Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng đợc vận chuyển từ địa điểm này đến một địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong phạm vi một chuyến. Hợp đồng bảo hiểm chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm do người bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng bảo hiểm chuyến đầy đủ. Nội dung gồm hai phần: mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm. Mặt trước thường ghi các chi tiết về hàng, tàu, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều lệ hay các quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm chuyến chủ yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm và nơi ký kết hợp đồng bảo hiểm;
- Tên, địa chỉ, số tài khoản của người bảo hiểm và người được bảo hiểm;
- Tên hàng hoá được bảo hiểm, quy cách, số lợng, chủng loại .;
- Tên tàu, số hiệu, cờ, dung tích của tàu vận chuyển.;
- Cảng khởi hành, cảng đích, cảng chuyển tải (nếu có);
- Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm;
- Giám định viên và phương thức bồi thường.
102 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược tái đi và theo như quy định công ty phải tái bảo hiểm bắt buộc 20% phần vượt mức cho công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare) trước khi tái bảo hiểm phần này ra nước ngoài, nhằm đảm bảo ổn định quá trình kinh doanh của công ty và đáp ứng đầy đủ yêu cầu của người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, công ty còn thực hiện cả hoạt động tái bảo hiểm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung. Để đánh giá được một cách cụ thể ta phân tích bảng số liệu sau:
Qua bảng số liệu trên cho thấy, mức phí giữ lại trong tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở PJICO rất ổn định và có xu hướng tăng dần qua các năm, ngoại trừ hai năm 1996 và năm 1999 tỷ lệ giữ lại lần lượt là 79,01% và 81,42% là do trong 2 năm này tình hình tổn thất có diễn biến hết sức phức tạp, một số vụ tổn thất xảy ra làm thiệt hại khối lượng hàng hoá với giá trị rất lớn, tỷ lệ tổn thất có nguy cơ tăng cao. Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định hoạt động kinh doanh của mình công ty đã phải chuyển nhượng cho các nhà nhận tái bảo hiểm với mức phí khoảng 1,2 tỷ đồng năm 1996 và trên 3,4 tỷ năm 1999 đồng thời tỷ lệ thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm trung bình 1995-2000 cũng đạt sấp xỉ 53% so với tổng phí nhượng tái. Tỷ lệ phí giữ lại ở mức bình quân từ 1995- 2000 là 84,4%, đây là một tỷ lệ tương đối cao so với mức trung bình của toàn bộ thị trường và một số công ty bảo hiểm trong nước. Điều này chứng tỏ rằng khả năng tài chính của công ty rất ổn định và không ngừng được củng cố nhờ vào kết quả hoạt động kinh doanh khá cao hàng năm. Cùng với mức phí giữ lại ngày càng nhiều, PJICO cũng không ngần ngại các khoản thu phí nhận tái bảo hiểm hàng năm, trừ năm 1999 công ty phải chi trả bồi thường nhận tái bảo hiểm trung bình từ năm 1995-2000 chỉ khoảng 66,5% so với tổng phí nhận tái bảo hiểm. Qua đây cũng thấy được sự linh hoạt, nhạy bén trong hoạt động tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO. Để đạt được kết quả trên, PJICO đã phải không ngừng chú trọng nâng cao vai trò, chất lượng của công tác nghiên cứu, tính toán các chỉ tiêu trong hoạt động tái bảo hiểm sao cho hợp lý và mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Đông thời được sự ủng hộ của các cơ quan ban ngành có liên quan cũng như sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ của các công ty nhận tái bảo hiểm trong và ngoài nước đặc biệt là một số công ty tái bảo hiểm lớn có uy tín trên thế giới của Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Thuỵ Sĩ. PJICO đã tạo lập được vị thế của mình trong hoạt động tái bảo hiểm nói riêng và kinh doanh bảo hiểm nói chung trên thị trường bảo hiểm.
III. đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO.
Trong nền sản xuất hàng hoá có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các công ty, các doanh nghiệp còn luôn phải đối mặt với cạnh tranh. Muốn thắng lợi trong cạnh tranh, một vấn đề quan trọng mà bất cứ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào cũng phải đều quan tâm làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh và hoạt động dịch vụ. Vì giảm một đông chi phí cũng có nghĩa là tăng một đồng lợi. Hơn nữa, các công ty, các doanh nghiệp sẽ quyết định mức sản xuất và tiêu thụ một loạt hàng hoá hay dịch vụ nào đó, tuỳ theo chi phí và giá bán hay hàng hoá, dịch vụ đó. Hơn nữa, vấn đề chi phí và lợi nhuận không chỉ là sự quan tâm của các doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của người tiêu dùng và của toàn xã hội nói chung. Điều đó cũng có nghĩa là phải quan tâm đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Những vấn đề này cũng chính là mối quan tâm hàng đầu của các công ty bảo hiểm. Bởi vì, chi phí, lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh có quan hệ với toàn bộ quát trình hoạt động của các công ty, quyết định công ty tồn tại, phát triển hay phá sản. Do đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh luôn là vấn đề mang tính tất yếu khách quan của mỗi công ty bảo hiểm.
Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động (6/1995) PJICO đã đạt được những kết quả hết sức to lớn, đáp ứng đuợc những ngyện vọng của các cổ đông tham gia góp vốn, đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm ngày càng phong phú của khách hàng cũng như làm tăng thêm sức mạnh trong công cuộc xây dựng, phát triển nền kinh tế nói chung và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói riêng. Trong những thành tựu mà PJICO đạt được ấy, có sự đóng góp không nhỏ bởi những kết quả mà quá trình kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển thu được trong thời gian qua. Những kết quả này được xem xét, phân tích ở các phần trên của chuyên đề và trong phần này sẽ đi sâu nghiên cứu, phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ để từ đó phần nào thấy được hiệu quả kinh doanh bảo hiểm của toàn công ty.
Xét trên phương diện thống kê, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung và nhiệm vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển nói riêng kông thể dùng một chỉ tiêu. Bởi vì, nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và phức tạp. Tính chất phứp tạp thể hiện ngay ở bản chất mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Chi phí với tư cách là những yếu tố đầu vào của hoạt động kinh doanh rất đa dạng và bao gồm nhiều loại. ở góc độ kinh tế vi mô, nếu hiểu theo nghĩa rộng, chi phí bao gồm toàn bộ nguồn nhân tài, vật lực huy động vào sản xuất kinh doanh. Còn đại lượng kết quả lại đuợc thể hiện ở nhiều chỉ tiêu khác nhau. Việc tính toán và xác định mỗi chỉ tiêu, việc lựa chọn chỉ tiêu nào để phản ánh hiệu quả là những vấn đề phứp tạp. Vì thế, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ tính theo doanh thu và tính theo lợi nhuận so với tổng chi phí, chi ra trong kỳ (năm).
