạn chế, mà Sở cần khắc phục, để thu hút nhiều khách hàng hơn, cũng như tăng chất lượng CVTD.
Các nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, nguyên nhân từ phía khách hàng. Những khách hàng có trình độ và tài chính lành mạnh sẽ đòi hỏi cao về chất lượng dịch vụ. Nếu CBTD không có kinh nghiệm thẩm định và sự phối hợp giữa các bộ phận không tốt rất dễ làm khách hàng phật lòng, nổi nóng và có phản ứng tiêu cực. Trong khi đó lại có nhiều khách hàng không hiểu thủ tục ngân hàng nên cho rằng thủ tục vay ngân hàng rất rườm rà phức tạp . Họ mang tâm lí e ngại khi đến ngân hàng nên sẵn sàng vay tư nhân với lãi suất cao gấp nhiều lần nhưng đơn giản trong thủ tục.
Thứ hai, môi trường pháp lý còn nhiều bất cập. Khả năng quản lý nhân khẩu của chính quyền địa phương tại Việt Nam còn yếu nên mặc dù mỗi cá nhân đều có hộ khẩu thường trú tại một địa chỉ nhất định nhưng khi di cư đến Hà Nội để làm ăn sinh sống thì lại hầu như không chịu sự quản lý của đơn vị nào. Việc này đã gây rất nhiều khó khăn cho Sở giao dịch khi muôn cho vay đối với đối tượng này. Bên cạnh đó, tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở trên địa bàn Hà nội còn chậm.
Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thói quen trả lương bằng tiền mặt, rất ít các doanh nghiệp trả tiền cho nhân viên thông qua tài khoản ngân hàng. Đây là một hạn chế rất lớn để phát triển các sản phẩm CVTD sử dụng nguồn trả nợ từ lương. Nhiều người Việt Nam có thói quen tích luỹ đủ thì mới dùng, nếu thiếu thì trước hết là vay người thân, sau đó mới nghĩ đến việc vay ngân hàng, vì thủ tục rườm rà, hơn nữa, phải có tài sản thế chấp, khi không trả nợ được thì sẽ bị phát mại tài sản đảm bảo.
Tóm lại, trong chương 2 khoá luận đã tiến hành phân tích đánh giá thực trạng CVTD tại thị trường Việt Nam, đặc biệt là đi sâu nghiên cứu đánh giá thực trạng chất lượng CVTD tại Sở giao dịch I – NHCT. Từ đó đánh giá được kết quả đạt được, cũng như hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong CVTD. Từ đó, đinh hướng để khoá luận xây dựng các giải pháp trong chương 3 nhằm nâng cao chất lượng CVTD tại Sở giao dịch trong thời gian tới.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CVTD TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NHCT
3.1 CVTD – ĐOẠN THỊ TRƯỜNG TIỀM NĂNG CỦA NHTM
Tuy mới được quan tâm trong những năm gần đây, nhưng có thể thấy CVTD đang trở thành xu hướng tất yếu của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trên thế giới, các ngân hàng chủ yếu thực hiện CVTD, còn ở Việt Nam thì chỉ vài năm gần đây các NHTM mới bắt đầu chú trọng đến, nhưng có thể nhận thấy đây là đoạn thị trường tiềm năng của các NHTM, được thể hiện qua những số liệu sau :
* Sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã có bước tăng trưởng rõ rệt, theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, về sơ bộ cho thấy GDP 2007 là 1143442 tỷ đổng tăng 8,48% so với 2006, tăng trưởng kinh tế của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực (Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á-ADB thì năm 2007 kinh tế Trung Quốc tăng 11,2%; Việt Nam tăng 8,3%; Xin-ga-po tăng 7,5%; Phi-li-pin tăng 6,6%; In-đô-nê-xi-a tăng 6,2%; Ma-lai-xi-a tăng 5,6%; Thái Lan tăng 4%). Điều này cho thấy, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự phát triển của xã hội, đời sống người dân được cải thiện, do thu nhập tăng.
* Thu nhập của người dân
Cũng theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê năm 2006, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng chung cả nước theo giá hiện hành đạt 636.000 đồng, tăng 31,3% so với năm 2004. Thu nhập ở khu vực thành thị và nông thôn đều tăng. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt 1.058.000 đồng, tăng 29,8%; khu vực nông thôn đạt 506.000 đồng, tăng 33,8% so với năm 2004 và tăng nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nông thôn. Chênh lệch thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2002; 2004, 2006 của khu vực thành thị so với khu vực nông thôn tương ứng các năm là: 2,26; 2,15 và 2,09 lần và có xu hướng thu hẹp dần.
* Sự phát triển của dân số Việt Nam
CVTD là một thị trường mới phát triển trong những năm gần đây, chủ yếu để tập trung phục vụ đối tượng có thu nhập, thường là những người trong độ tuổi lao động. Dân số Việt Nam hiện nay là khoảng 85 triệu dân, trong đó có khoảng 60% dân số thuộc độ tuổi lao động, có thể thấy rõ Việt Nam là một thị trường tiềm năng cho rất nhiều ngành kinh tế, trong đó có CVTD. Theo dự báo, năm 2010 dân số Việt Nam sẽ đứng thứ 4 trong khu vực châu Á sau Trung Quốc và vượt qua Nhật Bản.
* Nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của người dân ngày càng cao
Công ty dịch vụ nghiên cứu toàn cầu McKinsey vừa công bố một báo cáo về thái độ, quan điểm của người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, đối với các dịch vụ ngân hàng. Báo cáo này là một phần nghiên cứu về thị trường ngân hàng bán lẻ được thực hiện tại 11 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan... với 13.000 khách hàng.
Mặc dù phát triển mạnh trong những năm gần đây, lĩnh vực ngân hàng bán lẻ của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé. Tài sản của các ngân hàng tính đến thời điểm năm 2006 mới chỉ đạt khoảng 75 tỷ USD ( tương đương 123% GDP), trong khi con số này ở Thái Lan là 226 tỷ USD (110%) và ở Malaysia là 302 tỷ USD (195%). Ngoài ra, chỉ chưa đầy 10% dân số của Việt Nam có sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Tuy nhiên, theo ước tính, doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam có thể tăng trưởng lên 25% trong vòng 5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ tăng trưởng cao nhất ở Châu Á. Đây là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, thu nhập của các hộ gia đình tăng lên và mức độ thâm nhập hiện còn thấp của các dịch vụ ngân hàng.
Các chuyên gia của McKinsey cho rằng, những người Việt Nam trong độ tuổi từ 21-29 sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thị trường ngân hàng bán lẻ tại đây. Điều tra cho thấy, những khách hàng có độ tuổi 21-29 sử dụng 2,3 dịch vụ ngân hàng mỗi người, trong khi đối tượng khách hàng lớn tuổi chỉ sử dụng 1,9 dịch vụ. Có 91% số người trong nhóm tuổi này có tài khoản tiết kiệm, so với mức 55% ở nhóm người ở tuổi 30 trở lên. 89% trong số khách hàng trẻ này có thẻ ghi nợ, so với tỷ lệ 40% trong đối tượng tuổi già hơn. Đặc biệt, những người trẻ tuổi ở Việt Nam cũng tỏ ra thích thú hơn với việc vay tiền ngân hàng so với thế hệ đi trước. 45% trong số được hỏi cho rằng, việc vay tiền có thể giúp họ cải thiện phong cách sống, so với 31% số người ở độ tuổi già hơn.
Những con số này cho thấy, tiềm năng của thị trường CVTD là rất lớn, điều này cũng lí giải vì sao, có rất nhiều ngân hàng đã định hướng phát triển thành những ngân hàng bán lẻ như Sacombank, Techcombank... Không chỉ những ngân hàng trong nước, mà các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam cũng đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình trong đoạn thị trường này như ngân hàng ANZ, HSBC... Chính vì vậy, có thể khẳng định, CVTD là đoạn thị trường tiềm năng của NHTM.
3.2 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CVTD CỦA SỞ GIAO DỊCH I – NHCT
Năm 2007 là một năm mà Sở giao dịch I – NHCT gặt hái được nhiều thành công, tuy nhiên đây cũng là năm có nhiều thách thức đối với Sở giao dịch I, để đối mặt với những thách thức đó Sở giao dịch I đã đề ra một số định hướng hoạt động trong thời gian tới:
Đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn, đặc biệt là nguồn tiền gửi dân cư.
Tăng trưởng tín dụng trong tầm kiểm soát, đảm bảo an toàn, hiệu quả,..
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ, nhằm tạo được sự khác biệt của sản phẩm và có tính cạnh tranh cao.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo chuyên sâu theo từng loại nghiệp vụ, trong đó tăng cường đào tạo tại chỗ.
Tiếp tục củng cố và mở rộng mạng lưới kinh doanh. Trang bị đầy đủ phương tiện làm việc phù hợp với từng nghiệp vụ, trên cơ sở tiết kiệm chi phí.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát bảo đảm an toàn mọi mặt hoạt động.
Từ những định hướng chung và nhận thấy CVTD là đoạn thị trường tiềm năng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, Sở giao dịch I đã chú trọng và đẩy mạnh hoạt động CVTD.
Trong năm 2008, mục tiêu của Sở giao dịch I – NHCT là dư nợ cho vay đầu tư tăng 20%, lợi nhuận trên 10%. Nâng cao năng lực thẩm định, kiểm tra, giám sát tín dụng và quản lý rủi ro để đảm bảo an toàn và hiệu quả tiền vay, không phát sinh nợ xấu giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống dưới 1%. Tiếp tục làm việc với các cơ quan chức năng để xử lý thu hồi các khoản nợ tồn đọng cũ.
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CVTD TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NHCT
3.3.1 Xây dựng hệ thống tính điểm tín dụng đối với hoạt động CVTD
Lý luận cơ sở của hệ thống này là Sở giao dịch I có thể định dạng được các yếu tố về tài chính, kinh tế và mục đích của khách hàng để tách riêng các khoản vay loại tốt với loại không tốt thông qua việc quan sát, thu thập và tổng kết từ số đông khách hàng vay nợ từ trước đến nay.
Việc chấm điểm tín dụng được thực hiện theo phương pháp xếp loại và phương pháp so sánh. Cách thức sử dụng là CBTD dựa vào hệ thống tính điểm này để đánh giá về điểm số cho các nhu cầu vay vốn khác nhau từ phía khách hàng. Dựa vào kết quả điểm số, ngân hàng có thể đưa ra quyết định trong việc áp dụng chính sách khách hàng phù hợp. Tuy nhiên, cần phải khẳng định, đây là những chỉ tiêu định lượng, để quản lý khoản vay được hiệu quả hơn, các CBTD cần đề xuất các phương án quản lý đi kèm.
