Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại. Với xu hướng đa dạng, các Ngân hàng thương mại sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà Ngân hàng thương mại có lợi thế.
b) Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là tập hợp những bước đi cụ thể, lôgic từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng đến khi Ngân hàng thương mại ra quyết định cho vay, giải ngân, và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Đây là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại. Về mặt hiệu quả, quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho Ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có các tác dụng sau:
109 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 864 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khá cao chứng tỏ khả năng sinh lời của dự án cụng rất cao. Một đồng vốn ban đầu bỏ ra ban đầu thu về 1,34 đồng.
4/. Thẩm định thu nhập dự tính của dự án.
Biểu số 7
TT
Khoản mục đầu
tư
Năm khai thác
-
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1
Tổng doanh thu
0
9.375
7.214
7.358
7.505
7.655
7.655
7.655
7.655
7.655
7.655
2
Tổng chi
phí hoạt động
6.966
6.616
6.558
6.504
6.451
6.293
6.293
6.293
6.293
6.612
Chi phí sản suất
5.070
4.907
5.006
5.106
5.208
5.208
5.208
5.208
5.208
5.208
Khấu hao
919
919
919
919
919
919
919
919
919
919
Chi phí trả
lãi vốn vay
792
634
475
317
158
Lãi vay
vốn lưu động
185
156
159
162
165
165
165
165
165
485
3
Thu nhập
trước thuế
2.409
598
799
1.001
1.204
1.362
1.362
1.362
1.362
1.043
4
Thuế thu
nhập (28%)
112
140
337
381
381
381
381
292
5
Lợi nhuận dòng
2.409
598
688
861
867
981
981
981
981
751
6
Lợi nhuận tích luỹ
2.409
3.007
3.694
4.555
5.422
6.403
7.384
8.365
9.346
10.096
Nguồn: Phòng thẩm định Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
Nếu dự án được thực hiện sẽ tạo ra thu nhập bình quân mỗi năm là 1.096.903.103 đồng. Nguồn lợi nhuận này khá lớn so với quy mô của dự án.
Thẩm định về thời gian hoàn vốn bình quân
Với là năm có dòng tiền suất hiện, , là tổng giá trị vốn đầu tư ban đầu.
5,9 năm tương đương với 5 năm 11 tháng. Kết quả này phù hợp với thời gian hoàn vốn tiêu chuẩn chuẩn của dự án ( 6 năm).
5/. Thẩm định nguồn trả nợ của dự án
TT
Khoản Mục Đầu Tư
Năm khai thác
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1
Giá trị tài
sản đầu kỳ
9.190
8.271
7.352
6.433
5.514
4.595
3.676
2.757
1.838
919
2
Đầu tư mới trong kỳ
9.190
3
Mức trích
khấu hao trong kỳ
919
919
919
919
919
919
919
919
919
919
4
Khấu hao
tích luỹ
919
1.838
2.757
3.676
4.595
5.514
6.433
7.352
8.271
9.190
5
Giá trị tài
sản cuối kỳ
9.190
8.271
7.352
6.433
5.514
4.595
3.676
2.757
1.838
919
-
Nguồn: Phòng thẩm định Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
Nguồn trả nợ Ngân hàng của công ty được lấy từ khấu hao và lợi nhận sau thuế. Cụ thể như sau:
-Trích 70% khấu hao cơ bản : 70% x 919.000.000 = 643.000.000 đồng
- Trích 68% lợi nhuận sau thuế bình quân: 68% x 1.096.903.103 = 686.589.411 đồng
- Tổng cộng mức trích là 1.329.889.411 đồng.
- Thời hạn cho vay là 60 tháng.
- Thời hạn trả nợ là 60 tháng.
-Mức trả nợ hàng quý là: 332.472.352 đồng.
- Thời gian bắt đầu vay: Tháng 7 năm 2007.
- Thời gian bắt đầu trả nợ : Tháng 12 năm 2007
- Trả nợ gốc và lãi theo quý.
- Lãi suất cho vay : Áp dụng lãi suất 13,5%/ năm tương đương với lãi suất 1,25%/ tháng, trong đó cứ 6 tháng lại điều chỉnh 1 lần. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.
6/.Thẩm định tài sản đảm bảo nợ vay
Bên vay đang sở hữu một lô đất có giá trị 660.000.000 đồng. bên vay cam kết dùng quyền sử dụng đất của mình và chính con tàu mua để làm tài sản đảm bảo cho khoản vay. Tổng giá trị tài sản đảm bảo trị giá 9.850.000.000 đồng.
7/.Thẩm định mức độ rủi ro của dự án.
Bất cứ một dự án nào cũng hàm chứa những rủi ro trong quá trình thực hiện dự án. Có những dự án chủ đầu tư có thể kiểm soát được nhưng có nhiều rủi ro mà chủ đầu tư không thể kiểm soát được. Đối với dự án mua tàu trở hàng khô cấp hạn chế 3 ta có thể thấy những rủi ro sau mà chủ đầu tư có thể gặp phải:
Rủi ro về thị trường và giá cả: Giá của sản phẩm là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến thu nhập của dự án. Đối với dự án này thì giá cả của sản phẩm chính là cước phí vận chuyển. Hiện nay ngành công nghiệp tàu thuỷ đang phát triển khá nhanh, trong nước có rất nhiều đội tàu biển kinh doanh dịch vụ trở hàng khô từ bắc vào nam, đã hoạt động lâu năm, chiếm lĩnh một thị phần lớn trong ngành. Công ty TNHH Đông Long lại là một Công ty vận tải biển mới được thành lập, thị phần trên thị trường còn chưa có nhiều, nếu công ty không chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng thì doanh số hoạt động sẽ giả nhiều so với dự kiến. Công ty cũng có thể giảm chi phí vận chuyển trong thời gian đầu hoạt động để thu hút khách hàng. Trong những năm gần đây giá xăng dầu liên tuạc tăng nhanh, điều đó làm cho chi phí của dự án tăng lên. Tuy nhiên, Công ty TNHH Đông Long đã ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá cùng với công ty Rạng Đông trong hợp đồng mua tàu của công ty Rạng Đông. Cán bộ và nhân viên trong công ty Đông Long lại là những người đã từng hoạt động trong ngành lâu năm nên có mối quan hệ rộng với nhiều khách hàng vì vậy Công ty có thể tận dụng mối quan hệ này để tăng thêm số lương hợp đồng chở hàng. Trong trường hợp giá dàu trên thị trường tăng thì chi phí vận chuyển cũng tăng theo nên có thể giảm thiểu được khả năng rủi ro về giá.
Rủi ro về thời tiết : Việt Nam là đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa thường xuyên xảy ra bão lũ. Tuy nhiên, tàu của công ty thuộc loại hạn chế III chỉ chở hàng hoá ven bờ nên có thể kịp thời phòng tránh néu có bao xảy ra. Hơn nữa, bão thường chỉ xảy ra vào tháng 7 và tháng 8, trong 2 tháng này Công ty dự kiến nghỉ để sửa chữa, tu bổ lại tàu vì vậy rủi ro bão lũ chỉ tác động nhỏ tới hoạt động của công ty.
