Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - Cơ sở cho sự tồn tại và prát triển của doanh nghiệp

Sức sản xuất của vốn cố định năm 2000 tăng hơn so với năm trước (tăng 0,7051 triệu đồng ) là do: mặc dù nguyên giá bình quân tài sản cố định tăng 2,32% nhưng tốc độ tăng của nó chậm hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu là 53,68%. Sức sinh lợi của vốn cố định tăng 0,0106 triệu đồng (tăng 17,18%). Ngoài ra suất hao phí của vốn có giảm đi 0,2379 triệu đồng (giảm 33,43%). Thực chất là do sự gia tăng của tổng doanh thu. Điều này chứng tỏ Công ty đã tiết kiệm được chi phí tài sản cố định cho sản xuất trong khi doanh thu và lợi nhuận vẫn tăng lên so với năm trước.

doc58 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - Cơ sở cho sự tồn tại và prát triển của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhựa đến tại Công ty để giảng dạy tại chỗ bằng lý thuyết và thực hành cho công nhân. 8-Đặc điểm về công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty. 8-1 Đặc điểm về thiết bị Để mở rộng năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty, tạo khả năng cạnh tranh, duy trì các thị trường đã có, mở ra cơ hội xâm nhập tìm kiếm thị trường mới. Trong 2 năm qua (1999 -2000) Công ty đã đầu tư gần 1 tỷ đồng vào máy móc thiết bị và đã đầu tư đúng mức: Công ty đã trang bị máy Fax, máy photo, máy vi tính cho các phòng ban để lưu trữ, thu nhập và xử lý thông tin Bảng 3: Bảng trang thiết bị chủ yếu Tên thiết bị Đơn vị tính Số lượng Năm sản xuất Nước sản xuất Tình trạng hiện nay 1. Máy thổi màng Cái 12 1975-1980 Đài Loan Đang sử dụng 2.Mát cắt rán Cái 12 1978-1980 Đài Loan Đang sử dụng 3. Máy đột dập (1,5kw) Cái 4 1990-1995 Việt Nam Đang sử dụng 4. Máy in 7 màu Cái 2 1990-1993 Đài Loan Đang sử dụng 5. Máy thổi in liên hoàn Cái 1 1992-1995 Singapore Đang sử dụng Qua trên ta thấy được một số trang thiết bị chủ yếu được sản xuất ở thập kỷ 70- 80 máy là được nhập ngoại. Vậy là trang thiết bị của Công ty, Công ty đã và đang sử dụng tối đa công suất của chúng và có một số máy sản xuất ở thập kỷ 90 và được coi là hiện đại. 8-2: Công tác quản lý chất lượng sản phẩm và kiểm tra kỹ thuật: Trong cơ chế thị trường, chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng để sản phẩm có sức cạnh tranh và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của Doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm còn thể hiện khả năng tiếp nhận của thị trường đối với sản phẩm bao bì nilon mỏng. Quản lý chất lượng sản phẩm và kiểm tra kỹ thuật phải thực hiện ở tất cả mọi khâu từ chuẩn bị sản xuất, trong qúa trình sản xuất, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm. Trên dây chuyền sản xuất mỗi công nhân tự kiểm tra kỹ thuật và chất lượng ở công đoạn mình sản xuất, công đoạn sau có trách nhiệm kiểm tra kỹ thuật của công đoạn trước tránh tình trạng sản phẩm sai hỏng vẫn tiếp tục sản xuất. Cán bộ kỹ thuật viên của phân xưởng và tổ sản xuất có trách nhiệm hướng dẫn công nhân trên dây chuyền sản xuất sản phẩm đúng quy trình kỹ thuật. Trong những năm qua, Công ty thực hiện công tác vận động phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm nâng cao năng suấ lao động và chất lượng sản phẩm. Thực hiện những biện pháp hữu hiệu nhằm khắc phục sai sót và nguyên nhân làm giảm chất lượng sản phẩm, thực hiện ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới thích hợp vào sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm 9- Đặc điểm về nguyên vật liệu sử dụng. Do hoạt động theo cơ chế thị trường cho nên Công ty đã sản xuất mặt hàng bao bì nhựa các loại này để phục vụ nhu cầu của các tỉnh phía Bắc. Với mặt hàng này thì phần lớn là nguyên vật liệu được nhập khâu trực tiếp bằng cách mở LC tại ngân hàng. Nguyên vật liệu trực