Như vậy, hệ thống tính điểm có những ưu thế sau:
Loại bỏ bớt những đánh giá mang tính chủ quan.
Có thể giải quyết một số lượng lớn yêu cầu đơn xin vay của khách hàng mà không cần nhiều sức người, từ đó giúp giảm chi phí.
Thời gian xét duyệt một khoản vay sẽ nhanh hơn.
So sánh và đánh giá vị thế của phương án vay vốn với mặt bằng chung các khoản vay có tính chất tương tự, giúp cho việc ra quyết định đối với khoản vay được chính xác và khách quan hơn.
Tuy nhiên, hệ thống tính điểm cũng có những hạn chế riêng, nó mang nhiều tính máy móc, không phân biệt được những trường hợp đặc biệt cần đánh giá riêng. Thêm vào đó, chúng ta thấy rằng việc sử dụng hệ thống tính điểm tức là chúng ta đã dùng những thông tin của quá khứ để đánh giá hiện tại và tương lai , cơ sở thông tin để xây dựng hệ thống tính điểm là những số liệu từ quá khứ. Do vậy, sai sót của hệ thống tính điểm có thể mang tính hệ thống. Biện pháp nhằm hạn chế những nhược điểm trên là Sở giao dịch I cần thường xuyên kiểm tra và xem xét lại hệ thống tính điểm để luôn có số liệu linh hoạt, chính xác.
Có nhiều hệ thống tính điểm khác nhau, sau đây là một hệ thống tính điểm áp dụng cho khách hàng vay tiêu dùng. Hệ thống tính điểm cho kết quả chấm điểm như sau :
- Từ 85 – 100 điểm : Khách hàng xếp loại 1
- Từ 70 – 84 điểm : Khách hàng xêp loại 2
- Từ 50 – 69 điểm : Khách hàng xếp loại 3
- Từ 30 – 49 điểm : Khách hàng xếp loại 4
- Dưới 30 điểm : Khách hàng xếp loại 5
Chính sách tín dụng áp dụng cho từng nhóm khách hàng như sau :
- Khách hàng loại 1 : đây là đối tượng khách hàng tiềm năng. Ngoài sản phẩm tín dụng, Sở có thể cung cấp cùng lúc nhiều sản phẩm và dịch vụ đối với khách hàng này : tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các dịch vụ bảo lãnh...
- Khách hàng loại 2 : đây là đối tượng khách hàng có nhiều triển vọng với Sở giao dịch. Các dịch vụ bảo lãnh, tín dụng cần xem xét điều kiện cho vay theo từng phương án cụ thể. Đối với loại khách hàng này, ngân hàng cũng có thể cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác
- Khách hàng loại 3 : với đối tượng khách hàng này, thì áp dụng chính sách đãi ngộ bình thường. Các phương án cho vay cần nghiên cứu kĩ tình hình thực tế tại thời điểm cho vay, điều kiện quản lý khoản vay cần chặt chẽ.
- Khách hàng loại 4 : đối tượng khách hàng này có năng lực tài chính yếu, Sở chỉ cung cấp các sản phẩm : tiền gửi tiết kiệm, thẻ ATM. Các sản phẩm tín dụng chỉ cấp khi phương án cho vay thực sự hiệu quả, nguồn trả nợ rõ ràng, tài sản đảm bảo có tính thanh khoản cao.
- Khách hàng loại 5: Chỉ cung cấp các sản phẩm, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, thẻ ATM .Không cung cấp sác sản phẩm tín dụng, bảo lãnh.
3.3.2 Hoàn thiện qui trình CVTD
Qui trình CVTD là tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng tiêu dùng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể, theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là một quá trình gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Sở giao dịch I nên thiết kế và hoàn thiện qui trình CVTD để quá trình cho vay được tiến hành nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm an toàn cho ngân hàng. tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát bảo đảm an toàn mọi mặt hoạt động. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra định kỳ, đột xuất, phát hiện và chấn chịnh kịp thời những sai sót, nâng cao ý thực chấp hành cơ chế, qui trình nghiệp vụ. Cụ thể là :
* Giảm thời gian thẩm định hồ sơ vay
Hiện nay, các ngân hàng đang đua nhau trong việc giảm thời gian xem xét hồ sơ cho vay đối với khách hàng vay tiêu dùng. Có những ngân hàng phấn đấu thời gian cho vay chỉ còn 8 tiếng, điều này đồng nghĩa với việc, khách hàng không phải chờ đợi lâu để có được khoản vay sau khi đã đáp ứng đủ điều kiện cho vay. Nhu cầu vay vốn của khách hàng là để phục vụ cho nhu cầu cá nhân, mua các sản phẩm tiêu dùng, vì vậy họ rất muốn vay được sớm. Do đó, giảm thời gian thẩm định hồ sơ vay là một giải pháp mà các ngân hàng khác đang áp dụng nhằm lôi kéo khách hàng .