Ngoài ra, dự án cũng có thể gặp phải một số rủi ro khác như rủi ro do sự thay đổi của chính sách kinh tế của nhà nước, rủi ro chính trị, xã hội,
Thu nhập dự tính của khoản vay.
Nếu khoản vay được thực hiện thì mỗi năm Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội sẽ có thêm một khoản thu là 526.500.000 đồng.
8/.Kết luận và kiến nghị
-Những thuận lợi của dự án:
Nhu cầu vận chuyển hàng hoá hiện đang gia tăng, vói những lô hàng có khối lượng lớn thì nhu cầu vận chuyể bằng đường biển thường dược ưu tiên do có chi phí rẻ.
Chủ đầu tư và đội ngũ cán bộ của công ty đã từng làn việc trong ngành và có nhiều kinh nghiệm trong quản lý tàu biển và đi biển.
Quy mô của dự án phù hợp với tổng mức vốn đầu tư : 9.190.000.000 đồng.
Công ty thực hiện dự án cùng với công ty TNHH vận tải Rạng Đông – là công ty có nhiều năm hoạt đôbgj trong ngành vì vậy doanh thu của Công ty khá ổn định.
-Khó khăn của dự án
Rủi ro về giá cả, thị trường và thơời tiêết vẫn có thể xảy ra, nó sẽ làm ảnh hưởng tới doanh số hoạt động của dự án.
Công ty TNHH Đông Long là công ty mới được thành lập nên chưa có khinh nghiệm trong việc quản lý tài chính cũng như quản lý nguồn nhân lực.
Kết luận
Qua kết quả thẩm định dụ án mua tàu biển chở hàng khô, cấp hạn chế III của công ty TNHH vận tải thuỷ bộ Đông Long tổ thẩm định có những nhận xét sau:
Điều kiện của khách hàng về tính pháp lý của công ty, của dự án đều đầy đủ và đúng.
Tình hình tài chính của công ty lành mạnh, doanh số hoạt động dự kiến khi thực hiện dự án tương đối cao.
Chủ đầu tư có đầy đủ khả năng thực hiện dự án
Nếu dự án được thực hiện và đi vào hoạt động sẽ đáp ứng được nhu cầu của thị trường vận tải hàng hoá bằng đường biển, tạo việc làm cho nhiều người lao động, tạo thu nhập cho công ty, tạo thêm thu nhạp cho Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và tăng cường giao lưu, trao đổi hàng hoá giữa các vùng miền trong nước.
Thời gian hoàn vốn của dự án là 5 năm 11 tháng phù hợp với quy mô của dự án. Dự án có nguồn trả nợ chắc chắn từ khoản trích khấu hao và lợi nhuận sau thuế hàng năm.Các tài sản bảo đảm do bên vay cung cấp chính xác và hầu như không có khả năng trượt giá trong thời hạn cho vay.
Kiến nghị của tổ thẩm định:
Qua kết quả thẩm định dự án mua tàu vỏ thép chở hàng khô của Công ty TNHH vận tải thuỷ bộ Đông Long, tổ thẩm định đề nghị ban lãnh đạo Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội phê duyệt cho Công ty TNHH vận tải thuỷ bộ Đông Long vay để thực hiện dự án trên với số tiền là 6.500.000.000 đồng với lãi suất cho vay là 13.5% / năm ( tương đương với 1.25% tháng) 6 tháng điều chỉnh lãi suất một lần, kỳ hạn 5 năm, trả lãi định kỳ theo quý.khoản nợ được đảm bảo bằng toàn bộ giá trị của tài sản đảm bảo bao gồn tài sản của chủ dự án và tài sản của món vay.
2.3. Đánh giá Chất lượng thẩm định dự án tại Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
2.3.1. Những thành tựu đạt được trong chất lượng thẩm định dự án tại Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
Trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội đạt được rất nhiều thành tựu to lớn trong quá trình hoạt đông nói chung và trong hoạt động cho vay nói riêng.
Cũng như nhiều Ngân hàng thương mại khác, hoạt động cho vay vẫn là hoạt động mang về cho Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội nguồn lợi nhuận lớn nhất.
Năm 2005 tổng thu nhập của Ngân hàng là 390.096 triệu đồmg trong đó thu nhập từ hoạt động tín dụng là 299.096 triệu đồng chiếm 76,70% tổng thu nhập.
Năm 2006 Tổng thu nhập của Ngân hàng là 511.912 triệu đồng, trong dó thu nhập từ hoạt động cho vay là 455.938 triệu, chiếm 89,07% tổng thu nhập và tăng cao hơn năm 2005 52,38%.
Năm 2007 là năm Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội có mức thu nhập từ hoạt động cho vay cao nhất từ trước tới nay và nó cũng chiếm một tỉ trọng lớn nhất so với tổng thu nhập kể từ khi Ngân hàng thành lập. Thu nhập từ hoạt động cho vay của Ngân hàng là 682.114 triệu đồng chiếm 95,04 % so với tổng thu nhập và tăng hơn năm 2006 49,61%.
Dư nợ cho vay và thu nhập từ cho vay luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và tổng lợi nhuận của Ngân hàng.
Thu nhập từ lãi tiền gửi ( tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại khác) và thu nhập từ cho vay khác chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với tổng dư nợ và tổng thu nhập của Ngân hàng, hơn nữa còn có su hướng giảm, tốc độ tăng của các nguồn này có chiều hướng giẩm rõ rệt, dư nợ của các khoản tiền này cũng giẩm so với các năm trước. Điều đó chứng tỏ vốn của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội luôn được sử dụng, quay vòng liên tục. Hiệu quả sử dụng nguồn huy động của ngân hàng là rất cao.
Tốc độ tăng thu nhập từ hoạt động cho vay cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của tổng thu nhập, do đó, có thể nói hoạt động cho vay tại Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội có tốc độ tăng trưởng về lợi nhuận nhanh và đều đặn nhất so với các hoạt động khác của Ngân hàng.
Dưới đây là bảng báo cáo thu nhập về hoạt động cho vay do cán bộ phòng thẩm định của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội lập.
Báo cáo thu nhập từ hoạt động tín dụng
Đơn vị : Triệu VNĐ
TT
Năm
Chỉ tiêu
Năm hoạt động
2005
Chênh lệch
2006
Chênh lệch
2007
1
Tổng thu nhập
390.096
31,23%
511.912
39,61%
714.680
2
Thu nhập từ
lãi tiền gửi
3.987
31,27%
5.234
24,00%
6.490
3
Tổng thu nhập từ hoạt động cho vay
299.217
52,38%
455.938
49,61%
682114
4
Thu nhập từ cho
vay ngắn hạn
140.105
58,63%
222249
45,89%
324239
5
Thu nhập từ cho
vay trung hạn
13.115
42,35%
18670
56,37%
29194
6
Thu nhập từ cho
vay dài hạn
34.233
49,23%
51085
54,47%
78911
7
Thu nhập từ lãi cho vay trụ sở chính
111.762
46,68%
163933
52,36%
249768
8
Thu nhập từ cho
vay khác
0,9463
28,00%
1,2112
20,00%
1,453468
Nguồn: Phòng thẩm định Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
Số liệu trên cho thấy thu nhập của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Điều đó càng chứng tỏ tầm quan trọng của công tác thẩn đinh dự án của Ngân hàng.