tiếp chủ yếu là các hạt nhựa được nhập khẩu trực tiếp của Đài Loan, Thái Lan, Nhật không phải mua qua các tổng đại lý. Bảng 4; Các loại nguyên vật liệu chính. Hạt nhựa Hạt màu Mực in Hạt HDKK Hạt HDPE 5604F Hạt LLDPE - FVK Hạt HDPE 5840B Hạt LLDQUAMQR Hạt PP bẩn Hạt AEZ 86 Hạt LD 1905 Hạt HDPE 51A Hạt PP P600F Hạt LD 1200 Hạt SUNCAL Hạt màu đỏ Hạt màu xanh lá Hạt màu xanh dương Hạt màu vàng Hạt màu trắng Hạt màu đen Mực đỏ cờ nội Mực đỏ cờ NTT Mực đỏ thẫm OPI Mực đỏ sen Mực đỏ sen HMK Mực xanh dương Mực xanh lá Mực xanh tím Mực tím Mực vàng Mực trắng Mực đen Dung môi in lô. Nguyên vật liệu các hạt nhựa là các chất dẻo, nhiệt độ nóng chảy thấp. III - Một số phương hướng và giải pháp của Công ty đã và đang thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1- Phương hướng sản xuất kinh doanh. 1.1 Hoạt động sản xuất kinh doanh: Thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của Sở giao, phấn đấu giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cho các năm 1997 - 1999 bình quân đạt 14 - 15%/năm. Năm 1998 - 2000 là năm cuối của thập kỷ 20, là năm bản nề đưa đất nước vào thời kỳ hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước. Do vậy, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty hết sức nặng nề, đòi hỏi phải có định hướng đúng đắn cho từng thời kỳ, từng giai đoạn để Công ty ngày càng ổn định và phát triển. Nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là phải giữ vững sản xuất và phát triển sản xuất. Đảm bảo đời sống và việc làm cho cán bộ, công nhân viên nhất là các đối tượng chính sách. Tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị máy móc hiện đại cho từng sản phẩm của Công ty. Tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả dự án "Bao bì cao cấp màng phức hợp". Dự án này được thực thi đã tăng doanh thu cho Công ty, nộp ngân sách tăng giải quyết được thêm lao động có việc làm. 1-2. Công tác tiếp cận thị trường: Nhanh chóng đổi mới lĩnh vực tổ chức quản lý điều hành sản xuát cho phù hợp với điều kiện hoạt động, mở rộng quy mô phạm vi kinh doanh. Để thực hiện được sản lượng kế hoạch của các năm, vấn đề mấu chốt là phải khai thác và mở rộng thị trường. Xác định chiến lượng về thị trường, có các biện pháp phối hợp, tốt trong quá trình tiếp thị để mở rộng thị trường và tạo thế cạnh tranh. Công ty đã mở rộng hợp tác với các cơ quan, đơn vị bạn hàng mở rộng mạng lưới đại lý tiêu thụ sản phẩm ra các tỉnh phía Bắc. Liên doanh, liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước, tạo nguồn đầu vào và đầu ra vững chắc. 1-3. Tiếp tục nguồn đầu tư máy móc, thiết bị nâng cao năng lực cán bộ. Đầu tư máy móc, thiết bị: Công ty đã xác định đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị trong cơ chế thị trường hiện nay là một trong những yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của Công ty. Công ty đã có dự án khả thi đầu tư chiều sâu sản xuất bao bì cao cấo màng phức hợp với công suất 14.400.000m2/năm . Với tổng trị giá đầu tư là 8,5tỷ đồng. Dự án này đã được Thành phố phê duyệt theo quyết định số 4751/QĐ - UB ngày 06/12/ 1999. 1-4. Tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới. Xây dựng nội quy an toàn sử dụng máy móc thiết bị. Xây dựng chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cho từng loại sản phẩm. Kiểm tra đôn đốc các phân xưởng thực hiện chế độ 5 quản (quản lý, kế hoạch, vật tư, thiết bị, lao động, kỹ thuật và chất lượng sản phẩm). Nghiên cứu cải tiến mẫu mã tạo ra những sản phẩm mới, đa dạng, phong phú về mẫu mã và chủng loại. 2- Một số giải pháp của Công ty 2-1- Đào tạo con người : Luôn chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, công nhân viên nhằm ổn định tình hình nội bộ để cho người lao động luôn yên tâm gắn bó với sự nghiệp của