* Tăng cường công tác kiểm tra trong quá trình phát tiền vay
Kiểm tra mục đích, đối tượng vay vốn từng lần xem có phù hợp với mục đích đối tượng vay vốn trong hợp đồng tín dụng hay không. Kiểm tra mức cho vay. Kiểm tra tình hình đảm bảo nợ vay thông qua các tài sản thế chấp với Ngân hàng làm đảm bảo hoặc tư cách của người bảo lãnh tiền vay. Mục đích khi thực hiện công tác kiểm tra này sẽ có tác dụng phát hiện ra những sơ hở, yếu kém của những khâu trước giúp CBTD đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời, hạn chế ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh. Căn cứ vào định hướng của NHCT, chương trình phát triển kinh tế Hà Nội và diễn biến của thị trường để cho vay đúng hướng. Tiếp tục bổ sung tài sản đảm bảo vốn vay, nâng cao năng lực thẩm định, kiểm trả, giám sát tín dụng và quản lí rủi ro để đảm bảo an toàn và hiệu quả tiền vay, không phát sinh nợ xấu.
* Tăng cường kiểm tra sau khi giải ngân:
Kiểm tra sau là một khâu của thực hiện qui trình tín dụng, điều này càng quan trọng đối với CVTD. Do đặc điểm của các món vay tiêu dùng thường phát sinh không thường xuyên, các món vay xảy ra một lần và kéo dài tới vài ba năm, do vậy nên công tác kiểm tra và thăm hỏi khách hàng không được thực hiện thường xuyên. Việc kiểm tra sau khi giải ngân không chỉ nhằm mục đích truyền thống là kiểm tra tính trung thực trong việc sử dụng vốn vay theo đề xuất khi vay mà còn nhằm đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng cũng như phát hiện nhu cầu mới của khách hàng. Mở rộng khách hàng mới bằng việc khai thác khách hàng cũ là một việc nên làm. Đồng thời việc thường xuyên sử thăm hỏi khách hàng sẽ là một kênh thông tin phản hồi rất chính xác về chất lượng và vị thế của sản phẩm . Các thông tin này sẽ giúp cho việc cải thiện chất lượng dịch vụ và làm cơ sở để mở rộng CVTD.
3.3.3 Đa dạng hoá sản phẩm CVTD
Trong điều kiện cạnh tranh kinh doanh ngân hàng ngày càng gay gắt; thực hiện mục tiêu mở rộng hoạt động CVTD là một yêu cầu tất yếu. Điều đó, trước hết thực hiện đa dạng hoá và tăng tính cạnh trang của sản phẩm CVTD
Thứ nhất, triển khai sản phẩm cho vay mua nhà chung cư, nguồn trả nợ là thu nhập hàng tháng, tài sản đảm bảo là chính ngôi nhà hình thành từ vốn vay. Đối tượng này hiện nay là rất lớn. Tuy nhiên, triển khai sản phẩm này trong thực tế còn gặp khá nhiều khó khăn, như giá nhà chung cư, thời hạn cho vay, nguồn thu nợ do vậy khi triển khai sản phẩm này, bước đầu nên làm thử nghiệm một số đối tượng; sau đó sơ tổng kết rút kinh nghiệm triển khai toàn diện. Thực hiện giải pháp này, bao gồm các nội dung chủ yếu sau :
* Yêu cầu thực hiện cho vay:
Xác định nhu cầu về sản phẩm : Theo xu hướng hiện nay, người tiêu dùng có xu hướng muốn mua nhà chung cư để có chỗ an cư. Giá cả của những tài sản này khá đa dạng, từ dạng cao cấp cho đến dạng trung bình nên đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng. Người có nhu cầu mua thường là giới trẻ tuổi đời trên 30, đa phần làm việc tại các công ty tư nhân hoặc nước ngoài, mới lập gia đình.
Thời gian : Giá trị của một căn nhà thường khá lớn nên với thời gian ngắn thì những người sử dụng nguồn thu nhập hàng tháng để trả nợ sẽ khó có khả năng tiếp cận với sản phẩm này.
Tỷ lệ cho vay : Nhiều ngân hàng đang khống chế tỷ lệ cho vay tối đa ở mức 60% giá trị căn nhà. Trong khi đó người tiêu dùng lại có xu hướng muốn vay với một tỷ lệ cao hơn.
Thị trường này hiện còn rất lơn nên có rất nhiều tổ chức tín dụng khác cũng đang tiến hành nghiên cứu triển khai sản phẩm này. Đây là một trong những sản phầm mà Sở giao dịch I có thể đẩy mạnh khai thác trong thời gian tới.
* Đối tượng áp dụng :
Giai đoạn đầu , đối tượng khách hàng có thể được giới hạn trong khối cán bộ công nhân viên chức có thu nhập trung bình khá. Các cá nhân này phải làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước thực hiện trả lương qua NHCT. Đồng thời các cá nhân này phải đáp ứng được các điều kiện sau:
Có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội hoặc là đối tượng KT3
Có thời gian làm việc ổn định tại các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng có thời gian làm việc ổn định từ 03 năm trở lên
Có vốn tự có tham gia vào phương án tối thiểu là 30%.
* Tài sản đảm bảo:
Ngôi nhà hình thành từ vốn vay, hiện tại thì một số khu chung cư cao tầng đã đi vào giai đoạn khai thác ổn định. Chất lượng nhà cũng như những giấy tờ pháp lý của ngôi nhà đã được ổn địn nên có thể lựa chọn đây là tài sảm đảm bảo cho khoản vay.
Thứ hai , phát triển sản phẩm cho vay du học. Sản phẩm cho vay du học đã được triển khai tại Sở giao dịch I tuy nhiên kết quả đạt được chưa nhiều. Thời gian gần đây, các qui định về chuyển tiền ngoại tệ phục vụ thanh toán chi phí tiêu dùng hàng tháng của học viên tại nước ngoài đã thông thoáng hơn, các tổ chức phát triển du học đã mở rộng, nhiều tổ chức giáo dục đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam và đã tạo thành một xu thế du học. Đây chính là thời điểm thuận lợi cho Sở giao dịch I có thể phát triển sản phẩm này.
