Hai là, thường xuyên phổ biến, quán
triệt nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức
cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung và TAND cấp huyện nói
riêng về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
áp dụng các BPNC, đồng thời bồi dưỡng
nâng cao năng lực áp dụng biện pháp này
trong quá trình tham gia giải quyết các vụ
án hình sự. Theo đó, trước khi áp dụng
cần nghiên cứu kỹ các căn cứ áp dụng
BPNC hay áp dụng biện pháp khác. Chỉ
áp dụng các BPNC trong xét xử khi có căn
cứ xác định bị cáo có thể bỏ trốn, cản trở
điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội
hoặc không có nơi cư trú cố định; cần xác
định rõ trường hợp nào không áp dụng
nhằm hạn chế việc lạm dụng các BPNC
trong thực tiễn.
Ba là, tăng cường công tác chỉ đạo và
kiểm sát, kiểm tra việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ các BPNC trong xét xử và xử lý
nghiêm minh, kịp thời những vi phạm xảy
ra trong áp dụng các biện pháp này. Theo
đó, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là của
TAND tỉnh, Ban Nội chính, Ủy ban kiểm
tra các cấp nhằm tăng cường giám sát, chỉ
đạo để các cơ quan tiến hành tố tụng đi
đúng hướng. Cùng với đó, VKSND cần
kiểm sát chặt chẽ hơn các hoạt động của
TAND cấp huyện trong việc áp dụng các
BPNC theo quy định của pháp luật. Mặt
khác, các cơ quan tiến hành tố tụng cần
cụ thể, minh bạch các thủ tục tố tụng theo
quy định nhằm tăng hiệu quả giám sát
của người dân đối với quá trình áp dụng
biện pháp ngăn ngặn trong xét xử vụ án
hình sự.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giải quyết vụ án hình sự của tòa án nhân dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN...
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
NGUYỄN BÁ KIÊN*
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giải quyết vụ án hình sự đóng vai trò quan
trọng, góp phần kịp thời ngăn chặn tội phạm, chặn đứng hành vi trốn tránh pháp luật của
những người bị tình nghi, bị cáo và đảm bảo thi hành án. Việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn của Tòa án nói chung và Toà án nhân dân cấp huyện nói riêng được tiến hành tại
phiên tòa và do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện. Bài viết đưa ra một số giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn của Tòa án nhân dân cấp huyện,
tỉnh Nghệ An.
Từ khóa: Biện pháp ngăn chặn, vụ án hình sự, Tòa án nhân dân.
Ngày nhận bài: 18/7/2020; Biên tập xong: 30/7/2020; Duyệt đăng: 10/8/2020.
Applying preventive measures in handling over criminal cases plays a vital role
that contributes to precluding crimes, preventing legal evasions of defendants or the
accused and ensuring the enforcement of sentences. Carried out by Judges and the
Jury, the Courts, in general, and the District-level People’s Courts, in particular, apply
preventive measures at the trial. The article proposes some solutions to enhance the
effectivieness of applying preventive measures at District-level People’s Courts, Nghe
An province.
Keywords: Preventive measures, criminal cases, the People’s Courts.
Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định 08 biện pháp ngăn chặn
(BPNC) gồm: Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp; bắt; tạm giữ; tạm giam; bảo
lĩnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi
cư trú; tạm hoãn xuất cảnh. Về bản chất,
BPNC là các biện pháp mang tính cưỡng
chế do các cơ quan, người có thẩm quyền
áp dụng theo trình tự, thủ tục tố tụng hình
sự. Đối tượng áp dụng các biện pháp này
là người bị tình nghi, bị cáo, người bị kết
án trong các vụ án hình sự, nhằm ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành động
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc thi hành án.
Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện
là một chủ thể thường xuyên áp dụng các
BPNC nhằm hỗ trợ quá trình giải quyết
các vụ án hình sự. Tuy nhiên, khác với
áp dụng BPNC của các cơ quan có thẩm
quyền khác, việc áp dụng các BPNC của
Tòa án nói chung và TAND cấp huyện
nói riêng được tiến hành tại phiên tòa, do
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến
hành. Việc áp dụng các BPNC phải được
thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền; theo
đó, cần thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ
(đã được kiểm tra xác minh) để nghiên
cứu. Bên cạnh đó, khi TAND cấp huyện
áp dụng các BPNC, đòi hỏi Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân phải là những người
có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững
vàng, đồng thời phải đảm bảo tính bất
ngờ, khách quan và chính xác nhằm đạt
hiệu quả cao nhất; không để đối tượng
biết, bỏ trốn, tiêu huỷ chứng cứ hoặc gây
cản trở quá trình giải quyết vụ án1.
* Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
NGUYỄN BÁ KIÊN
39Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
Hiện nay, tỉnh Nghệ An có 20 TAND
cấp huyện (01 Tòa án thành phố Vinh, 02
Tòa án thị xã và 17 Tòa án cấp huyện). Từ
năm 2015 đến hết năm 2019, TAND cấp
huyện, tỉnh Nghệ An đã thụ lý giải quyết
9.858 vụ, với 15.976 bị cáo; trong đó, hầu
hết các vụ án cũng như số bị cáo đã xét
xử đều tăng qua mỗi năm1. Điều này cho
thấy tình hình tội phạm và vi phạm pháp
luật hình sự trên địa bàn tỉnh Nghệ An
có xu hướng gia tăng và diễn biến phức
tạp. Mặc dù số vụ án và bị cáo thụ lý hàng
năm đều tăng nhưng tiến độ giải quyết,
xét xử các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện vẫn đạt tỷ lệ cao. Tính bình quân
trong 5 năm (2015 - 2019), tỷ lệ xét xử đạt
98% về số vụ; vượt từ 3 - 4% về số vụ và
số bị cáo xét xử so với chỉ tiêu được giao
hàng năm. Về cơ bản, công tác xét xử các
vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện, tỉnh Nghệ An đạt chất lượng tốt,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật; không có án oan, bỏ lọt tội phạm
hoặc để quá thời hạn luật định. Đặc biệt,
những vụ án trọng điểm phức tạp, được
dư luận quan tâm đều được cấp sơ thẩm
chuẩn bị kỹ về nội dung, có đường lối xét
xử đúng đắn. TAND chủ động phối hợp
với các cơ quan hữu quan và chính quyền
địa phương tổ chức xét xử lưu động và án
điểm 1.052 vụ án. Các phán quyết đưa ra
được đông đảo nhân dân đồng tình ủng
hộ, đáp ứng được yêu cầu tuyên truyền,
giáo dục pháp luật.
Góp phần làm nên những kết quả quan
trọng và đáng khích lệ đó, trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự, TAND cấp
huyện, tỉnh Nghệ An thường xuyên tiến
hành các BPNC và phát huy cao vai trò,
hiệu quả của biện pháp này. Trong đó nổi
lên một số vấn đề sau:
- Về áp dụng biện pháp tạm giam: Đây là
BPNC được sử dụng thường xuyên nhất
(chiếm 30,38% số vụ án hình sự thụ lý giải
1 Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
quyết), do có tính nghiêm khắc nhất, giúp
đảm bảo “an toàn” cho quá trình điều tra,
truy tố, xét xử, nhất là hạn chế đến mức
thấp nhất nguy cơ bị can, bị cáo bỏ trốn
hoặc gây khó khăn, cản trở cho các cơ quan
tiến hành tố tụng hoặc tiếp tục phạm tội. Số
trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam
có sự giảm nhẹ qua các năm, đồng thời số
trường hợp có quyết định hủy bỏ biện pháp
này chiếm tỉ lệ nhỏ, chỉ từ 0,01% - 0,02% và
chỉ những trường hợp thực sự cần thiết, Tòa
án mới áp dụng biện pháp này. TAND cấp
huyện, tỉnh Nghệ An đã chủ động phối hợp
nghiên cứu kỹ từng trường hợp áp dụng
biện pháp tạm giam để tránh tình trạng
phải ra quyết định hủy bỏ biện pháp này.
Tuy nhiên, số trường hợp TAND tiến hành
thay đổi biện pháp tạm giam hàng năm vẫn
chiếm tỷ lệ khá cao, bởi lẽ khi Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) chuyển hồ sơ vụ
án sang TAND đề nghị truy tố cũng đồng
nghĩa với quá trình điều tra đã cơ bản hoàn
tất, các căn cứ tạm giam đã thay đổi theo
tình hình thực tế, vì vậy không cần thiết
áp dụng biện pháp tạm giam nữa. Do đó,
TAND cấp huyện, tỉnh Nghệ An đã quyết
định thay đổi biện pháp tạm giam và áp
dụng BPNC khác với họ.