Công ty. Tổ chức đào tạo kiện toàn độ ngũ kế cận máy, tạo điều kiện cho người lao động điều khiển máy với thao tác thuần thục mau lẹ có thể khắc phục được những sự cố hỏng hóc nhẹ của máy. Cử một số đồng chí có năng lực đi học về quản lý. Hàng năm thường xuyên tổ chức rèn luyện thi tay nghề, thi thợ giỏi để bình xét xếp bậc thợ. 2-2 Đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây là vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Công ty lấy định mức kinh tế kỹ thuật làm trọng tâm để xây dựng điều tiết giá thành, kịp thời đảm bảo đầu vào và đầu ra hợp lý, đảm bảo sản xuất có lãi: Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp được dùng để chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm. Đổi mới công nghệ là quá trình phát minh, phát triển và dựa vào thị trường để tạo ra những sản phẩm mới, công nghệ mới. 2-3 Thực hiện tích luỹ vốn, nâng cao vốn tự có. Trên cơ sở sản xuất phát triển, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Trên cơ sở tích luỹ các quỹ của xí nghiệp, đây là cơ sở để cải thiện đời sống cho người lao động đặc biệt là thương bệnh binh. 2-4 Phát động phong trào thi đua: Phát huy phong trào thi đua lao động sản xuất làm chủ công nghệ mới, tiết kiệm vật tư, giữ gìn trang thiết bị. Hàng tháng có bình xét khen thưởng kịp thời bằng vật chất. Do đó đã thúc đẩy, khuyến khích cán bộ, công nhân viên tích cực trong lao động sản xuất. 2-5 Cải cách thủ tục hành chính: Bộ máy của Công ty gọn nhẹ, linh hoạt, thủ tục hành chính đơn giản không gây phiền hà cho khách hàng cũng như người lao động 2-6 Không ngừng chiếm lĩnh thị trường : Để mở rộng thị trường và tạo thế cạnh tranh thì phải mở rộng hợp tác với các cơ quan, Doanh nghiệp trong và ngoài nước, mở thêm các đại lý tiêu thụ sản phẩm. 2-7 Hoạt động tài chính tổng hợp: Có kế hoạch đầu tư phát triển phù hợp, vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào việc huy động vốn để làm sao có được mức vốn kế hoạch để ra. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển được hình thành từ vốn vay tín dụng, vốn vay của các tổ chức trong và ngoài nước, vốn đầu tư của Nhà nước, vốn tự có của Công ty. Đối với Công ty thì dựa vào 2 nguồn chính đó là: - Vốn vay tín dụng. - Vay của tổ chức nước ngoài (Đài Loan) mua thiết bị trả chậm. Trước hết cần tập trung chuẩn bị tốt cơ sở cho việc huy động vốn là tập các dự án khả thi và các thủ tục có liên quan, phải có sự phân công trách nhiệm rõ ràng trong việc chuẩn bị, theo dõi, quản lý vốn đầu tư cho dự án. Khi vay được vốn cần tập trung đầu tư gọn và dứt điểm để phát huy hiệu quả của đồng vốn. 2-8 Đẩy mạnh hoạt động liên doanh giữa các Công ty. - Liên doanh để tạo nguồn vốn: Có nhiều phương thức để tạo cho sản xuất, các chủ thể sở hữu vốn liên kết kinh tế với nhau góp vốn để hình thành Công ty (xí nghiệp) hoặc Công ty cồ phần: các Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để thu hút thêm nguồn vốn phát triển sản xuất kinh doanh. - Liên doanh về cung cấp vật tư lao vụ: liên doanh giữa các đơn vị chế biến, khai thác, sản xuất vật tư. - Liên doanh để tiêu thụ sản phẩm: Hoạt động liên kết kinh tế để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm đồng thời tạo lập mở thị trường đầu ra. - Hoạt động liên doanh để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lao động, cán bộ kỹ thuật quản lý cho Doanh nghiệp có thể diễn ra dưới các hình thức sau: Hợp đồng liên kết kinh doanh bồi dưỡng, đào tạo theo từng lớp, đợt cho những đối tượng cụ thể. Hoạt động liên doanh này tạo điều kiện thuận lợi cho cả đôi bên, đáp ứng nhu cầu đào tạo trực tiếp cho các Doanh nghiệp. - Liên doanh giữa các Công ty, các Doanh nghiệp phải lấy mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn để phấn đấu. Chống khuynh hướng liên