Một số giải pháp cụ thể thực hiện như sau :
Sở giao dịch I – NHCT sẽ hợp tác và duy trì ở cấp độ cao hơn ( cấp thẻ tín dụng miễn phí hoặc cấp thẻ thấu chi, giảm lãi và giảm thời gian thẩm định cho vay...) , đồng thời tích hợp các sản phẩm để làm việc với các công ty đơn vị có chức năng tư vấn và tổ chức cho học sinh, sinh viên đi du học để giới thiệu và quảng bá về sản phẩm cho vay du học của NHCT .
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các ngân hàng, các trường đại học tại các nước có du học sinh tạo điều kiện cho việc chuyển tiền được thuận lợi
Phát triển dịch vụ thẻ thanh toán, thẻ tín dụng để tạo điều kiện cho du học sinh chủ động trong việc thanh toán phí cũng như chi tiêu.
Thứ ba, đẩy mạnh cho vay trả góp mua ô tô, xe máy. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống người dân cũng được cải thiện, những khách hàng có thu nhập tương đối cao ở thành phố có nhu cầu mua sắm ô tô nhiều hơn, song vẫn chưa có điều kiện để trả một lần cho việc mua một chiếc ô tô. Do đó, ngân hàng nên triển khai việc cho vay để mua ô tô trả góp bằng số tiền thu nhập hàng tháng, với lãi suất hợp lí. Thông qua việc hợp tác với các hãng xe sẽ giúp cho ngân hàng có nhiều thông tin hơn về nguồn gốc xuất xứ của xe, nhà cung cấp, thị trường kinh doanh xe, xu hướng tiêu dùng hiện tại Bên cạnh đó, sản phẩm cho vay mua xe máy cũng là một loại sản phẩm khá phổ biến với người dân. Giá trị của khoản vay nhỏ, thời gian trả nợ nhanh, do vậy khi triển khai mở rộng loại sản phẩm này sẽ thu hút được nhiều đối tượng khách hàng.
Thứ tư, một số sản phẩm khác như cho vay tiêu dùng trả góp, Sở giao dịch I có thể liên kết với các công ty lớn, siêu thị,... khi khách hàng mua đồ dùng nội thất hay điện máy ... tại công ty hay siêu thị liên kết với ngân hàng sẽ được hưởng lãi suất 100% cho khách hàng khi vay tại Sở giao dịch trong năm đầu tiên. Từ năm thứ hai trở đi, khách hàng được tài trợ lãi suất là 50% một giá trị đơn hàng và năm thứ ba trở đi khách hàng sẽ tự trả lãi suất. Với việc đa dạng hoá sản phẩm, Sở giao dịch tăng doanh thu, lợi nhuận mà còn đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Thứ năm, mở rộng sản phẩm cho vay tín chấp. Đây là sản phẩm đang được các ngân hàng chú trọng phát triển, đối tượng khách hàng được hướng đến là CBCNV của các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội, với mức thu nhập hàng tháng là 2 đến 3 triệu, có thể vay tối đa 200 triệu, với mức lãi suất cạnh tranh. Đây là một sản phẩm mới đối với thị trường Việt Nam, song lại là sản phẩm không còn xa lạ với người dân trên thế giới. Do đó, với sản phẩm cho vay tín chấp, Sở giao dịch I sẽ đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu của khách hàng, tăng doanh số cho vay cũng như thu được nhiều lợi nhuận vì thu nhập từ loại hình vay này tương đối cao.
3.3.4 Tăng cường các hoạt động Marketing đối với CVTD
Thứ nhất, thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm. Để tồn tại và phát triển, các sản phẩm của ngân hàng bắt buộc phải đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của thị trường. Yêu cầu đó đặt ra đối với doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng cần phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thị trường mà mình đang hoạt động, trong đó bao gồm bên cung và bên cầu.
Chỉ khi có được những phân tích đánh giá chính xác về thị trường thì ngân hàng mới có thể đề ra những kế hoạch hoạt động trong tương lai gần cũng như là xây dựng một chiến lược kinh doanh tổng thể lâu dài. Nhiệm vụ nặng nề và quan trọng đó sẽ do bộ phận nghiên cứu thị trường đảm nhận và thực hiện.
Việc phát hiện và đưa ra những sản phẩm mới cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế sẽ giúp cho Sở Giao dịch I tiếp cận thường xuyên và bắt kịp với xu thế của thị trường.
Thứ hai, hoàn thiện phương pháp tiếp thị CVTD. Tăng cường bán chéo sản phẩm : Bán chéo sản phẩm vừa mang lại lợi ích trọn gói cho khách hàng đồng thời giúp đơn vị tham gia bán chéo sản phẩm gia tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí. Sản phẩm tín dụng có đặc tính hoàn trả sau một thời gian sử dụng. Do đó, CBTD không thể bán nó giống như bán các sản phẩm thông thường khác mà phải có sự chọn lọc đối tượng khách hàng theo các tiêu chuẩn riêng. Tuy nhiên, CBTD cũng không nên ngồi chờ khách hàng đến xin vay mà phải tích cực tiếp thị để tìm kiếm khách hàng như nhân viên bán sản phẩm thông thường.