Giả sử:
* Tổng doanh thu bao gồm doanh thu chi phí bảo hiểm gốc và doanh thu khác. Trong đó doanh thu khác có các khoản sau:
Phí nhận tái bảo hiểm
Doanh thu đầu tư
Thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm
Thu đòi người thứ ba
Các khoản thu khác.
* Tổng chi phí bao gồm chi bồi thường bảo hiểm gốc và chi phí khác. Trong đó chi phí khác có các khoản sau:
Chi nhượng tái bảo hiểm
Chi quỹ dự phòng
Chi hoa hồng và môi giới phí
Chi phí quản lý
Chi thuế
Các khoản chi khác
và chỉ coi lợi nhuận được tính đơn thuần theo công thức:
LN = SDT - SCF
Ta có:
Chỉ tiêu hiệu quả tính theo doanh thu
=
Tổng doanh thu
Tổng chi phí
Chỉ tiêu hiệu quả tính theo lợi nhuận
=
Tổng lợi nhuận
Tổng chi phí
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO trong những năm vừa qua, cần xem xét bảng số liệu sau:
Qua những số liệu tính toán được ở trên, có thể thấy rằng kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển bằng đường biển ở PJICO nhìn chung là tương đối cao nhưng đang ngày càng có xu hướng giảm dần.
Xét riêng với năm 1995, là năm có chỉ tiêu hiệu quả tính theo doanh thu và lợi nhuận cao nhất trong 6 năm vừa qua. Chỉ tiêu cho thấy được hiệu quả sử dụng vốn của PJICO đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển: một đồng chi phí bỏ ra thu được 1,36 đồng doanh thu và tạo ra được 0,36 đồng lợi nhuận. Chỉ trong 6 tháng cuối năm đi vào hoạt động, công ty đã thu được 628.111 nghìn đồng lợi nhuận từ nghiệp vụ này. Điều này chứng tỏ rằng đây là một trong những nghiệp vụ mũi nhọn của công ty cần được quan tâm và chú trọng đúng với tầm quan trọng chiến lược của nó. Nếu xét trong vòng 6 năm qua, những kết quả kinh doanh nghiệp vụ mà PJICO đạt được 6 tháng cuối năm 1995 có vai trò rất to lớn trong chiến lược xây dựng và phát triển công ty, góp phần làm tăng kết quả và hiệu quả kinh doanh, phần nào đã tạo ra được sự động viên, khuyến khích tinh thần đối với toàn thể cán bộ công nhân viên công ty cũng như tạo ra được lòng tin với các cổ đông, các đối tác và uy tín đối với khách hàng tham gia bảo hiểm. Đạt được những thành tựu như vậy không thể không kể đến nguyên do của nó. Trước hết có thể thấy rằng, năm 1995 tình hình kinh tế trong nước có nhiều chuyển biến tích cực với tốc độ tăng trưởng GDP 9,5 % cao nhất giai đoạn 1986-1995, hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển về chiều rộng và không ngừng hoàn thiện về chiều sâu, kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu tăng nhanh, ngành vận tải biển cũng được chú trọng đầu tư phát triển. Là một nghiệp vụ bảo hiểm chịu ảnh hưởng lớn bởi điều kiện kinh tế xã hội và hoạt động ngoại thương như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển thì rõ ràng năm 1995 PJICO đã tận dụng có hiệu quả được những thuận lợi và tiền đề tích cực ở trên. Bên cạnh đó, là một công ty mới được thành lập, hoạt động kinh doanh một lĩnh vực còn khá mới mẻ và đầy triển vọng ở Việt Nam, PJICO đó nhận được sự ủng hộ rất nhiệt tình của các Bộ, Ngành, sự hợp tác chặt chẽ của các tổ chức có liên quan và đặc biệt là của các khách hàng tham gia bảo hiểm trong cổ đông cùng với sự phấn đấu nỗ lực, quyết tâm vượt khó xây dựng công ty ngày càng vững mạnh về mọi mặt của toàn thể các cán bộ công nhân viên. Mặt khác, có được chỉ tiêu hiệu quả cao như vậy một phần cũng là do cơ cấu các khoản doanh thu và chi phí của công ty rất hợp lý, năm 1995 là năm có tỷ lệ bồi thường thấp nhất trong cả giai đoạn (38,53%) chỉ chiếm 41% tổng chi phí mà tổng doanh thu lại khá cao. Chính vì vậy hiệu quả năm 1995 đạt ngoài dự kiến của công ty.
Sang năm 1996, chỉ tiêu hiệu quả theo doanh thu của nghiệp vụ giảm xuống rất nhanh, một đồng chi phí bỏ ra chỉ thu được 1,16 đồng doanh thu và tạo ra được 0,16 đồng lợi nhuận thấp hơn nhiều năm 1995, điều này cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng chi phí là thấp hơn so với tiềm năng thực sự của nó mặc dù trong năm 1996 điều kiện kinh tế xã hội vẫn rất ổn định, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vẫn tiếp tục gia tăng thuận lợi cho công tác khai thác hợp đồng, thu hút khách hàng và tăng doanh thu phí. Là năm có tỷ lệ bồi thường cao thứ hai sau năm 1999 với mức chi bồi thường bảo hiểm gốc lên tới 4.951.883 nghìn đồng chiếm 79,3% tổng chi tăng 258,1% so với năm 1995 trong khi đó tốc độ tăng của tổng doanh thu là 205,2% dẫn tới lợi nhuận chỉ tăng 58,2% hay tăng 365.828 nghìn đồng. Có sự biến động lớn như vậy là vì trong năm xảy ra một số vụ tổn thất lớn, tỷ lệ bồi thường lên tới 87,67%. Phải chăng công tác đánh giá rủi ro ngay từ khâu khai thác hay công tác giám định, đề phòng và hạn chế tổn thất vẫn chưa được hoàn thiện và triển khai thực hiện kịp thời, chặt chẽ. Chính vì vậy hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ trong năm chỉ đạt ở mức trung bình không đạt được kế hoạch công ty đề ra.