Để có thể đạt được những thành quả trên, phải kể đến những cố gắng, lỗ lực của ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ thẩm định của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội trong công tác thẩm định dự án. Họ luôn xác định cho mình những bước đi đúng đắn dựa trên cơ sở những nguyên tắc, quy định của NN & PTNT Việt Nam và của Ngân hàng Nhà nước. Công tác thẩn điọnh của Ngân hàng luôn bán sát với chiến lược kinh doanh của Ngan hàng, luôn là nhân tố quan trọng để Ngđn hàng đạt được mục tiêu hoạt động trong kinh doanh là an toàn và sinh lời.
Một yếu tố nữa giúp Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội thành công trong thời gian qua, đó là nhờ cung cách làm việc mới thực sự mang lại hiệu quả. Trong khi nhiều ngân hàng coi trọng khả năng sinh lợi, tức là khả năng trả nợ của dự án, như là yếu tố quyết định thì bên cạnh đó Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội còn chú trọng đến cả khía cạnh phi tài chính. Đó là những gì doanh nghiệp xin vay không phải trình bày hoặc ít phải đề cập đến trong dự án. Ngoài các giấy tờ thủ tục liên quan về mặt pháp lý cần phải kể đến tư cách người vay, chẳng hạn như trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, nhân cách đạo đức. Trên thực tế, việc thẩm định những vấn đề này vô cùng khó khăn và đòi hỏi ở người cán bộ thẩm định phải có nghệ thuật ứng xử và óc nhạy bén, càng không thể thiếu chuyên môn nghiệp vụ sâu. Nhờ đó mà ngân hàng đã tránh được những dự án có nguy cơ rủi ro mặc dù theo dự án thì có khả năng sinh lời lớn. Bước đi của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội là hoàn toàn đúng hướng và thực sự cần thiết, nhất là trong bối cảnh kinh tế nước ta còn nhiều tiêu cực, tình trạng tham nhũng chưa được loại bỏ hết.
Mạng nội bộ của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội hoạt động tương đối có hiệu quả. Ngân hàng đã tiến hành nối mạng để các cán bộ tín dụng tiện theo dõi thông tin về khách hàng của mình cũng như lịch trình thu nợ, nhận nợ, dễ dàng kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng tiền vay nhằm có các biện pháp khắc phục kịp thời, tránh gây thất thoát về vốn, giảm nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Quy trình nghiệp vụ tín dụng trung- dài hạn cũng như thẩm định được xây dựng dựa trên các quy định pháp lý và kinh nghiệm tích luỹ trong những năm qua.Các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra trong quy trình thẩm định bao gồm; Doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn, nguồn trả nợ rất cụ thể, tạo điều kiện cho người lập dự án có thể dễ dàng đối chứng với sự chênh lệch, điều chỉnh so với dự án mà họ đã lập, những chỉ tiêu này cũng phản ánh tương đối chính xác tình hình của dự án. Các chỉ tiêu mà ngân hang đang dung cho thấy sự lựa chọn tương đối kỹ lưỡng, có sự kết hợp, áp dụng những chỉ tiêu dung trong nền kinh tế thị trường vào Việt Nam một cách hợp lý. So với các ngân hàng khác trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam thì đây là một lợi thế của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội .
- Phê duyệt món vay được thực hiện bởi hội đồng tín dụng. Ngân hàng đã có quy định về thẩm quyền phê duyệt đối với từng hạn mức này. Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội đã xây dựng được cơ chế hoạt động phân cấp tương đối hợp lý cho hoạt động thẩm định tài chính dự án. Cơ chế làm việc trực tiếp giữa cán bộ tín dụng, trưởng phòng tín dụng và Ban lãnh đạo ngân hàng đã thúc đẩy nhanh tiến độ thẩm định tài chính dự án. Phương thức hoạt động phân cấp như vậy cũng ngăn ngừa được rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng.
- Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp được coi là công việc bắt buộc khi thẩm định tài chính dự án. Từ việc phân tích khách hàng vay vốn, ngân hang có thể nắm được những điểm mạnh, thuận lợi về năng lực tài chính, vị thế, uy tín, trình độ quản lý điều hành trong sản xuất kinh doanh, chấp hành chính sách pháp luật cũng như những điểm yếu của doanh nghiệp để từ đó đưa ra những giải pháp, phương hướng cho doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ tích cực cho quyết định đầu tư.
- Ngoài ra, Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội còn tổ chức cho cán bộ tín dụng đi thực tế doanh nghiệp, địa bàn nơi dự án sẽ được đầu tư nhằm nắm chắc tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn, thăm dò thị trường, tìm hiểu hiện trường nơi dự án sẽ được thực hiện để kết hợp giữa nhận định thực tế đối với dự án và khả năng trả nợ của khách hàng
Trên đây là một số thành tựu mà công tác thẩm định dự án ở Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội đạt được. Tuy nhiên đó chưa phải là tất cả những gì mà ngân hàng này mong muốn. Bởi vì bên cạnh những thành tựu không phải là không còn những khó khăn, đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng đổi mới nhằm tự hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thẩm định dự án, góp phần đảm bảo chất lượng kinh doanh của ngân hàng ngày càng tăng lên.
2.3.2 Những hạn chế trong thẩm định dự án tại Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
Phương diện thẩm định tài chính:
- Việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR, PP chỉ mới được đề cập và mang tính hình thức, không được coi là những chỉ tiêu trọng yếu. Giá trị thời gian của tiền không được đề cập trong nhiều dự án, điều này ít nhiều cũng gây ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án.
- Thời điểm bỏ vốn đầu tư và thời điểm thu về là hai khoảng thời gian cách xa nhau nên giá trị của đồng tiền chắc chắn sẽ không bằng nhau. Do vậy, nếu tính thời gian hoàn vốn của dự án cũng như thời gian hoàn trả vốn mà chỉ dựa vào cách tính thời gian hoàn vốn giản đơn thì việc tính toán này đồng nghĩa với sự ngầm định rằng đồng tiền hôm nay và đồng tiền sau đó n năm (n>1) có giá trị như nhau và tỷ lệ chiết khấu cũng không được tính đến.