Khách hàng CVTD có phạm vi hoạt động rộng khắp và ngân hàng có trách nhiệm phải khơi dậy nhu cầu của họ hoặc tạo cơ hội để họ bộ lộ nhu cầu của mình. Các phương pháp truyền thống để thu hút khách hàng như quảng cáo qua truyền hình, sóng phát thanh, tờ rơi, các chương trình tặng quà, bốc thăm trúng thưởng đều đã được các ngân hàng sử dụng tối đa nhưng hiệu quả đem lại chưa thực sự mong đợi. Bán chéo sản phẩm là cách đem lại hiệu quả cao nhất giúp mở rộng CVTD vì các đơn vị đối tác có đội ngũ nhân viên tiếp thị, bán hàng với số lượng lớn, am hiểu về sản phẩm, có khả năng tạo ra nhu cầu tiêu dùng của khách hàng qua kỹ năng bày hàng, giới thiệu sản phầm và bán hàng.
Một số giải pháp cụ thể cho các sản phẩm :
Sản phẩm cho vay ô tô trả góp : Làm việc trực tiếp với các hãng xe hoặc các đại lý của các hãng xe. Kết hợp với các hãng xe lớn : ký thỏa thuận với một số đại lý xe lớn của các hãng ôtô hàng đầu hiện đang có mặt tại Việt Nam như Toyota, Mitsubishi, BMW, Mercedes và Mazda để cung cấp dịch vụ này tới tận tay các khách hàng có nhu cầu. Việc kết hợp với các hãng xe, vừa giúp Sở kiểm soát được mục đích vay tiêu dùng, tránh sử dụng sai mục đích, đồng thời đánh giá được nhu cầu thực tế của người dân.
Một mặt, Sở giao dịch I có thể cho vay đối với chính các hãng xe này trong các phương án kinh doanh xe, mặt khách Sở giao dịch I có thể cho vay đối với chính những người khách có nhu cầu mua xe từ các hãng xe này, sản phẩm này sẽ tạo nên một sản phẩm trọn gói. Ngoài ra, việc hợp tác kinh doanh với các hãng xe sẽ phổ biến hơn sản phẩm cho vay trả góp của ngân hàng vì các hãng xe giới thiệu tới người tiêu dùng sản phẩm cho vay trả góp của Sở giao dịch I.
Sản phẩm cho vay mua nhà chung cư : Làm việc trực tiếp với các đơn vị xây nhà hoặc chủ đầu tư các dự án. Việc kết hợp các đơn vị xây dựng nhà ở để bán cần được áp dụng có lựa chọn. Phương án này sẽ giúp cho Sở giao dịch I thẩm định và đánh giá được năng lực thi công của đơn vị xây dựng, chất lượng công trình vì đây chính là tài sản đảm bảo sau này cho ngân hàng. Khi khách mua nhà tìm đến các đơn vị xây dựng , họ sẽ được giới thiệu về sản phẩm cho vay mua nhà của Sở giao dịch I, trường hợp các khách hàng này có nhu cầu vay vốn, Sở giao dịch I có thể đáp ứng. Việc cho vay và thế chấp tài sản đảm bảo không chỉ diễn ra đơn thuần giữa Sở giao dịch I và khách hàng vay vốn như các phương án nhận thế chấp thông thường mà ở đây ban quản lý dự án cũng phải tham gia vào các khâu liên quan. Đối với nhà chung cư thường chưa có đầy đủ giấy tờ để tiến hành thế chấp theo qui định của pháp luật hiện nay nên sử dụng tài sản này làm tài sản thế chấp bắt buộc phải có thêm sự ràng buộc của cơ quan chủ đầu tư. Chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm hoàn thiện giấy tờ sở hữu nhà cho người mua nhà, đồng thời có trách nhiệm bảo quản và trao lại toàn bộ chứng từ gốc này cho Sở giao dịch I khi các thủ tục được hoàn thiện.
Thứ ba, tăng cường quảng cáo giúp người dân quen với các sản phẩm tín dụng tiêu dùng của ngân hàng. Để mở rộng CVTD, bên cạnh việc bán chéo sản phẩm thì cần có chiến dịch quảng bá rộng rãi với nhiều hình thức khác nhau để người dân không ngại vay vốn ngân hàng là việc làm hết sức cần thiết. Công việc này thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình và đặc biệt là các báo điện tử. Với sự phát triển của thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng đã trở thành một hình thức kinh doanh khá phổ biến, hay chủ động gửi tin quảng cáo vào các địa chỉ email, đây là một phương thức mà nhiều hãng kinh doanh của nước ngoài vẫn thường làm.
Thứ tư, ngoài ra Sở giao dịch I có thể liên kết với các ngân hàng hàng đầu trên thế giới để áp dụng những kĩ thuật về CVTD. Ví dụ như chương trình hỗ trợ CVTD mà ACB đang liên kết với Citibank, đó là chương trình hỗ trợ tiêu dùng hoàn toàn dựa vào thu nhập của người vay (UIL - Unscured Installment Loan), theo chương trình chuyển giao kỹ thuật cho vay tiêu dùng. Với chương trình này, ngân hàng sẽ phân nhóm khách hàng theo từng mức độ rủi ro và qui định từng mức vay cụ thể phù hợp với thu nhập khách hàng. Khách hàng có nhu cầu vay theo UIL có thể lên website của ACB để tìm hiểu thông tin, thủ tục hồ sơ và đăng ký vay qua mạng. Khi ấy, ngân hàng kiểm tra sơ bộ và sẽ có thư phúc đáp lại trên mạng.