doanh không lành mạnh IV- Phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội 1- Phân tích hiệu quả sử dụng lao động: Sớm nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc sử dụng lao động có hiệu quả, Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội trong mấy năm qua đã không ngừng hoàn thiện và sắp xếp lại nguồn nhân lực trong Công ty mình. Từ đó khai thác triệt để năng lực và sức sáng tạo của ngườii lao động, tiến tới nâng cao hiệu quả trong công việc sử dụng nguồn nhân lực này. Qua số liệu thực tế thu nhập được ta có bảng sau (số liệu trích từ bảng kết quả hoạt động kinh doanh). Bảng 5: Bảng phân tích hiệu quả sử dụng lao động tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội. Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện So sánh tính 1999 2000 +/- % 1. Tổng doanh thu Triệu đồng 12.112 18.614 +6.502 153,68 2. Lợi nhuận sau thuế Triệu đồng 532 638 +106 119,93 3. Tổng số lao động Người 210 250 +40 119,05 4. Số lao động trực tiếp Người 194 232 +38 119,59 5. Số lao động gián tiếp Người 16 18 +2 112,5 6. Năng suất lao động (6=1/3) Triệu đồng/ người 57,676 74,456 +16,78 129,09 7. Doanh thu của lao động trực tiếp (7=6 x 4) Triệu đồng 11189,144 17.273,79 +6.084,646 154,38 8. Doanh thu của lao động gián tiếp (8= 6x 5) Triệu đồng 992,816 1.340,208 +417,392 145,23 9. Sức sản xuất (9 = 3/2) Triệu đồng/ người/năm 0,3947 0,39185 -0,0029 99,28 10. Sức sinh lợi (10 = 2/3) Triệu đồng/ người/năm 2,533 2,552 +0,019 100,75 11. Suất hao phí (11 = 3/4) Người/ triệu đồng 0,01734 0,01343 -0,00391 77,45 Từ bảng phân tích ta thấy: Năng suất lao động của Công ty năm 2000 tăng lên so với năm 1999 là 16,78 triệu đồng/người/năm hay đạt mức so sánh 29,09%. Nguyên nhân sự tăng lên của chỉ tiêu năng suất lao động là so số lượng doanh thu của năm 2000 nhiều hơn năm 1999 là 6.502 triệu đồng. (doanh thu của: Bao bì nhựa HD tăng 3460 triệu đồng Bao bì nhựa PE tăng 2716 triệu đồng Bao bì PP tăng 56 triệu đồng Bao bì Carton tăng 114 triệu đồng Dịch vụ tăng 156 triệu đồng) tăng 53,68% nhờ số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại mặt hàng đã tăng lên ở năm 2000 so với năm 1999. Mặc dù ta thấy số lượng công nhân năm 2000 tăng 40 người nhưng nó không làm ảnh hưởng mấy tới chỉ tiêu năng suất lao động vì tốc độ tăng của nó nhỏ (19,05%), tốc độ tăng lao động này nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu. Doanh thu của lao động trực tiếp tăng lớn 6084,646 triệu đồng, số so sánh là tăng 54,38% so với năm 1999. Doanh thu của lao động gián tiếp tăng 417.392 triệu đồng, tăng 45,23% so với năm 1999. Sự tăng này là do năng suất lao động tăng mạnh và do sự tăng lên của lao động trực tiếp 38 người tăng 19,59% so với năm 1999 và lao động gián tiếp tăng 2 người 12,5%. Thực tế thì danh lợi lao động năm 2000 tăng lên so với năm 1999 ở mức 0,019 triệu đồng/người/năm hay đạt 0,75%. Đây là kết quả tốt đối với Công ty và là kết quả của sự biến động hợp lý gắn với 2 nhân tố là lợi tức sau thuế và lượng lao động bình quân tại Công ty. Đó là sự biến động tăng của cả 2 nhân tố trong đó nguyên nhân chính dẫn đến sức sinh lợi tăng là do tốc độ tăng của lợi tức sau thuế năm 2000 so với năm 1999 là cao tăng 19,93% trong khi đó tốc độ tăng của lao động bình quân là 19,95%. Điều đó chứng tỏ Công ty đã sử dụng và bố trí lao động đúng người, đúng việc, không còn tình trạng công nhân nghỉ chờ việc từ đó làm tăng được lãi thực cho Công ty và đảm bảo hiệu quả kinh tế trong SXKD. Khi nói tời suất hao phí lao động ta nhận thấy rằng, để có được một đơn vị doanh thu thì Công ty phải có một lượng lao động nhất định trong kỳ SXKD. Từ bảng trên cho ta nhận xét rằng: Công tác quản lý, sự dụng và điều chỉnh nhân lực của Công ty trong 2 năm qua là hợp lý, do vậy đã giảm