- Về áp dụng biện pháp bắt người: Từ năm
2015 đến năm 2019, biện pháp này được
TAND cấp huyện, tỉnh Nghệ An sử dụng
khá thường xuyên (chiếm 25,8% số vụ án
hình sự thụ lý giải quyết), trong đó, áp
dụng biện pháp bắt người trong trường
hợp quả tang nhiều nhất (tăng nhẹ qua
các năm), tiếp sau đó là bắt khẩn cấp, bắt
người phạm tội tự thú, đầu thú và bắt
người có quyết định truy nã. Trước khi áp
dụng biện pháp bắt người, TAND đã tiến
hành nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, hành vi
phạm tội của các đối tượng và các quy
định pháp luật có liên quan, do vậy, số đối
tượng bị bắt sau đó trả tự do chiếm tỉ lệ rất
ít. Điển hình, năm 2017 không có trường
hợp nào, năm 2018 có 01 trường hợp, năm
2019 có 02 trường hợp. Đặc biệt, do có sự
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN...
40 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến
hành tố tụng khác nên không có trường
hợp nào VKSND không phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp.
- Về áp dụng biện pháp bảo lĩnh: Đối với
biện pháp bảo lĩnh, các TAND cấp huyện,
tỉnh Nghệ An thường áp dụng biện pháp
bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam
do VKSND cùng cấp áp dụng trước đó
trong giai đoạn xem xét hồ sơ vụ án hình
sự phục vụ truy tố các bị can ra trước pháp
luật. Biện pháp này thường được TAND
áp dụng với các bị can có nhân thân tốt,
có nơi cư trú rõ ràng và trong trường hợp
tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật vụ án và
hành vi phạm tội của các bị can đã được
thu thập đầy đủ trong quá trình điều tra.
Tuy nhiên, tỉ lệ áp dụng vẫn chiếm tỉ lệ
nhỏ, mới chỉ đạt 11,4% số vụ án hình sự
thụ lý giải quyết.
Ngoài ra, do đặc trưng riêng của giai
đoạn xét xử và đặc điểm các vụ án mà cấp
huyện thụ lý nên những năm qua TAND
cấp huyện, tỉnh Nghệ An không áp dụng
các BPNC khác như: Tạm giữ, tạm hoãn
xuất cảnh.
Từ thực tiễn áp dụng các BPNC của
TAND cấp huyện, tỉnh Nghệ An tiến hành
những năm qua thấy rằng, việc áp dụng
BPNC đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
TAND đã áp dụng khá thường xuyên,
linh hoạt, hiệu quả và tuân thủ chặt chẽ
các quy định pháp luật về áp dụng các
BPNC đối với các bị cáo trong vụ án hình
sự, qua đó hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội
phạm; bảo đảm tốt quyền và lợi ích hợp
pháp của những người tham gia tố tụng,
đặc biệt là người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo; bảo đảm tính minh bạch,
khách quan trong tố tụng hình sự. Các vụ
án hình sự cơ bản được giải quyết đúng
trình tự, thủ tục, thời hạn; việc áp dụng
biện pháp bắt, tạm giam được tiến hành
thận trọng, đã từng bước khắc phục tình
trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giam;
tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm giam.
Tuy nhiên, quá trình áp dụng các BPNC
vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót nhất
định. Điển hình như: Một số Thẩm phán
và cán bộ Tòa án chưa nhận thức sâu sắc ý
nghĩa, tầm quan trọng của các BPNC cũng
như yêu cầu cần áp dụng các biện pháp
này trong giải quyết vụ án hình sự; Một số
trường hợp áp dụng chưa kịp thời, hợp lý,
chưa đáp ứng toàn diện các điều kiện về
căn cứ, đối tượng, trình tự thủ tục, đôi khi
vẫn còn lạm dụng áp dụng biện pháp tạm
giam; Quá trình áp dụng các BPNC, nhất
là biện pháp tạm giam đôi khi còn tùy tiện,
thiếu căn cứ, chưa đúng trình tự thủ tục;
Sử dụng biện pháp tạm giam như một biện
pháp nghiệp vụ chính trong khi biện pháp
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm ít được áp
dụng, ít phát huy hiệu quả trong thực tiễn;
Quy định của pháp luật còn nhiều vướng
mắc, bất cập dẫn đến việc áp dụng pháp
luật còn gặp khó khăn.