3.3.5 Tập trung đào tào nguồn nhân lực cho hoạt động CVTD
Con người là nguồn lực quan trọng nhất đối với bất kỳ tổ chức hay doanh nghiệp nào. Sự thành công của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phụ thuộc vào yếu tố con người và hiệu suất làm việc của họ. Mọi doanh nghiệp muốn thành công trên lĩnh vực mà mình đang theo đuổi kinh doanh thì phải dựa trên việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn nhân lực của mình và Sở giao dịch I cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chính vì vậy, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu chủ chốt mà Sở giao dịch I phải chú trọng phát triển trong thời gian tới. Đó là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo chuyên sâu theo từng loại nghiệp vụ, trong đó tăng cường đào tạo tại chỗ. Làm tốt công tác qui hoạch cán bộ, đánh giá sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực để phát huy tác dụng tốt. Xây dựng văn hoá kinh doanh công sở nhằm nâng cao uy tín và thương hiệu của NHCT Việt Nam.
Trên cơ sở xem xét các yếu tố trên, ngân hàng nên có sự phân công lao động cho hợp lý, tận dụng được các khả năng và thế mạnh của cán bộ tín dụng, đồng thời ngân hàng cũng cần có chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực này một cách toàn diện hơn. Sở giao dịch I cần tổ chức và phát triển hơn nữa công tác đào tạo, nhất là trong giao dịch đổi mới công nghệ ngân hàng, hiện đại hóa ngân hàng như hiện nay. Sở giao dịch cần cử cán bộ, nhân viên tham dự các khóa học về ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước, các trường Đại học, các Viện nghiên cứu tổ chức . Ngân hàng cũng nên cử cán bộ, nhân viên có trình độ, có năng lực tham gia các chương trình đào tạo ở nước ngoài cũng như tham khảo các sản phẩm dịch vụ, các hoạt động ngân hàng của các nước phát triển sẽ tạo ra những nền tảng, điều kiện cần thiết để phát triển hoạt động ngân hàng trong tương lai.
Ngoài ra Sở giao dịch I phân công thực hiện bố trí công việc theo năng lực, kinh nghiệm của mỗi người, phân quyền đề nghị cấp tín dụng theo trình độ, kinh nghiệm. Để nâng cao chất lượng đánh giá của khách hàng, ngoài việc tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng là yêu cầu cấp thiết, ngân hàng cần tìm hiểu năng lực, sở trường của từng cán bộ tín dụng để đề bạt, bố trí, quản lý sử dụng cán bộ thực hiện nghiệp vụ này phù hợp, phát huy tốt nhất khả năng của mỗi cán bộ công nhân viên nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác, ngăn ngừa rủi ro xảy ra.
Một khía cạnh khác là, để tạo điều kiện, tiền đề cho công tác phát triển nguồn nhân lực, ngân hàng cần tuyển dụng một cách công bằng, công khai để tìm kiếm được cán bộ giỏi, có tri thức, có năng lực, có trình độ chuyên môn, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới, có tinh thần trách nhiệm cao, đáp ứng được những yêu cầu của công việc trong tình hình hiện nay.
Ngoài ra, ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, văn nghệ, thể thao hay các cuộc thi nghiệp vụ trong nội bộ ngân hàng nhằm tạo cơ hội cho các cán bộ công nhân viên trao đổi thêm kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết lẫn nhau. Đồng thời bộ phận tín dụng và các bộ phận khác cũng cần có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ, tăng cường học hỏi giúp đỡ lẫn nhau, cùng xây dựng tình đoàn kết vì mục tiêu chung của ngân hàng.
3.3.6 Hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị
Cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong những hình ảnh đầu tiên về ngân hàng khi họ đến giao dịch. Về tâm lý, khách hàng mong muốn tiến hàng giao dịch kinh doanh với những ngân hàng có trụ sở kiên cố, bề thế, các trang thiết bị hiện đại. Những hình ảnh trên sẽ tạo cho khách hàng tin tưởng vào sự an toàn, thoải mái, thuận tiện khi giao dịch. Chính vì vậy, Sở giao dịch I cần nâng cao cơ sở vật chất và các trang thiết bị nhằm thu hút khách hàng. Ngân hàng cần tiến hành hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ cho việc thẩm định, giám sát khoản vay của khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể phát triển thêm các dịch vụ tiên tiến cung ứng cho khách hàng : với việc trang bị các máy móc hiện đại ngân hàng có thể phục vụ các nhu cầu của khách hàng như giao dịch qua điện thoại, qua mạng máy tính cá nhân.Để thu hút thêm khách hàng ngân hàng có thể mở dịch vụ thông tin cho khách hàng đóng vai trò như một nhà tư vấn. Bên cạnh đó, một điều rất quan trọng nữa mà chi nhánh cần chú ý là trang bị kiến thức về công nghệ đầy đủ và rộng khắp cho các nhân viên ngân hàng, đặc biệt là bộ phận tín dụng. Đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng có mặt bằng tuổi tác, kinh nghiệm và kiến thức không đều nhau, nhiều người gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng công nghệ mới. Vì thế ngân hàng nên tiến hành bổ sung kiến thức cho nhân viên, đảm bảo sử dụng hiệu quả và triệt để nhất công nghệ ngân hàng.