- Việc lựa chọn lãi suất để tính NPV còn chưa thống nhất, chưa có một căn cứ khoa học rõ rang trong việc lựa chọn mà chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ thẩm định. Việc tính doanh thu hàng năm chỉ dựa trên phương pháp so sánh đối chiếu, dựa vào kinh nghiệm và nhận định chủ quan của cán bộ thẩm định mà chưa có một phương pháp định lượng chính xác để xác định chính xác nhu cầu. Việc đánh giá dự án mới chỉ dừng lại ở việc xem xét trạng thái tĩnh chứ chưa dự trù được những thay đổi của thị trường (như biến đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất, lãi suất chiết khấu, lạm phát). Phương pháp tính toán khấu hao cơ bản, trích khấu hao trong từng dự án mà ngân hàng áp dụng còn quá chung chung, chủ yếu dựa vào giả định của cán bộ thẩm định theo quy định của Nhà nước trong khi đó khung của Nhà nước lại quá rộng. Đặc biệt việc phân bổ dự phòng một cách chung chung là phi lý và không có căn cứ. Ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng những phương pháp thẩm định mới đang được sử dụng ở các ngân hàng, các đơn vị thẩm định trong và ngoài nước và áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình nước ta.
- Việc tính toán nguồn trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp đôi khi còn chưa có sự phân bạch rõ ràng trước khái niệm lợi nhuận sau thuế và lợi nhuận để lại. Thông thường, phần lợi nhuận để lại nhỏ hơn phần lợi nhuận sau thuế, do đó, nếu ngân hàng tính lợi nhuận sau thuế để cộng với phần khấu hao cơ bản thì nghiễm nhiên, Ngân hàng đã dự tính tăng nguồn trả nợ cho mình mà không trừ đi phần chi phí khác.
- Thẩm định tài chính chưa được đảm bảo trong cả ba giai đoạn; Trước, trong và sau khi cho vay. Quá trình thẩm định được Ngân hàng quy định bao gồm cả 3 giai đoạn song cán bộ ngân hàng dường như mới chỉ đề cập đến việc thẩm định ban đầu còn việc thường xuyên đánh giá, thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp, tình hình sử dụng vốn chưa được quan tâm nhiều.
- Một số tài sản tuy thời gian khấu hao đã hết nhưng khi kết thúc dự án vẫn còn giá trị sử dụng. Việc hoàn trả hay định giá tài sản cũng như hoàn trả vốn lưu động khi kết thúc dự án cũng chưa có quy định cụ thể.
- Theo quy định của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng trong giai đoạn quản lý là thường xuyên đánh giá tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng, việc trả nợ đúng hạn, đánh giá lại tài sản thế chấp nhưng việc định kỳ đánh giá tài sản thế chấp chưa được thực hiện.
Ngoài ra, ngân hàng chưa có quy định đảm bảo việc tuân thủ các thủ tục tín dụng, ngăn ngừa rủi ro và chấm dứt các hợp đồng có khả năng gây tổn thất cho ngân hàng.
- Số nhân viên thực sự có năng lực không đủ để đáp ứng cho yêu cầu công việc. Đội ngũ nhân viên của ngân hàng hoạt động chưa đồng đều, số nhân viên thực sự có năng lực vẫn thiếu dẫn đến tình trạng những người có khả năng phải làm việc quá nhiều. Số còn lại để hoàn thành tốt công việc phải cần đến sự trợ giúp của nhiều người.
- Thông tin còn thiếu hụt.
+ Hệ thống thông tin của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội chưa cho phép cán bộ tín dụng xác định được những thông tin cần thiết như số dư nợ của một khách hàng trong toàn hệ thống là bao nhiêu, hiện khách hàng đó đã vay bao nhiêu món, quá trình vay và trả nợ của khách hàng như thế nào, có tin cậy được hay không. Những thiếu hụt này sẽ làm tăng cao rủi ro và ngân hàng không đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng hoặc cho khách hàng vay quá hạn mức cho phép.
+ Trong thực tế, các thông tin về doanh nghiệp và dự án thường thiếu hụt hoặc không đầy đủ, cán bộ tín dụng chỉ có một nguồn duy nhất là báo cáo tài chính của doanh nghiệp và hồ sơ dự án do chủ đầu tư cung cấp. Những công việc còn lại phần lớn lại dựa vào kinh nghiệm, khả năng và trình độ của họ.
2.3.3 Nguyên nhân dẫn tới tồn tại về chất lượng hoạt động thẩm định.
Thứ nhất: Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
a) Thực hiện qui trình tín dụng còn nhiều thiếu sót:
Việc thực hiện qui trình tín dụng còn có nhiều thiếu sót, cụ thể:
Chưa thu thập được đủ thong tin đánh giá.
Trình độ nghiệp vụ còn non yếu, chưa đánh giá được mục đích sử dụng vốn vay, tư cách khả năng quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp qua tiếp xúc sơ bộ.
Không chuẩn bị kỹ càng khi xuống kiểm tra.
Kiểm tra một cách hời hợt, không đầy đủ, chỉ hỏi miệng, không có ghi chép lại để làm tài liệu đối chiếu lần sau.
Không có kinh nghiệm, bị “mắc bẫy” của khách hàng.
Không quan tâm vào khía cạnh phi tài chính đó là đánh giá về tư cách, khả năng quản lý.
Không thu thập đầy đủ thông tin cho quá trình phân tích đánh giá, bỏ qua cơ hội “ngàn vàng” để thu thập thông tin khi xuống kiểm tra thực tế, các thong tin này không được thể hiện trong báo cáo tài chính, kế hoạch kinh doanh (KHKD).
Phân tích và xử lý thông tin được tốt.
Chưa có phương pháp phân tích báo cáo tài chính, chỉ liệt kê các danh mục trong báo cáo tài chính chứ không phân tích chỉ tiêu, phân tích xu thế, bỏ qua phân tích báo cáo thu thập và báo cáo luồng tiền.
Không phân tích đánh giá KHKD một cách xác đáng, chỉ liệt kê theo KHKD của khách hàng, không đánh giá chính xác khả năng trả nợ của khách hàng, không dự kiến luồng tiền mặt của khách hàng trong tương lai- là căn cứ quan trọng để xác định khả năng trả nợ và thời hạn cho vay.
Các thong tin về giới thiệu doanh nghiệp chỉ mang tính chất liệt kê thong tin từ hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp, không coi trọng đánh giá về tư cách và khả năng quản lý của khách hàng.
Việc thẩm định hồ sơ tín dụng không được thực hiện theo một chuẩn mực nhất định. Mỗi CBTD có một phương pháp thẩm định đánh giá riêng nhưng nhìn chung quá chú trọng vào mặt kỹ thuật trong phân tích đánh giá, chú trọng vào việc hoàn thiện một bộ hồ sơ đầy đủ để đảm bảo tính an toàn cho cá nhân.
Quá coi trọng vào việc định giá TSĐB nhà bỏ qua những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng khoản vay đó là: tính khả thi của dự án, khả năng trả nợ, tư cách của chủ doanh nghiệp. TSĐB được định giá chính xác nhưng nếu KHKD không khả thi, tư cách của chủ doanh nghiệp kém rủi ro tín dụng vẫn không tránh khỏi.