Năm 1997 tình hình kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO có khả quan hơn, chỉ tiêu hiệu quả theo doanh thu tăng lên 1,18 cao hơn năm 1996. Tốc độ tăng tổng doanh thu là 45,3% hay 605.346 nghìn đồng cao hơn tốc độ tổng chi phí (42,8) dẫn đến lợi nhuận tăng 60,9%. Trong cơ cấu tổng chi, vì khoản chi bồi thường bảo hiểm gốc tăng chậm chỉ chiếm 64,1% tổng chi, tỷ lệ bồi thường là 65% còn các khoản chi khác lại tăng rất nhanh gấp hơn hai lần năm 1996. Có sự tăng lên như vậy là do có sự điều chỉnh tăng chi cho một số danh mục chi phí như: chi hoa hồng đại lý và môi giới, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, chi nhượng tái bảo hiểm... nhằm khắc phục được những khó khăn từ năm 1996 còn tồn tại. Từ đó làm tăng doanh thu và tăng lợi nhuận dẫn đến hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ tăng lên. Đây là thành quả rất lớn mà PJICO đạt được mặc dù năm 1997 là năm mà thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Việt nam gặp rất nhiều khó khăn vì kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tham gia bảo hiểm giảm 7,2% và doanh thu phí nghiệp vụ toàn thị trường cũng giảm đi 15,3% so với năm 1996. Điều đó chứng tỏ chiến lược kinh doanh của công ty đề ra là rất linh hoạt phù hợp với sự biến động của nền kinh tế, các khâu trong hoạt động kinh doanh nghiệp vụ được thực hiện tương đối có hiệu quả.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á xảy ra từ tháng 7/1997 đã tác động xấu đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế trong nước, khu vực cũng như Thế giới. Đặc biệt là hoạt động ngoại thương có xu hướng chậm lại và gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa. Việc cắt giảm chi phí của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu là mục tiêu hàng đầu trong đó có cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm cho hàng hóa... chính vì vậy năm 1998, 1999 công tác khai thác gặp rất nhiều hạn chế. Cả hai năm này tốc độ tăng của tổng doanh thu đều nhỏ hơn tốc độ tăng của tổng chi phí, mặc dù năm 1998 lợi nhuận có tăng 24,9% nhưng sang năm 1999 lợi nhuận không những không tăng mà còn giảm 3,5% so với năm 1998. Đây là kết quả thấp nhất từ khi thành lập công ty đến nay từ đó làm cho chỉ tiêu hiệu quả tính theo doanh thu năm 1998 là 1,12 và năm 1999 chỉ còn 1,09 tức là một đồng chi phí bỏ ra chỉ thu được 1,09 đồng doanh thu và tạo ra được 0,09 đồng lợi nhuận, một con số phản ánh hiệu quả sử dụng đồng vốn là rất thấp. Kết quả đạt được như vậy là do tác động của cuộc khủng hoảng châu á đặc biệt kinh doanh bảo hiểm là một lĩnh vực hoạt động tài chính lên chịu ảnh hưởng tiêu cực tương đối lớn. Mặt khác, cũng như tình hình chung của toàn thị trường, năm 1999 có một số vụ tổn thất lớn xảy ra đối với khách hàng tham gia bảo hiểm tại PJICO làm cho chi phí bồi thường trong năm nghiệp vụ tăng vọt, tỷ lệ bồi thường lên tới 89,41% trong khi đó tổng doanh thu (kể cả tổng chi phí) tăng chậm từ đó làm cho lợi nhuận giảm xuống so với năm 1998.
Trong hai năm liền 1998, 1999 kết quả kinh doanh nghiệp vụ đạt được không mấy khả quan, điều đó đặt ra cho PJICO một vấn đề hết sức khó khăn là làm sao khắc phục được tình trạng kinh doanh kém hiệu quả như trong thời gian vừa qua. Là một nghiệp vụ có tầm quan trọng rất lớn đến hiệu quả kinh doannh toàn công ty lại rất nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế, của thị trường và các điều kiện khác. Chính vì vậy sau khi nghiên cứu, xem xét tình hình thực tiễn PJICO đã đề ra các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ trong năm 2000 và kết quả đạt được như ở bảng số liệu cho thấy là rất khả quan: tổng doanh thu và lợi nhuận tăng nhanh hơn tốc độ tăng của tổng chi phí và cũng là năm đạt được lợi nhuận cao nhất trong cả thời kỳ 1995-2000 đạt 3.765.571 nghìn đồng vượt kế hoạch đề ra của ban lãnh đạo 20%, gấp gần hai lần năm 1999 trong khi đó chi phí chỉ tăng có 4,4%. Từ đó làm cho chỉ tiêu hiệu quả tính theo doanh thu tăng lên, thể hiện một đồng chi phí bỏ ra thu được 1,17 đồng doanh thu và tạo ra được 0,17 đồng lợi nhuận. Đạt được kết quả như vậy là do năm 2000 tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, ngày càng có xu hướng phát triển ổn định, hoạt động ngoại thương diễn ra sôi động hơn từ đó góp phần to lớn vào quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ. Mặt khác, sự phối hợp giữa các công ty bảo hiểm ngày càng chặt chẽ hơn, tình hình cạnh tranh không lành mạnh giảm xuống và đã tạo lập được lòng tin và uy tín đối với khách hàng tham gia bảo hiểm. Đặc biệt là do sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của các cấp lãnh đạo PJICO trong việc thực hiện những giải pháp hết sức linh hoạt, hợp lý và có hiệu quả trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ, nó được thể hiện ở sự điều chỉnh cơ cấu các danh mục chi trong tổng chi phí. Bảng số liệu cho thấy, khoản chi phí khác năm 2000 tăng vọt so với năm 1999 là do công ty đã chủ động điều chỉnh tăng các khoản chi như: chi hoa hồng đại lý và môi giới, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, chi phí giám định, chi nhượng tái bảo hiểm, chi mở rộng mạng lưới tổ chức hoạt động kinh doanh, chi tuyên truyền quảng cáo... làm cho tỷ lệ khoản chi khác trong tổng chi lên tới 51,3% và phải chăng chính các khoản chi này đã có tác động làm cho tỷ lệ tổn thất giảm dẫn đến chi bồi thường giảm theo. Tỷ lệ bồi thường năm 2000 chỉ còn 51,43% thấp hơn rất nhiều so với năm 1999. Qua đó cho thấy, chiến lược kinh doanh và những giải pháp mà PJICO đưa ra là rất phù với tình hình thực tế làm tăng hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển năm 2000 từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh toàn công ty nói chung.
- Trong vòng 6 năm trở lại đây, bức tranh toàn cảnh về kinh tế thế giới và khu vục có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này ít nhiều đều có tác động đến các chỉ tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Còn rất non trẻ và đang trên đà phát triển, thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng chịu sự tác động rất lớn của các thay đổi này. Là một nghiệp vụ mà hiệu quả hoạt động kinh doanh rất nhạy cảm và gắn liền với sự biến động của tình hình kinh tế xã hội đặc biệt là hoạt động ngoại thương trong nền kinh tế thì bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển không thể không có những bước thăng trầm, mất ổn định. Riêng ở PJICO, hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ này mặc dù có xu hướng ngày càng giảm nhưng vẫn được đáng giá là nghiệp vụ bảo hiểm trọng tâm, có nhiều triển vọng trong tương lai do có một số thuận lợi cơ bản sau:
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với xu thế hội nhập khu vưc hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ thì việc trao đổi buôn bán hàng hoá của Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng gia tăng, hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, do có ưu thế về vị trí địa lý nên ngành vận tải biển của Việt Nam cũng không ngừng được chú trọng đầu tư, hoàn thiện nâng cao về cơ sở vật chất kỹ thuật và chất lượng dịch vụ. Mặt khác, cho đến thời điểm hiện nay kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo hiểm mới chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước. Do vậy, tiềm năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là rất lớn, nhu cầu về loại hình bảo hiểm này ngày càng đa dạng và phong phú.