Hiện nay, công nghệ thông tin đã góp phần giải quyết rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng, đưa người dân tiếp cận dễ dàng hơn với ngân hàng thông qua mạng Internet. Khách hàng không chỉ kiểm tra tài khoản qua mạng, mà còn thực hiện được một số giao dịch qua Internet , đặc biệt là có thể vay tiền qua mạng. Sở có thể áp dụng với đối tượng khách hàng trên địa bàn Hà nội, với loại hình e-banking này, khách hàng giảm thời gian cũng như chi phí đi lại khi đến Sở để vay vốn mà vẫn thoả mãn nhu cầu của mình.
3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước
Khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống văn bản pháp quy có đủ khuôn khổ cho việc thực hiện tốt Luật NHNN, Luật các Tổ chức tín dụng... bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, năng động. Đổi mới phương thức và thủ tục tín dụng theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có phương án, dự án kinh doanh khả thi được vay vốn ngân hàng.
Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá hệ thống ngân hàng nhất là nghiệp vụ thanh toán tự động qua ngân hàng, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Phát triển mạnh các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt với doanh nghiệp và dân cư. Xúc tiến nhanh và có hiệu quả dự án hiện đại hoá ngân hàng nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều hành kinh doanh, phát triển các dịch vụ mới.
Tổ chức nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhằm đưa ra các kiến nghị, tiếng nói chung để tránh những động cơ cạnh tranh thiếu lành mạnh gây hậu quả xấu cho hoạt động của Ngân hàng. Đồng thời tiếng nói của Hiệp hội sẽ đại diện cho hệ thống ngân hàng phản ánh, kiến nghị những chính sách và yếu tố cần thiết trước các cơ quan quản lý nhà nước.
3.4.2 Đối với NHCT Việt Nam
Là đơn vị chủ quản của Sở giao dịch I, trực tiếp chỉ đạo hoạt động của Sở, NHCT Việt Nam cần có những chính sách khuyến khích đối với lĩnh vực CVTD. Sau đây là một số kiến nghị cụ thể :
- Hoạch định chiến lược cho hoạt động CVTD, đưa ra những định hướng, mục tiêu cụ thể nhằm nâng cao chất lượng CVTD.
- Đưa ra danh mục sản phẩm đa dạng, linh hoạt với điều kiện cho vay phù hợp với nhiều loại đối tượng khách hàng. Trong đó, đẩy mạnh cho vay tín chấp – đây là loại hình mới, cần được đầu tư triển khai để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Cho phép triển khai thực hiện cho vay trả góp đối với CBCNV và hộ gia đình có thu nhập thấp để mua nhà ở, đất xây dựng nhà ở với thời hạn dài có thể là 15 năm hay 20 năm, mức cho vay tối đa bằng 70% - 80% giá trị đất, nhà và được phép sử dụng chính tài sản đó làm đảm bảo.
- Khi có điều kiện thì NHCT Việt Nam cũng nên tạo điều kiện giúp đỡ để Sở giao dịch I có thể thành lập và phát triển bộ phận chuyên trách về Marketing trong ngân hàng .
Tóm lại, trên cơ sở lý luận và thực trạng về hoạt động CVTD tại Sở giao dịch I và định hướng hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng CVTD của Sở giao dịch I – NHCT, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng CVTD tại Sở trong thời gian tới như xây dựng hệ thống tính điểm tín dụng, đa dang hoá sản phẩm, tăng cường hoạt động Marketing... để giải pháp này đi vào thực tiễn, khoá luận đưa ra một số kiến nghị với NHNN và NHCT Việt Nam.
PHẦN KẾT LUẬN
Cho vay tiêu dùng là một hướng đi mới của các ngân hàng thương mại Việt Nam, và là một thị trường rất tiềm năng. Trong những năm gần đây, thị trường này đã góp phần rất lớn trong việc đa dạng hóa các sản phẩm cho vay của các ngân hàng.
Việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng CVTD là rất cần thiết và có ý nghĩa không chỉ riêng với Sở giao dịch I - NHCT mà còn giúp thực hiện các chính sách kích cầu tiêu dùng của Chính phủ, giúp các cá nhân và hộ gia đình có cơ hội tiếp cận sản phẩm dịch vụ ngân hàng để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình.
Mặc dù vậy, trong quá trình nghiên cứu em đã kết hợp giữa lý luận và thực hành với mục đích đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng CVTD trước hết là ở Sở giao dịch I - NHCT. Nội dung của khoá luận hoàn thành được các mục tiêu đã đặt ra :
- Thứ nhất : Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về CVTD của NHTM. Qua đó, các hình thức CVTD, các nhân tố ảnh hưởng đến CVTD được trình bày cụ thể hơn.
- Thứ hai : Khoá luận phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động CVTD tại Sở giao dịch I, từ đó đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại cần phải giải quyết.
- Thứ ba : Trên cơ sở luận cứ khoa học và thực tế hoạt động cho vay của Sở giao dịch I, kết hợp với định hướng phát triển của Sở, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng đối với Sở giao dịch I - NHCT.
Khoá luận được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ phòng khách hàng cá nhân của Sở giao dịch I - NHCT và em xin chân thành cám ơn PGS.TS Nguyễn Thị Minh Hiền đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này. Do trình độ và thời gian có hạn nên khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô giáo, các bạn quan tâm đến đề tài này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hương Lan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7648.doc