Trong phạm vi hạn mức của mình Tổng giám đốc là người phê duyệt cho vay cuối cùng, do bận rộn nhiều công việc hoặc một lúc phải xem nhiều hồ sơ tín dụng, nên Tổng giám đốc không có đủ thời gian xem xét kỹ lưỡng hồ sơ tín dụng, mà chỉ căn cứ vào đề nghị của CBTD, ý kiến của trưởng phòng tín dụng trong tờ trình rồi quyết định cho vay hay không cho vay.
Do vậy có thể có sai sót như: hồ sơ chưa đầy đủ, các thong tin chưa thu thập đầy đủ, các đánh giá của cán bộ chưa chính xác.
Do quá trông cậy vào mẫu hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản nên còn nhiều sai sót dẫn tới rủi ro tín dụng trong bước này. Hợp đồng tín dụng được lập trên cơ sở mẫu chung của cả ngân hàng, nhưng đối với từng trường hợp cụ thể phải có điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình thực tế. Không thể xây dựng một mẫu hợp đồng chung áp dụng cho mọi trường hợp khách hàng.
Xác định và thoả thuận kỳ hạn vay chưa hợp lý: Qua nghiên cứu hồ sơ vay vốn khách hàng thấy ở một số hồ sơ việc xác định thời hạn cho vay còn tuỳ tiện, rập khuôn, không căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng đối tượng vay, không căn cứ vào luồng tiền của đơn vị để xác định chính xác thời điểm nào doanh nghiệp có tiền để định thời hạn cho vay. Khi khách hàng thu tiền bán hàng, bán sản phẩm thì chưa đến hạn trả, họ lại sử dụng vốn vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo, hoặc trường hợp đến hạn trả nợ mà doanh nghiệp chưa thu được tiền bán hàng do đó phát sinh nợ quá hạn.
Hạn mức tín dụng vượt quá khả năng quản lý của khách hàng.
Các điều khoản về kỷ luật tín dụng và xử lý tranh chấp gây bất lợi cho ngân hàng.
Điều khoản hợp đồng gây bất lợi cho ngân hàng khi xử lý tài sản ví dụ như: Không qui định ngân hàng được toàn quyền phát mại tài sản, mà phải qua trung tâm bán đấu giá.
Hợp đồng được qui định một thời hạn nhất định nhưng hết thời hạn đó vẫn chưa xử lý được TSĐB, như vậy liệu ngân hàng vẫn có quyền xử lý TSĐB khi hết thời hạn hợp đồng.
Có những trường hợp khách hàng thế chấp cả quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, nhưng trong hợp đồng chỉ ghi thế chấp quyền sở hữu nhà do vậy gây bất lợi cho ngân hàng khi xử lý TSĐB.
Việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay chưa được chặt chẽ, một số trường hợp cho khách hàng rút tiền mặt hoặc chuyển tiền vay vào tài khoản tiền gửi. Đã xảy ra trường hợp khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, gây thất thoát vốn, khách hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng.
Việc kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) và TSĐB nhiều khi chỉ là hình thức, đối phó cho đúng qui định của Ngân hàng, các phiếu kiểm tra được lập thường xuyên và được bổ sung vào hồ sơ lưu trữ, nhưng nhìn chung đều thiếu những đánh giá, phân tích một cách chính xác khả năng trả nợ của khách hàng để có biện pháp xử lý thích hợp trước khi rủi ro có khả năng xảy ra.
Sự lợi và trong kiểm tra có thể do không chú trọng kiểm tra khách hàng truyền thống, kiểm tra nghiêng về các báo cáo từ phía người vay chứ không chú trọng phân tích, đánh giá tình hình thực tế.
Thông thường CBTD chỉ có những biện pháp xử lý sau khi đã phát sinh nợ quá hạn, có một số trường hợp gia hạn trước cho khách hàng rồi bổ sung “đơn xin gia hạn sau” để hoàn thiện thủ tục.
Việc đánh giá, phân tích đơn xin gia hạn của khách hàng không được thực hiện một cách kỹ lưỡng như đánh giá một đơn xin vay mới. Thông thường khách hàng chuyển đơn xin gia hạn lên, CBTD có thể xuống kiểm tra đối chiếu tình hình thực tế (có trường hợp không xuống kiểm tra), sau đó lập tờ trình và trình Tổng giám đốc duyệt gia hạn nợ hoặc không.
Việc xử lý nợ quá hạn được chuyển cho một bộ phận xử lý thuộc phòng khác do đó dẫn tới hiện tượng CBTD cho vay phát sinh nợ quá hạn trông chờ, ỷ lại vào bộ phận xử lý nợ quá hạn, không phối hợp tốt với bộ phận xử lý nợ quá hạn. Một số CBTD khác khi chuyển môi trường làm việc cũng buông xuôi với những món nợ quá hạn cũ. Trong khi đó bộ phận xử lý nợ quá hạn lại cho rằng trách nhiệm chính vẫn thuộc về CBTD nên cũng buông xuôi, không nhiệt tình trong công việc.
CBTD không tham gia vào quá trình xử lý nợ sẽ không rút ra được những bài học xương máu, không thấy được tính phức tạp, những thủ đoạn, mánh khoé của khách hàng để kịp thời rút ra những kinh nghiệm, tích luỹ được trình độ, kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong việc thẩm định, đánh giá, quản lý những khoản vay tiếp theo.
b) Các nguyên nhân khác:
Hoạt động của hội đồng tín dụng chưa được đẩy mạnh, chưa thiết lập bộ phận kiểm tra, giám sát tín dụng giúp ngăn ngừa rủi ro tín dụng, chưa xây dựng được hệ thống phân loại khoản vay để đánh giá và quản lý các khoản vay theo tiêu chuẩn, việc đánh giá hiện nay chủ yếu dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm của CBTD nên dễ phát sinh rủi ro và dẫn tới tình trạng đánh giá không nhất quán.
Việc chấp hành qui định cho vay chưa nghiêm, thực hiện qui trình cho vay còn mắc nhiều sơ sở như:
Chính sách tín dụng của ngân hàng còn nghèo nàn. Bên cạnh đó qui trình thẩm định, đánh giá khoản vay phụ thuộc chủ yếu vào bộ phận tín dụng, chưa có bộ phận thẩm định hoạt động độc lập với phòng tín dụng là những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng.
Do một số cán bộ tín dụng ngân hàng buông lỏng quản lý, thiếu tinh thần trách nhiệm không kiểm tra chặt chẽ trước, trong và sau khi cho vay nên để khách hàng sử dụng vốn vay sai trái, sử dụng vốn sai mục đích, hiện tượng này không được phát hiện và xử lý kịp thời dẫn tới phát sinh nợ quá hạn.
Trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng, đặc biệt là đội ngũ CBTD còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường, chưa đủ khả năng, trình độ, kinh nghiệm đánh giá tính hiệu quả và mức độ rủi ro của khoản vay ngay từ khi xét duyệt, ra quyết định cho vay. Một số ít cán bộ ngân hàng cố tình làm sai, vì lợi ích cá nhân không chấp hành nghiêm qui định, qui chế cho vay làm phát sinh những khoản nợ quá hạn khó đòi không có khả năng thu hồi. Chưa có chế độ khuyến khích CBTD hợp lý dẫn đến hiện tượng CBTD “ngại” cho vay, sợ trách nhiệm vì lý do: cho vay thu nợ đầy đủ cả gốc lẫn lãi hàng trăm tỷ không ai khen, nhưng chỉ cần một món vay phát sinh nợ quá hạn là bị “xử lý”.
Hệ thống thông tin tín dụng còn yếu kém, chất lượng cung cấp thông tin chưa cao. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho việc phân tích, nhận định tình hình khách hàng kém chính xác hạn chế hiệu quả tác nghiệp của CBTD trong thực thi nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa các bộ phận của ngân hàng trong quá trình quản lý tín dụng.
Thứ hai: Nguyên nhân từ phía khách hàng.
-Năng lực tài chính: Hiện nay ở nhiều doanh nghiệp vốn ghi trong điều lệ chỉ là hình thức, nhiều công ty có vốn trong đăng ký lớn hàng tỷ đồng nhưng vốn kinh doanh thực chất lại rất ít vì khi xin giấy phép họ vay mượn vốn gửi vào ngân hàng để xin xác nhận đăng ký, khi được cấp giấy phép lại rút tiền ra để trả nợ, do vậy dẫn tới rủi ro tín dụng. Khả năng về vốn của các khách hàng hạn chế, máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, không có vốn để đầu tư chiều sâu xây dựng nhà xưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn tham gia vào dự án thiếu, chủ yếu dựa vào vốn vay của ngân hàng, có doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để đầu tư một phần vào máy móc thiết bị, phần còn lại dùng làm vốn lưu động do đó dẫn tới mất khả năng thanh toán khi đến hạn.
-Khả năng quản lý kinh doanh: Do bị hạn chế về năng lực, trình độ và kinh nghiệm quản lý, đặc biệt trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Dẫn tới khó khăn cả khâu sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp và khả năng trả nợ ngân hàng.
-Tài sản đảm bảo: Trong thời gian đầu do chưa có kinh nghiệm nên Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội đã nhận thế chấp tài sản bắt bất động sản ở khu vực Thanh Trì và một số TSĐB của người bảo lãnh vay vốn ngân hàng, các tài sản này là nhà và đất rất khó bán, một số trường hợp người bảo lãnh không nhận thức được trách nhiệm bảo lãnh của mình trong hợp đồng thế chấp do đó khi xử lý phát mại tài sản gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra còn một số tài sản cầm cố là máy móc thiết bị rất khó bán hoặc bán giá trị thấp không đủ đảm bảo khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng.
Thứ ba: Nguyên nhân khách quan.
-Môi trường kinh tế không ổn định:
Nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập và mở cửa nên các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, nhiều doanh nghiệp chưa kịp điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc có trường hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến trường hợp phát triển tràn lan quá mức. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi cho ngân hàng.
-Sức ép cạnh tranh:
Sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại và chi nhánh trên địa bàn Hà nội đã gây không ít khó khăn trong việc quản lý khách hàng do họ có thể quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng. Trong khi đó hệ thống thông tin giữa các ngân hàng còn thiếu mặc dù đã có trung tâm thông tin tín dụng nhưng sự hợp tác giữa các và trung tâm thông tin của Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội không đồng bộ, chưa thống nhất do đó chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí có một số Ngân hàng thương mại vì lợi ích cạnh tranh nên đã không công bố tông tin và điều đó dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Ngân hàng không thể xác định đúng đắn, chính xác về tình hình tài chính, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng khi cho vay.
- Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đồng bộ:
Một số văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng ở khía cạnh này hay khía cạnh khác qui định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ nên quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI
3.1 - Những giải pháp nhằm nâng cao chất lưọng thẩm định tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội
Qua quá trình thực tập tại Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội và tìm hiểu về thực trạng thẩm định dự án dự án của Ngân hàng, người viết xin đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định dự án tại Ngân Hàng Nông Nghịêp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội.
3.1.1-Về con người
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên. Trình độ cán bộ, nhân viên của ngân hàng là thế mạnh lớn nhất của một ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro khó có thể lường trước, tuy nhiên, một ngân hàng có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực trong xã hội sẽ giúp cho họ có thể phân tích, đánh giá đầy đủ và chính xác hơn những rủi ro có thể xảy ra, từ đó giúp cho họ thực hiện công việc hiệu quả hơn. Chính vì vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên là điều cần chú ý của bất cứ một ngân hàng nào. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường thường xuyên có những biến động xảy ra, việc thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên Ngân hàng để họ có thể cập nhật, hiểu bết về những thay đổi trong nền kinh tế, trong hệ thống pháp luật, giúp họ thực hiện công việc an toàn, hiệu quả và đúng với những quy định của pháp luật. Bên cạnh việc đào tạo cán bộ, nhân viên về chuyên môn, Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội cũng cần chú ý tới việc đào tạo đạo dức nghề nghiệp cho cán bộ, nhân viên, bởi vì trong điều kiện hiện nay, khi mà khoa hoạc công nghệ ngày càng hiện đại thì vấn đề về lừa đảo, tham ô, tham nhũng càng trở nên tinh vi hơn, nhất là trong hoạt động của ngân hàng khả năng xảy ra lại càng lớn. Trong thời gian tới Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội cần có những lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn ngày nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ, nhân viên, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho những nhân viên muốn học tập nâng cao trình độ. Cần liên kết với các trường đại học, học viện trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ những hoạt động nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên, tránh những tình trạng đáng tiếc xảy ra.
- Cần có những tiêu trí cụ thể trong việc tuyển dụng và bố tri, phân công công việc cho từng cán bộ, nhân viên. Đối với nhân viên tín dụng và thẩm định cần có những tiêu chuẩn chung về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, pháp luật, khả năng phân tích và cách giải quyết công việc linh hoạt,... Thực tế hiện nay, vấn đề tuyển dụng nhân viên trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh còn khá nhiều bất cập, điều đó làm cho chất lượng nhân viên không đồng đều, gây khó khăn cho việc hợp tác và giải quyết công việc. Vì vậy, Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội cần có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao nguồn lao động đầu vào. Với những nhân viên mới được tuyển dụng cần có những lớp hưóng dẫn, giới thiệu về công việc cụ thể nhằm giúp họ bắt nhịp được với công việc một cách nhanh chóng, tránh xảy ra những sai sót không đáng có. Với những nhân viên có trình độ thấp cần có những lớp bồi dưỡng, đào tạo thêm để họ có thể hiểu một cách sâu sắc về nghiệp vụ của mình.