Một phần do quy định chung là hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển bắt buộc phải tham gia bảo hiểm và cũng là do từ lâu các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá nhận thức rất rõ được sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của mình nên việc mua bảo hiểm cho hàng hoá đã trở thành thông lệ quốc tế và gắn liền với quá trình buôn bán, trao đổi hàng hoá ngoại thương.
Là một công ty cổ phần với sự góp vốn của các cổ đông, là các đơn vị kinh doanh có kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cao nên PJICO đã tranh thủ được sự ủng hộ nhiệt tình của các khách hàng trong cổ đông (Petrolimex, VSC).
PJICO ra đời trong một bối cảnh nền kinh tế đất nước đã có sự thay đổi hoàn toàn về cơ chế - cơ chế tự do cạnh tranh có sự quản lý và định hướng của Nhà nước nên không bị giao thoa giữa hai cơ chế về mặt nhận thức và tư tưởng. Chính vì lẽ đó đã tạo cho PJICO một phong cách kinh doanh thuần nhất của kinh tế thị trường - năng động, sáng tạo, linh hoạt, nhạy bén phù hợp với sự biến động liên tục của nền kinh tế xã hội. Có thể nói rằng mục tiêu trở thành công ty bảo hiểm lớn mạnh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam của PJICO chỉ còn là vấn đề về thời gian mà thôi.
Mạng lưới tổ chức kinh doanh của PJICO có thể đựơc xem như đã tương đối hoàn chỉnh. Các chi nhánh công ty, văn phòng đại diện, tổng đại lý và các đại lý được phân bổ ở hầu hết các trung tâm kinh tế trọng điểm trong cả nước tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng.
Trong thời gian qua, PJICO đã tạo lập được và không ngừng củng cố uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm, kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm ở PJICO ngày càng tăng, lượng khách hàng ngoài cổ đông tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều (hiện nay phí bảo hiểm thu được từ lượng khách hàng này chiếm khoảng 70% tổng doanh thu phí). Điều đó thể hiện xu thế hội nhập và phát triển của công ty ngày càng cao.
Luật kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành và có hiệu lực, tạo ra hành lang vững chắc cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng.
Bên cạnh những thuật lợi và ưu thế kể trên, PJICO cần phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc giữ vững thị phần và nâng cao hiệu quả kinh daonh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Những khó khăn này không chỉ manh tính khách quan mà còn xuất phát từ các vấn đề tồn tại mang tính chủ quan trong công tác triển khai nghiệp vụ mà đến nay PJICO vẫn chưa khắc phục được một số khó khăn và tồn tại đó là:
Số lượng công ty bảo hiểm ngày càng tăng trong đó có các công ty bảo hiểm phi nhân thọ làm cho quá trình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời nhưng hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh vẫn xảy ra gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt là hoạt động ngoại thương. Chính vì vậy trong thời gian qua mặc dù tình hình kinh tế xã hội trong nước có xu hướng ổn định hơn nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới nhưng nó cũng đã tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là loại hình bảo hiểm cạnh tranh mang tính quốc tế cao liên quan đến nhiều chủ thể và nhiều lĩnh vực nên không chỉ PJICO mà còn đối với tất cả các công ty bảo hiểm gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuyết phục khách hàng tham gia bảo hiểm trong nước cũng như trong quá trình triển khai các khâu còn lại trong kinh doanh bảo hiểm.
Hiện nay các công ty bảo hiểm Việt Nam trong đó có PJICO, bảo hiểm chủ yếu trong nhập khẩu nhưng lượng hàng hoá nhập khẩu trong các chương trình vay nợ, viện trợ từ nguồn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22%-26% tổng kim ngạch nhập khẩu không khai thác được do bên nước ngoài thu xếp bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi của quốc gia họ.
Do lợi thế của nền kinh tế chưa cao nên trong buôn bán ngoại thương ta thường phải chịu sức ép nhập khẩu theo giá CIF và xuất khẩu theo giá FOB. Chính vì vậy hàng năm ngành bảo hiểm thất thu một khoản phí rất lớn bị các nhà bảo hiểm nước ngoài nắm giữ.
Nhà nước, mà đặc biệt là các Bộ, Ngành liên quan chưa có cơ chế thích hợp nhằm thu hút việc bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại các công ty bảo hiểm trong nước.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước tăng dần qua các năm (mặc dù nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của PJICO là có tăng trưởng và phát triển) song tỷ lệ kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm ở PJICO so với tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu lại rất thấp chỉ khoảng 2%. Điều này chứng tỏ PJICO vẫn chưa khai thác được hết khả năng và thế mạnh của mình. Ngoài ra còn một số tồn tại trong quá trình triển khai nghiệp vụ mà bảo hiểm cần phải khắc phục và hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới có như vậy hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ nói riêng và hiệu quả kinh doanh toàn công ty nói chung mới duy trì được ổn định và ngày càng phát triển.
Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO trong thời gian tới
I. Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằNg đường biển ở PJICO trong thời gian tới.
1. Phương hướng.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay Việt Nam đang thực sự hoà mình vào dòng chảy kinh tế của thế giới. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN, đang tích cực xúc tiến nhiều biện pháp tự do hoá thương mại để xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đồng thời đã tham gia vào trương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (Common Effective Preferentioal Tariff - CEPT) mà các nước thành viên cam kết là sẽ cùng nhau giảm thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu được sản xuất tại bất kì quốc gia thành viên nào xuống còn 0%-5% đồng thời loại bỏ các hạn chế định lượng cũng như các hàng rào phi thuế quan khác. Như vậy phải có thể thấy rằng trong thời gian tới lượng hàng hoá lưu chuyển giữa cácnước sẽ tăng lên mạnh mẽ, điều này sẽ tạo ra cho các công ty bảo hiểm Việt Nam một cơ hội lớn để phát triển sâu rộng nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và đưa nó lên một tầm cao mới. Để chuẩn bị tốt cho cơ hội này trước hết đòi hỏi các công ty bảo hiểm Việt Nam phải tự tìm cho mình những hướng đi phù hợp để không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh. Đồng thời các công ty bảo hiểm Việt Nam phải tăng cường hợp tác với nhau chặt chẽ hơn, sâu rộng hơn, tránh tình trạng hạ phí bảo hiểm tuỳ tiện để rơi vào cuộc chiến tranh giá cả trong thời gian vừa qua và tạo ra được sức mạnh tổng hợp của thi trường bảo hiểm trong nước để có thể cạnh tranh đước với các công ty bảo hiểm nước ngoài, dành được quyền bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với nước ngoài mà từ trước đến nay chúng ta đã để thất thoát.