Những hạn chế, thiếu sót nêu trên xuất
phát từ một số nguyên nhân sau: Địa bàn
địa lý, tự nhiên tỉnh Nghệ An rất rộng, có
sự chênh lệch về điều kiện cơ sở vật chất
giữa các Thành phố, thị xã với các huyện
miền núi; Trình độ áp dụng pháp luật của
các cán bộ tư pháp còn hạn chế; Tỷ lệ các
vụ án hình sự xảy ra tại một số huyện
không nhiều dẫn đến việc va chạm, cọ
sát trong công việc chưa thường xuyên;
Một số Thẩm phán chưa nhận thức đầy
đủ, đúng đắn vai trò, vị trí, thẩm quyền
của mình trong việc áp dụng các BPNC;
Công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong điều tra vụ án hình sự
nói chung và trong áp dụng các BPNC nói
riêng chưa đồng bộ, chưa đảm bảo phục
vụ tốt cho công tác áp dụng BPNC nhằm
giải quyết vụ án hình sự của TAND cấp
huyện, tỉnh Nghệ An và thi hành án.
Đặc biệt, một số quy định của pháp
luật liên quan đến áp dụng các BPNC
NGUYỄN BÁ KIÊN
41Số 04 - 2020 Khoa học Kiểm sát
chưa rõ ràng, thống nhất nên khó áp
dụng, cụ thể như:
- Khoản 1, Điều 118 BLTTHS năm
2015 quy định thời hạn tạm giữ không
được quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều
tra nhận người bị bắt. Như vậy, thời gian
dẫn giải, chờ phê chuẩn của Viện Kiểm sát
chưa có quy định cụ thể, dẫn đến bất lợi
cho người bị bắt. Hơn nữa, trong một số
trường hợp, Cơ quan điều tra ra lệnh tạm
giữ từ khi bắt người, nhưng bắt và tạm
giữ là hai biện pháp độc lập, có tính kế
tiếp nhau nên không được tính thời gian
này vào thời gian tạm giữ.
- Quy định biện pháp bảo lĩnh chỉ nêu
cá nhân hay tổ chức phải làm giấy cam
đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm
tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Tòa án nhưng không
đề cập đến trách nhiệm của cá nhân, tổ
chức nếu vi phạm cam kết. Điều này dẫn
đến nhiều trường hợp vi phạm cam đoan
và bị can bị áp dụng biện pháp bắt tạm
giam, nhưng cá nhân, tổ chức không phải
chịu bất kỳ chế tài nào.
Những hạn chế, thiếu sót trên đã ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả
áp dụng các BPNC nói riêng và quá trình
giải quyết các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện nói chung; đến bảo đảm quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân; gây ra những hậu quả không đáng
có, làm giảm chất lượng tiến hành hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Thời gian tới, do
tác động của tình hình tội phạm thế giới,
khu vực và các tỉnh khác trong cả nước,
tình hình hoạt động của các loại tội phạm
trên địa bàn tỉnh Nghệ An sẽ tiếp tục diễn
biến phức tạp, có xu hướng gia tăng cả về
tính chất và mức độ. Điều đó dẫn đến khối
lượng công việc của TAND cấp huyện sẽ
ngày càng nhiều và khó khăn hơn. Vì vậy,
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ
án hình sự nói chung, một trong những
nội dung quan trọng cần tập trung là phải
nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng các
BPNC của TAND cấp huyện. Trong đó, tập
trung làm tốt một số nội dung sau:
Một là, đề nghị các cơ quan có thẩm
quyền nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa và
hoàn thiện các văn bản, quy định pháp
luật liên quan đến áp dụng BPNC trong
giải quyết vụ án hình sự để các cơ quan
tiến hành tố tụng nói chung và TAND
cấp huyện nói riêng có cơ sở, căn cứ vững
chắc áp dụng. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với trường hợp xét phê
chuẩn của VKSND, khoản 5, Điều 119
BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong thời
hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm
giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên
quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn”. Việc quy định thời hạn nêu
trên là phù hợp với tình hình thực tiễn,
góp phần đảm bảo việc giải quyết vụ án
được thực hiện kịp thời, nhanh chóng.
Tuy nhiên, đối với các vụ án có tính chất
phức tạp, có nhiều bị can, bị cáo nhưng
các căn cứ để ra lệnh tạm giam chưa đầy
đủ và VKS xét thấy cần được củng cố
thêm về tài liệu, chứng cứ thì mới xét phê
chuẩn. Vấn đề bất cập ở đây là nếu việc
xác minh, củng cố tài liệu này quá thời
hạn 03 ngày như quy định pháp luật về
thời hạn xét phê chuẩn thì sẽ không đảm
bảo việc thực hiện quyền năng này của
VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu theo hướng
tăng thời hạn xét phê chuẩn cho VKS
trong những trường hợp hồ sơ vụ án phức
tạp, cần củng cố thêm tài liệu, chứng cứ.