- Cán bộ lãnh đạo của Ngân hàng cần phân công công việc một cách cụ thể, khoa học cho các cán bộ, nhân viên. Phân định một cách rõ ràng, cụ thể quyền hạn của từng cán bộ, nhân viên ở từng vị trí cụ thể nhằm xác định rõ ràng trách nhiệm và nghĩa vụ của từng cán bộ, nhân viên, tránh tình trạng ỷ lại trong công việc, khi xảy ra nỗi thì không xác định được ai là người có trách nhiệm. Mỗi cán bộ, nhân viên đều có những điểm mạnh và khiếm khuyết riêng, vì vậy việc phát hiện ra những điểm mạnh riêng của từng nhân viên và bố trí công việc phù hợp khả năng của họ là điều hết sức cần thiết. Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản trị nhân lực của ban lãnh đạo ngân hàng. Vì vậy cần mở những lớp đào tạo về quản trị nhân lực cho các cán bộ lãnh đạo của ngân hàng giúp họ sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn.
- Cần có những chính sách đãi ngộ, khen thưởng kịp thời với những cán bộ, nhân viên hoàn thành suất sắc nhiệm vụ nhằm khuyến khích, động viên các cán bộ, nhân viên trong Ngân hàng thực hiện công việc tận tâm và có tinh thần trách nhiệm hơn. Thường xuyên chăm lo đời sống của cán bộ nhân viên. Tạo ra khí thế thi đua trong hoạt động của Ngân hàng bằng những chương trình, mục tiêu cụ thể.
3.1.2.Về công tác thẩm định dự án.
- Nâng cao khả năng thu thập và sử lý thông tin liên quan đến dự án. Việc thẩm định một dự án đòi hỏi phải thu thập, phân tích và sử lý một khối lượng lớn các thông tin liên quan tới nhiều khía cạnh khác nhau. Vì vậy, khả năng thu thập, năm bắt và sử lý thông tin ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của cán bộ thẩm định. Thông thường, để có thể vay được vốn, các chủ dự án thường đưa ra những thông số rất tốt về dự án, vì vậy việc xác định mức độ tin cậy của những thông số này là rất cần thiết, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải thu thập các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Muốn vậy cán bộ thẩm định cần phải thiết lập được bảng thông tin từ nhiều nguồn, đầy đủ và có độ tin cậy cao. Cụ thể như sau:
+ Thông tin từ phía khách hàng: Trong quá trình thẩm định Ngân hàng cần tăng cường khảo sát thực tế cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng, tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với cán bộ và nhân viên trong đơn vị vay vốn từ đó đánh giá về năng lực tài chính, trình độ quản lý, uy tín của doanh nghiệp vay vốn, phát hiện những gian lận, sai phạm, khiếm khuyết mà doanh nghiệp cố tình che giấu.
+ Thu thập thông tin từ bên ngoài: Các nguồn thông tin từ bên ngoài mang tính khách quan cao sẽ giúp các cán bộ thẩm định nhìn nhận được tình hình một cách chính xác hơn. Cán bộ thẩm định cần thu thập thông tin từ các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thuế, thanh tra quản lý thị trường,... Đây là những nguồn thông tin có độ chính xác cao. Tuy nhiên cũng cần chú ý tới thời điểm xuất hiện thông tin trên, cần tìm hiểu những thông tin gần nhất với hiện tại.
- Cần thực hiện thẩm định dự án theo nhiều phương pháp khác nhau: Trong thẩm định dự án, việc áp dụng các phương pháp hiện đại, khoa học cũng là một nhân tố quan trong quyết định đến chất lượng thẩm định dự án. Hiện nay công tác thẩm định dự án trong một số dự án tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội mới chỉ dựa trên một vài chỉ tiêu đơn giản, dễ tính toán như một số chỉ tiêu về khả năng trả nợ, tổng nguồn vốn,...mà ít chú trọng tới các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế và rủi ro của dự án dẫn đến những quyết định sai lầm trong việc tài trợ dự án. Hơn nữa, các cán bộ thẩm định của Ngân hàng mới chỉ thực thiện thẩm định theo một vài phương pháp quen thuộc mà chưa sử dụng nhiều phương pháp thẩm định cho một dự án nên không đạt được chất lượng cao trong quá trình thẩm định. Giải pháp cho vấn đề này là cán bộ thẩm định cần thực hiện thẩm định theo nhiều phương pháp, từ đó dựa trên tính ưu việt của từng phương pháp để so sánh và đưa ra được những kết luận chính xác nhất.
-Thực hiện đầy đủ quy trình thẩm định: Thực hiện đúng và đầy đủ các bước trong quá trình thẩm định là điều kiện quan trọng để đưa ra được những kết luận chính xác. Quy trình thẩm định là một chuỗi những công việc đã được sắp xếp một cách cụ thể và khoa học, do đó tuân thủ đúng từng bước trong quy trình thẩm định sẽ đánh giá được hiệu quả của dự án trên nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau của dự án. Bên cạnh đó cán bộ thẩm định cũng cần thực thiện việc chấm điểm khách hàng một cách khách quan và trung thực. Như vậy để có kết quả cao trong công tác thẩm định, cán bộ thẩm định cần phải thực hiện nghiêm túc quy trình thẩm định do Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đề ra, tránh tư tưởng chủ quan, duy ý chí.
- Giải pháp lựa chọn khách hàng và dự án: lựa chọn dự án tốt là giải quyết đầu ra cho sản phẩm của Ngân hàng tốt hơn. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định dự án của Ngân hàng. Để đảm bảo công tác thẩm định dự án đạt hiệu quả cao Ngân hàng cần tập trung vốn vào các dự án có hiệu quả sinh lời cao, an toàn. Tuy nhiên, tính sinh lời cao luôn đi kèm với mức độ rủi ro cao, vì vậy Ngân hàng cần kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố này để có thể lựa chọn được những dự án tốt nhất. Tránh đầu tư vào những dự án có mức sinh lời cao nhưng rủi ro lại quá lớn. Ngoài ra, Ngân hàng càn phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng tín dụng của từng dự án, phát hiện kịp thời các dự án kém hiệu quả để có biện pháp sử lý kịp thời.
- Xác định chính xác hạn mức cho vay với từng dự án cụ thể. Với mỗi dự án cần có những biện pháp giải ngân thích hợp dựa trên đặc điểm, điều kiện của từng dự án.
- Thường xuyên kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng trong quá trình thực hiện dự án. Có biện pháp kiên quyết đối với những khách sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Tăng cường công tác đôn đốc thu nợ khi đến hạn.
3.1.3. Về cơ sở vật chất:
-Ngân hàng cần đầu tư trang thiết bị, công nghệ đồng bộ và hiện đại hơn nữa để phục vụ cho quá trình thẩm định. Trang thiết bị, công nghệ đồng bộ và hiện đại sẽ giúp cho cán bộ thẩm định sử lý nhanh và chính xác các thông tin thu thập được, tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định thực hiện đầy đủ quy trình thẩm định, tạo nên tính thống nhất trong phương pháp thẩm định, giúp các cán bộ thẩm định trao đổi thông tin thuận lợi hơn, giảm bớt thời gian và chi phí cho công tác thẩm định dự án.