Những kết quả đạt được của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua đã tạo ra được môi trường thuận lợi cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở mỗi công ty bảo hiểm nói riêng và tỷ trọng bảo hiểm trong kim ngạch xuất nhập khẩu nói chung ngày càng tăng, điều đó nói lên rằng tiềm lực bảo hiểm Việt Nam đang dần lớn mạnh và phát triển, đáp ứng nhu cầu trong nước, khu vực và quốc tế. Tồn tại trong một môi trường luôn luôn sôi động và phát triển như vậy đòi hỏi PJICO phải đưa ra các kế hoạch phương hướng và hướng đi của mình cho phù hợp nhằm khai thác triệt để các lợi thế trong cạnh tranh, đổi mới quản lý kinh doanh bảo hiểm, đổi mới phong cách phục vụ khách hàng là con đường phát triển của PJICO trong thời gian tới. Để đứng vững và chiếm giữ thị trường đặc biệt trong tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm trong nước và ngày càng khốc liệt với các công ty bảo hiểm nước ngoài, đồng thời phục vụ tốt hơn các khách hàng PJICO không có con đường nào khác ngoài việc tự hoàn thiện, tạo một niềm tin bền vững trong cộng đồng bằng chính chữ “Tín” của mình, đem đến cho khách hàng sản phẩm có chất lượng cao cùng với nhữnh dịch vụ hết sức thoả đáng mà PJICO phải coi là mục tiêu hàng đầu.
Thực tế cho thấy kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu của cả nước không ngừng tăng lên. Tỷ trọng kim ngạch hàng hoá được bảo hiểm trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng lên nhưng mới chỉ chiếm một con số rất khiêm tốn khoảng 20% còn lại là một phần rất lớn 80% bỏ trống cho thị trường và các công ty bảo hiểm nước ngoài khai thác nắm giữ, và trong bối cảnh đó thì kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm ở bảo hiểm PJICO chỉ chiếm khoảng 2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá. Đây là một tỷ lệ quá thấp khiến cho PJICO không thể không xem xét tới trong khi kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên do cơ chế điều hành xuất nhập khẩu có nhiều bước tiến mới, thị trường trao đổi hàng hoá ngày càng được mở rộng thì sự thất thu của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng tăng, đây là một thất thoát lớn với các nhà bảo hiểm Việt Nam nói chung và PJICO nói riêng. Phải chăng PJICO đã chưa khai thác hết tiềm năng và tận dụng triệt để mọi lợi thế của mình ? Qua đó cũng thấy được thị trường tiềm năng của nghiệp vụ là rất lớn. Vì vậy trong thời gian tới việc mở rộng thị trường và giành lại thị phần từ các công ty bảo hiểm nước ngoài tăng tỷ trọng kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm trong kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá là mục tiêu hàng đầu của PJICO trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
2.1.Về công tác khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường khách hàng là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp, đặc biệt với các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động dựa trên quy luật số đông thì vai trò của yếu tố khách hàng càng trở lên quan trọng hơn.
Trong thời gian vừa qua, PJICO đã đưa và thực hiện một số chính sách khách hàng đạt kết quả tương đối cao thể hiện: năm 1995, 1996 khách hàng tham gia bảo hiểm ở PJICO chủ yếu là trong cổ đông tính đến nay 70% doanh thu phí bảo hiểm thu được là từ các khách hàng từ ngoài cổ đông. Tuy nhiên, để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm tích cực hơn nữa thì PJICO cần phải:
Tiếp tục tuyên truyền, vận động khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây là một biện pháp tiếp cận truyền thống nhưng nó vẫn mang lại hiệu quả một cách thiết thực đốí với những đối tượng là những khách hàng mới, nhỏ, lẻ không tập trung.
Khai thác triệt để lợi thế của các khách hàng trong cổ đông đồng thời tận dụng được mối quan hệ kinh doanh của các cổ đông để thu hút khách hàng.
Tăng cường hoàn thiện hơn nữa trách nhiệm phục vụ khách hàng, đáp ứng các điều kiện bảo hiểm mà khách hàng yêu cầu, thường xuyên củng cố quan hệ và tạo mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, kịp thời và thoả đáng khi có tổn thất xảy ra.
Thường xuyên nghiên cứu đưa ra các mức phí hợp lý. Việc thay đổi linh hoạt hay nghiên cứu hạ tỷ kệ phí bảo hiểm là rất cần thiết vừa là để bảo đảm lợi ích cho khách hàng vừa khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm hay tái tục hợp đồng bảo hiểm với công ty. Tuy nhiên việc hạ tỷ lệ phí bảo hiểm phải được tính toán dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá của từng chủng loại hàng hoá được bảo hiểm. Như vậy tránh được việc tạo ra tâm lý xấu cho khách hàng, đồng thời không ảnh hưởng đến khả năng giữ lại của công ty và gây ra mất ổn định đối với thị trường trong nước.
Đẩy mạnh hoạt động khai thác, khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nâng cao ý thức trách nhiệm đối với hoạt động của mình, vừa bảo vệ tài sản cũng như mang lại nguồn ngoại tệ cho nhà nước thông qua hoạt động bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm trong nước.
Cần tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu để phân chia khách hàng thành từng nhóm: nhóm khách hàng có nhu cầu xuất nhập khẩu thường xuyên và không thường xuyên và nhóm khách hàng chuyên xuất hay nhập các mặt hàng, chủng loại hàng hoá nào đó, hay nhóm khách hàng trong và ngoài cổ đông. Trên cơ sở đó công ty có thể đề ra các biện pháp, chiến lược tiếp cận khai thác thích hợp và xây dựng mức phí chào hợp lý để khuyến khích họ tham gia, tạo lập mối quan hệ lâu dài.
Tổ chức hệ thống thông tin phản hồi đối với mọi yêu cầu, kiến nghị góp ý, đề xuất của khách hàng một cách nhanh chóng nhất.
Công ty nên tiến hành việc mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ cho phù hợp với xu thế chung nhằm phục vụ tốt nhất khách hàng truyền thống và khách hàng tương lai trong và ngoài cổ đông nhằm tạo uy tín cho công ty trên thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế. Để thực hiện có hiệu quả công ty cần tích cực nghiên cứu đưa ra các sản phảm mới bổ sung đáp ứng nhu cầu của khách hàng như: bảo hiểm gián đoạn kinh doanh cho các hoạt động liên quan đến việc bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm thuê mua, bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
Cải tiến hoàn thiện chính sách khách hàng như: chính sách chi hoa hồng cho các đại lý, chi phí giao dịch bán hàng, giảm phí bảo hiểm cho các khách hàng thường xuyên hay làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Tiến hành việc chào phí tới các công ty xuất nhập khẩu một cách thường xuyên và bên cạnh đó công ty còn thực hiện tư vấn miễn phí về các vấn đề có liên quan đến việc mua bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách hàng đối với công ty.