Việc quy định này cũng kéo theo trường
hợp có thể kéo dài thêm thời hạn xét phê
chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh bắt
bị can để tạm giam. Mặc dù quy định này
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN...
42 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2020
làm tăng thêm thời gian giải quyết vụ án
nhưng để đảm bảo tính chính xác trong
việc áp dụng biện pháp tạm giam cũng
như đảm bảo quyền bất khả xâm phạm
về tự do của công dân thì nên ghi nhận
quy định này trong BLTTHS.
Thứ hai, để đảm bảo tính chặt chẽ
trong áp dụng biện pháp bảo lĩnh, cần
quy định rõ các căn cứ áp dụng. Theo đó,
cần làm rõ tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội đến đâu
thì không áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
Thực chất của việc này là hướng đến
phân loại những loại tội phạm nào thì
cho phép bảo lĩnh và loại tội phạm nào
thì không cho bảo lĩnh. Người nhận bảo
lĩnh có thể là luật sư, người bào chữa cho
bị can, bị cáo hoặc là cá nhân cư trú cùng
địa phương với bị can, bị cáo nhằm bảo
đảm sự giám sát xuyên suốt và kịp thời
báo cáo ngay cho cơ quan chức năng khi
phát hiện người được bảo lĩnh có biểu
hiện vi phạm cam đoan.
Đồng thời, cần quy định cụ thể các
điều kiện đối với người nhận bảo lĩnh.
Nếu họ vi phạm các nghĩa vụ cam đoan
để người được bảo lĩnh thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật thì họ có thể bị phạt
tiền hoặc các biện pháp xử lý khác phù
hợp. Cần quy định về việc hạn chế bảo
lĩnh, theo đó chỉ áp dụng biện pháp này
khi có các điều kiện như: Bị can, bị cáo
phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng;
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phụ
nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36
tháng tuổi; người tàn tật nặng hoặc đặc
biệt nặng, người già, bệnh nặng, người
chưa thành niên. Đồng thời, phải có căn
cứ xác định sau khi được bảo lĩnh, bị can,
bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ
quan có thẩm quyền và việc cho họ được
bảo lĩnh không ảnh hưởng đến tình hình
an ninh trật tự tại địa phương. Không áp
dụng biện pháp bảo lĩnh với bị can, bị
cáo đã có tiền án, chưa được xóa án tích
mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng; bị can, bị cáo bị bắt
theo lệnh truy nã; phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp; người nghiện ma túy;
hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây
ảnh hưởng xấu trong dư luận xã hội.
Hai là, thường xuyên phổ biến, quán
triệt nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức
cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung và TAND cấp huyện nói
riêng về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
áp dụng các BPNC, đồng thời bồi dưỡng
nâng cao năng lực áp dụng biện pháp này
trong quá trình tham gia giải quyết các vụ
án hình sự. Theo đó, trước khi áp dụng
cần nghiên cứu kỹ các căn cứ áp dụng
BPNC hay áp dụng biện pháp khác. Chỉ
áp dụng các BPNC trong xét xử khi có căn
cứ xác định bị cáo có thể bỏ trốn, cản trở
điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội
hoặc không có nơi cư trú cố định; cần xác
định rõ trường hợp nào không áp dụng
nhằm hạn chế việc lạm dụng các BPNC
trong thực tiễn.
Ba là, tăng cường công tác chỉ đạo và
kiểm sát, kiểm tra việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ các BPNC trong xét xử và xử lý
nghiêm minh, kịp thời những vi phạm xảy
ra trong áp dụng các biện pháp này. Theo
đó, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là của
TAND tỉnh, Ban Nội chính, Ủy ban kiểm
tra các cấp nhằm tăng cường giám sát, chỉ
đạo để các cơ quan tiến hành tố tụng đi
đúng hướng. Cùng với đó, VKSND cần
kiểm sát chặt chẽ hơn các hoạt động của
TAND cấp huyện trong việc áp dụng các
BPNC theo quy định của pháp luật. Mặt
khác, các cơ quan tiến hành tố tụng cần
cụ thể, minh bạch các thủ tục tố tụng theo
quy định nhằm tăng hiệu quả giám sát
của người dân đối với quá trình áp dụng
biện pháp ngăn ngặn trong xét xử vụ án
hình sự./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_hieu_qua_ap_dung_cac_bien_phap_ngan_chan_trong_giai.pdf