- Cần xây dựng phòng thông tin ngân hàng hiện đại chứa dựng và cập nhật nhiều thông tin liên quan đến những thay đổi trong hệ thống pháp luật, nền kinh tế và khách hàng nhằm hỗ trợ cán bộ thẩm định tiếp cận nhanh chóng các nguồn thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định.
3.1.4. Tăng cường quan hệ hợp với các ngân hàng bạn trong nước và quốc tế để trao đổi kiến thức, kinh nghiệm quản lý và thẩm định dự án, trao đổi những thông tin về khách hàng.
Một khách hàng có thể đã từng vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vì vậy tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng trong cùng địa bàn sẽ giúp ngân hàng nắm bắt được lịch sử hoạt động và vay vốn của khách hàng, từ đó có thể xác định chính xác hơn uy tín của khách hàng trong việc sử dụng nợ vay. Ngoài ra việc hợp tác, trao đổi thông tin với các ngân hàng trong và ngoài nước giúp cho Ngân hàng có thể học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và thẩm định dự án, tiếp cận nhanh chóng với các phương pháp, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho quá trình thẩm định dự án.
3.1.5. Thực hiện chọn lọc và phân loại những khách hàng có lịch sử vay nợ tốt, khả tài chính lành mạnh.
Hoạt động cho vay chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì vậy, cho vay với những khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có lịch sử vay nợ tốt sẽ giúp Ngân hàng giảm thiểu được nhiều rủi ro, giảm bớt chi phí trong quá trình thẩm định và giám sát việc thực hiện dự án của khách hàng. Chọn lọc và phân loại khách hàng nhằm xác định những khách hàng truyền thống của ngân hàng là một trong những vấn đề cần thiết. Bên cạnh đó cũng cần có những ưu đãi đối với những khách hàng truyền thống của Ngân hàng như giảm lãi suất cho vay, lới lỏng trong các điều kiện vầ tài sản đảm bảo,....., như vậy sẽ thu hút được thêm nhiều khách hàng tôt, tăng cường được tính an toàn cho sản phẩm đầu ra của Ngân hàng.
3.1.6. Tổng kết, đánh giá kết quả tài trợ dự án.
Đây là vấn đề mà nhiều ngân hàng vẫn còn xem nhẹ. Việc tổng kết, đánh giá kết quả của hoạt động tài trợ dự án sẽ giúp cho các cán bộ thẩm định của ngân hàng đúc rút được thêm nhiều kinh nghiệm sau mỗi lần tài trợ dự án. Qua đó cán bộ thẩm định của ngân hàng sẽ có thên nhiều kiến thức và kinh nghiêm để thực hiện các dự án sau tốt hơn.
3.2. Những kiến nghị
3.2.1. Kiến nghị với Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.
Thẩm định dự án là một yếu tố quan trọng quyết định tới chất lượng tín dụng, tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động của Ngân hàng, do đó Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam cần tổng hợp, nghiên cứu và hoàn thiện quy trình nghiệp vụ một cách chi tiết, rõ ràng hơn nữa nhằm hướng dẫn và tạo điều kiên thuận lợi cho các cán bộ thẩm định thực hiện công việc nhanh chóng và dễ dàng hơn trong quá trình thẩm định.
Cần nghiên cứu thiết lập hệ thống thông tin, các chỉ tiêu trung bình ngành của từng ngành cụ thể, giúp cho các cán bộ thẩm định dễ so sánh, đối chiếu, đưa ra được những quyết định chính xác hơn.
- Nâng cao quyền tự quyết cho các chi nhánh nhằm giúp các chi nhánh chủ động hơn trong quá trình thẩm định dự án và cho vay. Giảm bớt những thủ tục rườm ra,không cần thiết, tạo điều kiện cho quá trình thẩm định được nhanh chóng, mau lẹ.
3.2.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan.
- Ngân hàng Nhà nước cần kết hợp chặt chẽ với các bộ ngành có liên quan để xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật hiện đại, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế và tốc độ phát triển của từng ngành, từng địa phương. Từ đó các Ngân hàng thương mại có cơ sở để hoàn thiện tốt hơn công tác thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng mình.
- Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng của trung tâm tín dụng (CIC) cho xứng đáng với chức năng là nơi cung cấp thông tín dụng có chất lượng và độ tin cậy cao, phù hợp với thực tiễn của thị trường.
- Ngân hàng nhà nước và các cơ quan hữu quan cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ hơn, tránh tình trạng chung chung gây khó khăn trong việc thực hiện pháp luật và giải quyết tranh chấp, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp “ lách luật ” để thực hiện những việc gây bất lợi cho ngân hàng và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
- Cần tạo lập môi trường pháp lý đồng bộ và ổn định trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, hoạt động tín dụng ngân hàng bằng việc hàon thành cơ chế chính sách pháp luật nhà nước thông qua việc rà soát các van bản pháp lý hiện hành, huỷ bỏ nhữn văn bản pháp lý không còn phù hợp, những quy định chồng chéo gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng trong quá trình hoạt động.
- Ngân hàng Nhà nước và các bộ ngành cần thường xuyên thu thập và công bố những thông tin về tình hình hoạt động của ngành mình, xây dựng những chỉ tiêu ngành, đơn giá chuẩn cho các sản phẩm dịch vụ của ngành ở thời điểm hiện tại và dự kiến để các Ngân hàng thương mại thuận lợi hơn cho việc xác định chi phí, doanh thu của dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và thẩm định dự án.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều các dự án được xây dựng càng nhiều với quy mô ngày càn lớn. Hiện nay nước ta đang trong quá trình thực hiện Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, cùng với quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, có rất nhiều các dự án kinh tế được xây dựng và thực hiện. Chính vì vậy vai trò của công tác thẩm định dự án ngày càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Nó không chỉ giúp cho các Ngân hàng thương mại đạt đựoc kết quả cao trong hoạt động kinh doanh mà còn góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước. Với Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội sau 7 năm thành lập và hoạt động, với những mục tiêu, chính sách hoạt động đúng đắn, với sự nỗ lực của cán bộ, nhân viên Ngân hàng Cùng với sự giúp đỡ của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đã giúp Ngân hàng đạt được những thành tựu đáng kể trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định dự án nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và thu nhập của Ngân hàng. Năm 2007 Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội đã được Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đánh giá là một trong những chi nhấnh hoạt động hiệu quả nhất, được các ngân hàng bạn đánh giá cao,khách hàng tin tưởng. Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội còn chiếm một thị phần lớn trong hoạt động huy động vốn và cho vay trên thị trường. Tuy còn có nhiều hạnh chế chưa thể khác phục trong hoạt động của mình, nhưng với những chính sách phát triển mới, cùng với sự tận tâm của cán bộ và nhân viên chắc chắn trong Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Chi Nhánh Nam Hà Nội sẽ khắc phục được những khó khăn, hạn chế và sẽ đạt được nhiều thành công lớn trong những thời kỳ hoạt động tiếp theo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7619.doc