Nên tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ vì đây là cơ hội gặp gỡ, trao đổi giữa công ty và một số khách hàng lớn tham gia bảo hiểm ở công ty thường xuyên nhằm rút ra những kinh nghiệm thực tiễn trong việc ký kết hợp đồng, đánh giá và quản lý rủi ro, vận chuyển hàng hoá, công tác giám định, đề phòng và hạn chế tổn thất và công tác bồi thường.
ở PJICO khách hàng tham gia nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển chủ yếu là những khách hàng truyền thống đã tham gia bảo hiểm nhiều năm ở công ty, cho nên trong điều kiện khó khăn chung về khai thác trong thời gian vừa qua thì việc nâng cao uy tín, củng cố lòng tin với khách hàng truyền thống để họ lôi kéo thêm những khách hàng mới tham gia bảo hiểm ở công ty chính là một biện pháp marketing tương đối có hiệu quả mà PJICO cần phải chú trọng hơn nữa.
2.2.Về công tác tổ chức kinh doanh.
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng gia tăng vì thế nhu cầu về bảo hiểm ngày càng lớn đòi hỏi PJICO cần phải có một mạng lưới các chi nhành rộng khắp trong cả nước đáp ứng kịp thời, nhanh chóng nhu cầu của khách hàng mọi lúc mọi nơi mà vẫn đảm bảo bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt và có hiệu quả.
Do tính chất đặc thù của nghiệp vụ nên ngoài việc mở rộng các chi nhánh, công ty cần mở rộng tăng cường mạng lưới đại lý, cộng tác viên và giám định viên nhằm khai thác triệt để nhu cầu bảo hiểm của khách hàng chú trọng thu hút đối tượng này là các công nhân viên các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, đơn vị vận tải. Như vậy thì việc nắm bắt thông tin từ khách hàng sẽ rất nhanh chóng và kịp thời. Vị trí phân bố đội ngũ này nên ở một số khu vực cảng biển hay một số trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ tạo điều kiện cho việc tiếp cận khách hàng và đây là những nơi có nhu cầu về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu lớn.
Củng cố, phát triển và cải tiến tổ chức quản lý ở công ty và các chi nhánh sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, yêu cầu của cạnh tranh. Cải tiến lề lối cộng việc, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, xây dựng chính sách khách hàng.
Hoàn thiện hơn nữa các quy định cụ thể về phân cấp quyền hạn và trách nhiệm của các chi nhánh, phòng ban, đại lý và cộng tác viên của công ty nhằm đảm bảo sự thống nhất thông suốt trong quản lý điều hành, tránh sự trùng lập, chồng chéo về nghĩa vụ và quyền lợi của các bên từ đó nâng các hiệu quả của công tác quản lý cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung.
Vai trò của công tác giám định là rất lớn, trong thời gian qua hiệu quả của công tác này chưa cao nên đã ảnh hưởng không tốt đến các khâu còn lại trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ kinh doanh nghiệp vụ. Lý do là vì công tác giám định ở PJICO còn chưa kịp thời, chưa nhanh chóng và điều này ảnh hưởng đến tính chính xác của biên bản giám định trong việc xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Công tác này vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các tổ chức giám định trung gian do công ty uỷ thác. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả của công tác giám định cũng như hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ thì việc đầu tư hoàn thiện về mọi mặt cho công tác này là rất quan trọng. Ngoài việc đầu tư mua sắm trang thiết bị giám định hiện đại, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ của các giám định viên, hợp tác chặt chẽ với các tổ chức giám định có uy tín trong và ngoài nước, công ty cần tăng cường việc bố trí mạng lưới đại lý giám định của mình tại các khu trung tâm, những nơi có khách hàng tham gia bảo hiểm đông đảo nhằm thực hiện công tác này một cách nhanh chóng, kịp thời, có khoa học và đạt hiệu quả cao.
Luôn luôn duy trì và tăng cường quan hệ với các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trong và ngoài nước để nghiên cứu và tham khảo đưa ra các nghiệp vụ mới bổ xung và lựa trọn đối tác cho nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu có hiệu quả.
Tăng cường hợp tác giữa bảo hiểm, chủ hàng và người vận chuyển để thực hiện mục tiêu mua theo giá FOB, CF hoặc CFR đối với hàng hoá nhập khẩu và bán theo giá CIF đối với hàng hoá xuất khẩu. Trường hợp chủ hàng có khó khăn trong việc thuê phương tiện chuyên chở, PJICO sẽ phối hợp với người vận chuyển để giúp đỡ tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn phương tiện chuyên chở, phương thức xếp dỡ, vận chuyển nhằm đạt kết quả cao trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
PJICO cần nghiên cứu một mô hình thích hợp nhằm phối hợp một cách chặt chẽ, đồng bộ hoạt động ngoại thương, vận tải, bảo hiểm bằng các hình thức liên doanh, liên kết, lập các hiệp hội hàng hải bao gồm chủ tầu, chủ hàng và người bảo hiểm, các tổ chức ngoại thương, vận tải biển và bảo hiểm hàng hải từ đó tạo ra sự lớn mạnh về mọi mặt, tích cực tham gia vào các vòng đàm phán với nước ngoài trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, tránh bị chèn ép giành lại các quyền lợi trong đó có quyền lợi về bảo hiểm cho công ty nói riêng và đất nước nói chung (đặc biệt là các lô hàng hoá xuất nhập khẩu trong các dự án, chương trình đầu tư, các gói thầu bằng nguồn vốn ODA, FDI của nước ngoài hay mặt hàng đầu thô của nước ta) mà lâu nay vẫn bị các nhà bảo hiểm nước ngoài chiếm giữ.
Tóm lại PJICO cần phải thiết lập mạng lưới tổ chức hoạt động kinh doanh gọn nhẹ, hợp lý đảm bảo quá trình quản lý được thông suốt, giảm thiểu chi phí và mang lại hiệu quả cao.
2.3.Về công tác cán bộ.
Là một nghiệp vụ rất nhạy cảm với sự biến động của các điều kiện kinh tế xã hội lại liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trên một phạm vi rộng lớn bao gồm nhiều thông lệ, quy định của nhà nước khác nhau nên đòi hỏi các cán bộ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu không những phải có trình độ chuyên môn cao mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Đặc biệt phải có sự hiểu biết sâu sắc về hoạt động ngoại thương, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và có óc tìm tòi, phân tích, dự đoán xu hướng biến động của nền kinh tế - xã hội khu vực và trên thế giới. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, các kế hoạch phù hợp trong quá trình triển khai nghiệp vụ. Chính vì vậy, vai trò của yếu tố con người là rất quan trọng đòi hỏi trong thời gian tới PJICO cần phải chú trọng công tác đào tạo và các chương trình đào tạo cần thiết để nâng cao hơn nữa trình độ cho cán bộ công nhân viên. Công ty cần phải tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ định kỳ cho cán bộ công nhân viên nhằm không ngừng đổi mới và phát triển phương thức kinh doanh của từng cá nhân góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ nói riêng.
Cần thiết ban hành các văn bản quy định cụ thể quyền lợi và trách nhiệm của các bộ phận. Hướng dẫn các phòng phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ nhân viên theo định kỳ hàng tháng, quý hay năm. Có thể chuyên môn hoá nhiệm vụ của cán bộ nhân viên phòng nghiệp vụ về một số mặt hàng hay một nhóm khách hàng nào đó thường xuyên tham gia bảo hiểm tại công ty thuận lợi cho việc tiếp cận, tư vấn trao đổi ý kiến với khách hàng trong thời gian hiệu lực của hợp đồng. Đặc biệt, công tác giám định hàng hoá bị tổn thất là một công việc rất phức tạp đòi hỏi cán bộ thực hiện phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về nhiều lĩnh vực nên cần phải phân bổ một số cán bộ chuyên trách về công tác này.
Hoàn thiện và ban hành mới các văn bản quy định về chế độ đãi ngộ khen thưởng và kỷ luật đối với các cán bộ công nhân viên công ty và các cộng tác viên của công ty. Khen thưởng kịp thời thoả đáng cho những cán bộ công nhân viên có thành tích tốt, hoàn thành nhiệm vụ được giao, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nghiệp vụ và của công ty nói chung. Bên cạnh đó cần phải áp dụng cá hình thức kỷ luật, công khai phê bình thẳng thắn những cán bộ thiếu nhiệt tình, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc ảnh hưởng đến kết quả chung của công ty. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền và giáo dục cho các cán bộ nhân viên công ty đặt uy tín, trách nhiệm và nhân cách của mình lên hàng đầu tránh hiện tượng móc ngoặc với khách hàng nhằm trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại về kinh tế cũng như uy tín của công ty.
Quan tâm hơn nữa đến đời sống riêng tư của các cán bộ nhân viên, kích thích sự nhiệt tình với công việc và lòng trung thành đối với công ty, tạo ra mối quan hệ gắn bó mật thiết hoà đồng trong nội bộ giữa cấp lãnh đạo với nhân viên và giữa các nhân viên với nhau.
Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, gặp gỡ trao đổi ý kiến kinh nghiệm công tác trong nội bộ công ty. Đặc biệt là các chi nhánh với nhau nhằm tổng kết ra những đặc trưng của khu vực công tác từ đó có các biện pháp phối hợp chặt chẽ trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung. Đây là một hình thức đơn giản nhưng có hiệu quả thiết thực công ty cần quan tâm thực hiện. Đồng thời phối hợp sắp xếp cử cán bộ đi học, dự hội thảo, học đào tạo từ xa trong và ngoài nước do ngành hay các công ty bảo hiểm khác tổ chức.
2.4. Một số vấn đề khác.
Làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất như kiểm tra các thiết bị bảo đảm an toàn của tàu, kiểm lại hàng hoá trước khi nhận bảo hiểm hay giám định ngay đối với hàng hoá xuất khẩu tại cảng đi nhằm tránh những tổn thất xảy ra do bản chất của hàng hoá gây lên. Cần tư vấn cho khách hàng các phương thức xếp, dỡ hàng hoá trên tàu cũng như ở cảng nhằm hạn chế rủi ro gây ra tổn thất đến mức thấp nhất. Cùng phối hợp với các nhà bảo hiểm trong nước xây dựng các hệ thống báo hiệu, tín hiệu, đội cứu nạn trên biển, hệ thống cảng lánh nạn, phao tiêu. Xây dựng và cải tiến hệ thống thông tin liên lạc nhanh chóng, chính xác để có thể theo dõi sát được hành trình của hàng hoá từ đó giảm thiểu tối đa tổn thất có thể xảy ra.
Đổi mới và hoàn thiện các khâu trong công tác khai thác, giám định và bồi thường tránh rườm rà và phức tạp nhằm thực hiện các công tác này một cách nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả.
Thực hành tiết kiệm, chống mọi hành vi tiêu cực, giảm thiểu các chi phí bất hợp lý đẻ tăng cường sức mạnh cạnh tranh. Tăng nhanh vốn của công ty để đảm bảo trách nhiệm với khách hàng và tăng mức giữ lại nhằm tăng lợi nhuận.
Là nghiệp vụ nhận trách nhiệm bảo hiểm cho nhữnh lô hàng hoá xuất nhập khẩu có giá trị rất lớn lại chịu ảnh hưởng nhiều bởi các tác động khách quan trong khi khả năng tài chính của công ty chưa đủ lớn vì vậy vấn đề tái bảo hiểm là tất yếu. Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ phụ thuộc rất lớn vào công tác tái bảo hiểm nên công ty cần phải có sự quan tâm đúng mức đến công tác này. Việc xác định mức giữ lại, mức nhận tái hay phần nhượng tái phải được tính toán dựa trên cơ sở khoa học, cần đánh giá phân tích khả năng tài chính của công ty, dự báo phân tích thống kê về xu hướng biến động của thị trường cũng như việc đánh giá và quản lý rủi ro đối với các đối tượng được bảo hiểm. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác tái bảo hiểm, tránh sự mất ổn định về tài chính, tăng lợi nhuận góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ và hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung.
Tăng cường sự hợp tác và mở rộng mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, các tổ chức giám định trong và ngoài nước cùng các cơ quan ban ngành có liên quan (Hải quan, Công an, Toà án, Ngân hàng) từ đó tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của họ trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ.
Chú trọng công tác tuyên truyền quảng cáo, xây dựng hình ảnh và phong cách riêng của công ty thông qua hoạt động này trên các phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu giao dịch, pano ap phích, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về công ty, tham gia công tác từ thiện.
II. Kiến nghị chung
- Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, khi áp dụng các điều khoản bảo hiểm hàng hoá, các doanh nghiệp bảo hiểm phải báo cáo với Bộ Tài chính trước khi thực hiện. Đây là một biện pháp để bảo đảm cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam được phát triển ổn định. Biện pháp này cũng giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm có thể cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng dưới sự quản lý của nhà nước - cụ thể là Bộ Tài chính.
- Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường, các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà trực tiếp là Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính cần xây dựng hành lang biểu phí cụ thể, thống nhất hoặc có biểu phí hướng dẫn với quy định "Trần và Sàn". Các công ty có biểu phí riêng của mình phải trình cơ quan quản lý nhà nước để được chuẩn y và theo dõi thực hiện.
- Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm gốc, môi giới trong nước và nước ngoài đang được phép hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, khuyến khích các hoạt động tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cho các công ty bảo hiểm trong nước trước khi tái bảo hiểm ra nước ngoài.
- Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm của nhà nước để giúp các doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
- Nhanh chóng xây dựng và phổ biến các văn bản hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam để đưa hoạt động kinh doanh bảo hiểm đi vào khuôn khổ. Đó là một yêu cầu tất yếu trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước.
- Theo kinh nghiệm mở cửa thị trường bảo hiểm của Thái Lan và Phillipin thì sau khi luật kinh doanh bảo hiểm ra đời sắp tới phảI đẩy mạnh thị trường bảo hiểm trong nước làm ăn với nước ngoài theo cách thực hiện dần từng bước và chia thành nhiều giai đoạn, nhằm giảm bớt sự chèn ép của các công ty bảo hiểm nước ngoài đối với hoạt động bảo hiểm ở trong nước.
- Kiến nghị nhà nước xem xét lại chủ trương thu thuế vốn bằng cách trừ từ lãi suất sau thuế đã làm cho doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước khó có khả năng tăng nhanh vốn (theo chủ trương của chính phủ) nhằn tăng mức giữ lại và các quỹ dự phòng nghiệp vụ.
- Do thuế doanh thu đã thay thế bằng thuế VAT, vì vậy với thuế suất là 10% đối với các công ty bảo hiểm là khá cao so với các ngành sản xuất kinh doanh khác do họ được hưởng một số khoản khấu trừ thuế đầu vào và đầu ra. Nên chăng, nhà nước xem xét giảm thuế suất nhằm làm tăng lợi nhuận của các công ty bảo hiểm nhằm tăng tái đầu tư.
- Kiến nghị nhà nước xem xét mở rộng danh mục đầu tư hơn nữa cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Việt Nam vì vấn đề đầu tư trong kinh doanh bảo hiểm là rất quan trọng, đặc biệt đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển do bảo hiểm cho những đối tượng bảo hiểm có khối lượng lớn, giá trị cao nên phí bảo hiểm là rất lớn. Tổn thất xảy ra không thường xuyên nhưng thiệt hại lại rất nặng nề cần các khoản tiền bồi thường lớn. Vì vậy việc đầu tư phí bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình kinh doanh nghiệp vụ nói riêng và đối với doanh nghiệp bảo hiểm nói chung.
Tóm lại, Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc Hội thông có hiệu lực pháp lý và đây là hành lang pháp lý tốt nhất điều chỉnh hoật động kinh doanh bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đi vào khuôn khổ, quy tắc chung. Nhằm đưa thị trường bảo hiểm Việt Nam tiến tới hội nhập vào thị trường bảo hiểm khu vực và thị trường bảo hiểm thế giới.
Kết luận
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển không phải mới ra đời và được triển khai ở Việt Nam, so với lịch sử và ra đời và phát triển của nó trên thế giới thì đây là nghiệp vụ rất non trẻ trên thị trường bảo hiểm. Song những kết quả mà các doanh ngiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và PJICO nói riêng thu được trong thời gian vừa qua đã chứng tỏ nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã tìm được chỗ đứng trên thi trường và khẳng định được vai trò quan trọng của nó trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng như trong hoạt động ngoại thương. Cùng với sợ phát triển của nền kinh tế xã hội, trong tương lai chắc chắn rằng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển sẽ ngày càng củng cố được vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm trong nước và ngày càng hoàn thiện, phát triển sánh ngang với thị trường bảo hiểm khu vực và quốc tế, hoà nhập với quá trình khu vực hoá- toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, với sự thất thu khoảng 80% phí bảo hiểm trong kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp nước ngoài thì việc nghiên cưú để phát triển hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ này trở thành vấn đề đặt ra không chỉ riêng cho PJICO mà còn đối với toàn ngành bảo hiểm cùng với các cơ quan chức năng có liên quan. Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời đã có hiệu lực thi hành cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam vì vậy trong thời gian tới môi trường cạnh tranh sẽ diễn ra hết sức gay gắt, nếu PJICO không tranh thủ thời gian thu hút và thiết lập mối quan hệ tốt với khách hàng thì sẽ bị mất dần thị trường vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài. Chính vì vậy ngay từ bây giờ PJICO phải tăng cường hợp tác kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng mạng lưới tổ chức kinh doanh trên thị trường, coi trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên và một vấn đề rất quan trọng được đặt ra cho PJICO là cần tìm ra cho mình hướng đi phù hợp, đưa ra các kế hoạch chiến lược phát triển kinh doanh khả thi trong thời gian tới để tiếp tục duy trì và nâng cao vị trí của mình trong một môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt như hiện nay, từ đó ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình đối với nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế Bảo hiểm
Nhà xuất bản Thống kê 2000 - Trường Đại học Kinh tế quốc dân HàNội.
Giáo trình Vận tải và Bảo hiểm hàng hóa ngoại thương
Nhà xuất bản Giáo dục 1997, Trường Đại học Ngoại thương.
Giáo trình Nghiệp vụ vận tải và Bảo hiểm trong ngoại thương
Nhà xuất bản Tài chính, GV: Dương Hữu Hạnh - Cao học Kinh tế-Tài chính TP Hồ Chí Minh.
Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm
Nhà xuất bản giáo dục - 1996, PGS. PTS Nguyễn Cao Thường.
5. Giáo trình Thống kê bảo hiểm
Nhà xuất bản thống kê - 1996, PGS. PTS Bùi Huy Thảo.
6. Giáo trình Bảo hiểm
Nhà xuất bản tài chính - 1999, GS. PTS Hồ Xuân Phương; Võ Thị Pha
Trường đại học tài chính kế toán.
7. Bảo hiểm - Nguyên tắc và thực hành
Nhà xuất bản Tài chính 1998, Tiến sĩ: Dvid Bland - Học viện bảo hiểm hoàng gia Anh.
8. Giáo trình Nghiệp vụ ngoại thương
Nhà xuất bản Giáo dục 1994 -Trường Đại học Ngoại thương.
9. Tạp chí Thông tin thị trường Bảo hiểm - Tái bảo hiểm 1999, 2000
Của VINARE.
10. Tạp chí Bảo hiểm 1999, 2000
Của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
11.Thời báo kinh tế Việt Nam 1999, 2000.
12. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của PJICO từ 1995 - 2000.
13. Báo cáo kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO từ 1995 - 2000.
14. Báo cáo tổng kết bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu toàn thị trường
Của VINARE.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 63.doc