được suất hao phí lao động năm 2000 xuóng còn 0,01343 lao động/triệu đồng/năm (giảm 0,00391 lao động/triệu đồng/năm so với năm 1999) hay đạt mức 22,55%. Kết quả khả quan này Công ty đạt được chủ yếu là do doanh thu tăng rất cao (53,68%). Nhìn chung trong 2 năm qua, Công tác quản lý và sử dụng lao động tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm, không ngừng sắp xếp, bố trí lại, sử dụng hợp lý và khai thác triệt để khả năng nguồn lực quan trọng này. Tuy nhiên số lao động tăng thêm do mở rộng sản xuất nhằm mục đích kinh tế - xã hội còn phải sắp xếp và bố trí hơn nữa để thực hiện mục tiêu của mình. Trong những năm tới Công ty cần duy trì và phát triển hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn lực này nhằm làm giàu cho cả Doanh nghiệp và cho nền kinh tế nước nhà. 2- Phân tích khả năng sinh lợi của vốn: Trong nền kinh tế mở hiện nay, mỗi Doanh nghiệp đều mong muốn thu được lợi nhuận cao trong SXKD với số vốn đầu tư bỏ ra hay tỷ suất lợi nhuận mà Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội đạt được trong kỳ SXKD qua bảng sau: Bảng 6: Bảng phân tích tổng hợp khả năng sinh lợi của vốn (Đơn vị tính: Triệu đồng) Chỉ tiêu Thực hiện So sánh 1999 2000 +/- % 1. Tổng doanh thu 12112 18.614 +6.502 153,68 2. Lợi tức sau thuế (lợi nhuận) 532 638 +106 119,93 3. Vốn kinh doanh 12302 12802 +500 104,06 4. Vốn chủ sở hữu 7701,4 8001.4 +300 103,89 5. Hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh ( 5 = 2/3) 0,0432 0,0498 +0,0066 115,28 6. Hệ số sinh lợi vốn kinh doanh ( 6 = 2/4) 0,0691 0,0797 +0,0106 115,34 7. Hệ số doanh thu/ vốn kinh doanh (7 =1/3) 0,9845 1,4539 +0,4694 147,68 8. Hệ số sinh lợi của doanh thu ( 8 = 2/1) 0,4439 0,0343 -0,0096 78,13 Nguồn số liệu: Phòng tài chính kế toán Qua bảng phân tích trên ta có thể đánh giá một cách tổng quát rằng: Trong năm 2000, Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà nội đã thu những thành công nhất định trong việc sử dụng các nguồn vốn hiện có của mình, đó là việc tất cả các hệ số sinh lợi của Công ty đều tăng lên với tốc độ tăng cao, ngoại trừ hệ số sinh lợi của doanh thu giảm, kết quả này được lý giải bởi chính ảnh hưởng các các nhân tố cấu thành nên những chỉ tiêu này đã thay đổi. Hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh và hệ số sinh lợi của vốn chủ sở hữu ta dễ dàng nhận thấy, đó là các nhân tố kinh doanh và vốn chủ sở hữu có tốc độ tăng (4,06% và 3,89%) nhỏ hơn tốc độ tăng của lợi nhuận (19,93 %). Do vậy khi hai chỉ tiêu này tăng lên cũng là điều dễ hiểu, cụ thể là: Hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh tăng 15,28% Hệ số sinh lợi của vốn chủ sở hữu tăng 15,28% Chỉ tiêu hệ số doanh thu trên vốn kinh doanh đạt được cao hơn so với năm 1999, tăng 47, 68%. Kết quả này là chịu sự ảnh hưởng của 2 nhân tố đó là sự gia tăng của nhân tố tổng doanh thu và vốn kinh doanh, nhưng sự gia tăng của nhân tố tổng doanh thu tăng lớn hơn rất nhiều (53,68%) so với vốn kinh doanh (4,06%). Còn chỉ tiêu hệ số sinh lợi của doanh thu thì lại giảm so với năm 1999 rất nhiều (giảm 21,87%). Cũng do 2 nhân tố ảnh hưởng là tổng doanh thu và lợi tức. Sự giảm mạnh này là do tốc độ tăng của tổng doanh thu (53,68%) lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của lợi tức (19.93%) do vậy tỉ lệ thực lãi trên tổng doanh thu giảm 0,0096 triệu đồng. Chưa đáp ứng được hiệu quả SXKD. Vì thế trong thời gian tới Công ty phải có biện pháp để nâng cao chỉ tiêu này để thực sự đem lại hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng nguồn vốn. 3- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định Bảng 7: Bảng phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội). Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Thực hiện So sánh 1999 2000 +/- % 1. Tổng doanh thu 12112 18614 +6502 153,68 2. Lợi nhuận trước lãi suất và thuế 532 638 +106 119,93 3. Nguyên giá bình quân TSCĐ 8622 8.822 +200 102,32 4. Sức sản xuất (4 = 1/3) 1,4048 2,1099 +0,7051 150,19 5. Sức sinh lợi (5 = 2/3) 0,0617 0,0723 +0,0106 117,18 6. Suất hao phí(6=3/1) 0,7119 0,4739 -0,2379 66,57 Nguồn số liệu: Phòng tài chính kế toán Nhìn chung về mặt kết quả sản xuất năm 2000 đã vượt mức rất nhiều so với năm trước. Giá trị doanh thu và lợi nhuận tăng lên thể hiện ở mức so sánh tương ứng là 153,68% và 119,93%. Bên cạnh đó là nguyên giá bình quân tài sản cố định cũng tăng lên nhẹ do quá trình đầu tư liên tục của Công ty, vì vậy giá trị tài sản cố định năm 2000 so với năm 1999 đạt 102,32%. Do đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường đối với sản phẩm mà Công ty không ngừng tiến hành đầu tư, nâng cấp máy móc thiết bị nhằm không ngừng hoàn thiện sản phẩm của mình. Thực tế trong năm 2000 Công ty đã đầu tư 200 triệu đồng cho máy móc thiết bị và năm 1999 thì đầu tư gần 2 tỷ đồng. Bằng sự đầu tư mạch dạn này gắn với sự vận hành máy móc thành thạo của đội ngũ công nhân viên mà sản phẩm của Công ty làm ra luôn đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Mặt khác với các phương thức thanh toán linh hoạt và thuận tiện (bằng tiền mặt, chuyển khoản) mà doanh thu năm 2000 của Công ty đã tăng lên rõ rệt. Điều này chứng tỏ rằng: Trước mắt việc đầu tư, nâng cấp máy móc thiết bị đã mang lại hiệu quả nhất định, không những doanh thu tăng lên mà Công ty đã giảm được đáng kể sản phẩm dở dang, sản phẩm hỏng so với năm trước. Nhưng để đánh giá chính xác sự hợp lý của việc đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị và hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty trong 2 năm qua ta tiến hành phân tích một số chỉ tiêu sau: Sức sản xuất của vốn cố định năm 2000 tăng hơn so với năm trước (tăng 0,7051 triệu đồng ) là do: mặc dù nguyên giá bình quân tài sản cố định tăng 2,32% nhưng tốc độ tăng của nó chậm hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu là 53,68%. Sức sinh lợi của vốn cố định tăng 0,0106 triệu đồng (tăng 17,18%). Ngoài ra suất hao phí của vốn có giảm đi 0,2379 triệu đồng (giảm 33,43%). Thực chất là do sự gia tăng của tổng doanh thu. Điều này chứng tỏ Công ty đã tiết kiệm được chi phí tài sản cố định cho sản xuất trong khi doanh thu và lợi nhuận vẫn tăng lên so với năm trước. Qua 3 chỉ tiêu trên ta thấy: sức sản xuất của vốn cố định tăng, suất hao phí giảm và đặc biệt là sức sinh lợi tăng do đó Công ty đã sử dụng vốn cố định có hiệu quả. 4- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Bảng 8: Bảng phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội. (Đơn vị tính: Triệu đồng) Chỉ tiêu Thực hiện So sánh 1999 2000 +/- % 1. Tổng doanh thu 12.112 18.614 +6502 153,68 2. Lợi nhuận trước thuế 532 638 +106 119,93 3. Vốn lưu động bình quân 3680 3980 +300 108,15 4. Sức sinh lợi(4 = 2/3) 0,1446 0,1603 +0,0157 110,86 Nguồn số liệu: Phòng tài chính kế toán Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy: Trong năm 2000 Công ty đã bổ xung thêm 300 triệu đồng vốn lưu động (tăng 8,15% so với năm 1999) cho quá trình SXKD và đã khai thác triệt để tiềm năng của nguồn vốn này vì thế mà lợi nhuận tăng 19,93% do đó đã làm tăng sức sinh lợi của vốn lưu động so với năm 1999 ở mức so sánh là 110,86% (tức là tăng 10,86%). Và ta phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động thì thấy kết quả khả quan cho Công ty. Bảng 9: Bảng phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện So sánh tính 1999 2000 +/- % 1. Tổng doanh thu Triệu đồng 12.112 18,164 +6.502 153,68 2. Vốn lưu động bình quân Triệu đồng 3680 3980 +300 108,15 3. Thời gian của kỳ phân tích Ngày 360 360 4. Số vòng quay của vốn lưu động (4=1/2) Vòng 3,29 4,677 +1,387 142,16 5. Thời gian 1 vòng luân chuyển (5 = 3/4) Ngày/vòng 109,42 76,97 -32,45 70,34 Qua bảng trên ta có thể đánh giá sơ bộ rằng: Trong thời gian của kỳ sản xuất không đổi là 360 ngày. Tổng doanh thu của Công ty năm 2000 đã tăng lên so với năm trước 53,68% là nhờ vào sự cố gắng của toàn Công ty đã sử dụng và khai thác hợp lý, có hiệu quả số vốn lưu động mà mình có. Chính từ kết quả kinh doanh khả quan này là cơ sở, là đòn bẩy cho Công ty đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn lưu động từ đó nhằm giải quyết nhu cầu về vốn trong SXKD (nhu cầu này thường rất lớn) hạn chế việc ứ đọng vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho Công ty. Theo kết quả tính được ta thấy Công ty đã có cố gắng trong việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động trong năm 2000. Đó là số vòng quay của vốn lưu động đã tăng 1,387 vòng so với năm 1999, đồng thời thời gian của 1 vòng quay từ 109,42 ngày giảm xuống còn 76,97 ngày (giảm được 32,45 ngày/ vòng). 5. Thực trạng thu nhập của công nhân trong Công ty thời gian qua 5-1 Tiền lương, tiền công: Là giá cả sức lao động được hình thành trên thị trường sức lao động, thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động phù hợp với các quan hệ lao động và pháp luật của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là giá cả sức lao động, là nguồn sống chủ yếu của người lao động, là một yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh. Mức lương của người lao động do đó phải được thoả thuận trong hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Để khuyến khích người lao động làm việc cần mẫn và phát huy trí sáng tạo, bảo đảm lợi ích chính đáng cho người lao động và cho Doanh nghiệp. Công ty đã chọn hình thức trả lương theo sản phẩm là trên cơ sở đơn giá tiền lương và chất lượng sản phẩm đã quy định của Doanh nghiệp, trả lương theo số lượng sản phẩm giao nộp của người lao động. Tuỳ theo mức độ gia tăng số lượng hoặc chất lượng sản phẩm có nhiều cách trả lương theo sản phẩm, ngoài đơn giá quy định, đơn giá luỹ tiến đối với sản phẩm làm vượt định mức lao động... 5-2 Tiền thưởng và các phúc lợi Ngoài tiền lương, tiền công người công nhân còn có thêm tiền thưởng tăng năng suất lao động, tiền thưởng chất lượng cao... lợi nhuân của danh nghiệp hàng tháng, quý được trích thưởng cho người lao động trên cơ sở bình xét từ các tổ đưa lên. Việc trích thưởng kịp thời này đã góp phần động viên người lao động tích cực sáng tạo trong lao động sản xuất, đảm bảo kỷ luật lao động. Từ số liệu ở “bảng 1” cho ta thấy thu nhập bình quân của người lao động năm sau cao hơn năm trước, năm 1999 thu nhập bình quân là: 715.000đồng/người lao động. Năm 2000 là 738.000đồng/người lao động, tăng 23.000đồng. ở mức so sánh tăng 3,2 %. Điều này đã chứng tỏ rằng Công ty luôn đảm bảo đầy đủ công ăn việc làm cho người lao động, làm cho người lao động có thu nhập ổn định và họ luôn yên tâm với công việc của mình. V- Đánh giá chung Sau khi đã đi vào phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả SXKD tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội và xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, ta có thể tổng hợp các chỉ tiêu qua bảng sau: Bảng 10: bảng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả SXKD tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội/ (Đơn vị tính: Triệu đồng) TT Chỉ tiêu Thực hiện So sánh 1999 2000 +/- % 1 Hiệu quả sử dụng lao động Sức sản xuất Sức sinh lợi Suất hao phí 0,3947 2,533 0,01734 0,39185 2,552 0,01343 -0,0029 +0,019 -0,00391 99,28 100,75 77,45 2 Khả năng sinh lời của vốn Hệ số sinh lợi của VKD Hệ số sinh lời của VCSH Hệ số doanh thu/VKD Hệ số sinh lợi của doanh thu 0,0432 0,0691 0,9845 0,0439 0,0498 0,0797 1,4539 0,0343 +0,0066 +0,0106 +0,4694 -0.0096 115,28 115,34 147,68 78,13 3 Hiệu quả sử dụng vốn CĐ Sức sản xuất Sức sinh lợi Sức hao phí 1,4048 0,0617 0,7119 2,1099 0,0723 0,4739 +0,7051 +0,0106 -0,2379 150,19 117,18 66,57 4 Hiệu quả sử dụng VLĐ Sức sinh lợi Số vòng quay của VLĐ (vòng) Thời gian 1 vòng luân chuyển (ngày/vòng) 0,1446 3,29 109,42 0,1603 4,677 76,97 +0,0157 +1,386 -32,45 110,86 142,16 70,34 Trong 2 năm qua nhìn chung Công ty làm ăn có hiệu quả, đảm bảo thu nhập cho người lao động cũng như bản thân Công ty. Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên dày dạn kinh nghiệm, có tinh thần đoàn lết gắn bó thương yêu đùm bọc lẫn nhau, luôn coi nhau như anh em trong một gia đình. Ban lãnh đạo luôn có ý thức cầu tiến, đổi mới kịp thời theo yêu cầu thị trường. Bên cạnh đó Công ty có chính sách hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước đối với các đơn vị chính sách như giảm 50% thuế doanh thu và miễn thuế lợi tức. Nhờ đó các chỉ tiêu sức sinh lợi tăng lên. Các chỉ tiêu về sức sản xuất đều tăng cao ngoại trừ sức sản xuất của lao động lại giảm xuống nhưng không đáng kể, đồng thời suất hao phí của vốn đầu tư cũng như chi phí là giảm xuống. Trong quá trình SXKD Công ty đã đầu tư làm tăng thêm vốn cố định và vốn lưu động và đã khai thác triệt để tiềm năng của nguồn này nên sức sinh lợi của chúng tăng lên trong năm 2000. Ngoài ra hệ số sinh lợi của vốn kinh doanh và của vốn chủ sở hữu đã tăng cao (15,28% và 15,34%/1năm) nhưng hệ số sinh lợi của doanh thu lại giảm xuống. Công ty có thể nâng cao được hệ số này và đạt kết quả kinh doanh cao hơn vì còn có rất nhiều khả năng tiềm tàng mà Công ty chưa tận dụng được và giải quyết những khó khăn còn tồn tại đó là: - Máy móc tăng nhanh cả về số lượng và trình độ kỹ thuật song do Công ty nhập khẩu ồ ạt đã để lại hậu quả: thiếu một số máy chuyên dùng trong khi thừa một số loại khác trong các khâu sản xuất túi bao bì nhựa. Điều này ảnh hưởng tới tính đa dạng của mặt hàng, một vấn đề có tính chất quan trọng sản xuất bao bì. - Toàn bộ nguyên vật liệu và phụ liệu đều phải nhập từ nước ngoài (trừ một số vật liệu) do đó phụ thuộc hoàn toàn vào giá cả biến động của thị trường thế giới. Ví dụ: Giá hạt nhựa tăng từ 7.800đồng/kg lên 9.400đồng/kg trong các tháng đầu năm 2000 và giảm dần từ tháng 9 cùng năm. Hiện nay vào khoảng 8.900đồng/kg đã gây cho Công ty nhiều khó khăn trong việc hạ giá thành sản phẩm và thị trường tiêu thụ. - Mặc dù có công tác tìm hiểu thị trường nhưng hiệu quả còn kém. Mạng lưới vi tính của Công ty đơn lẻ, chưa hoà mạng nên việc tìm hiểu thị trường và tiếp cận với những thông tin cập nhật là không có. Hơn nữa khả năng tự tạo mẫu mã riêng của Công ty cũng chưa có. Hiện tại các đối tác đặt hàng phải gửi tài liệu và cử chuyên gia, kỹ thuật sang hướng dẫn. Công ty cần phải giải quyết và khai thác một số tồn tại sau: - Trong ban giám đốc chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp, toàn diện trong các thành viên nên đôi lúc còn hạn chế trong việc điều hành. - Các phòng ban nghiệp vụ chưa phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng chưa thực sự hỗ trợ lẫn nhau trong công tác kế hoạch, thống kê và hạch toán. Các quy định ghi chép số liệu ban đầu còn tuỳ tiện dẫn đến số liệu không khớp nhau phải đối chiếu mất nhiều thời gian, chế độ báo cáo chưa triệt để, thường xuyên chậm về thời gian theo yêu cầu của lãnh đạo. - Cán bộ, công nhân trong phân xưởng trình độ còn hạn chế, việc đào tạo tại chỗ còn mang tính chấp vá và thiếu đồng bộ. Tuổi đời bình quân của người lao động tương đối cao. Sức khoẻ càng ngày càng giảm sút do vết thương cũ tái phát và tuổi đời ngày càng cao. Đây là những trăn trở lớn đối với Ban lãnh đạo Công ty. Phải bố trí sắp xếp công việc như thế nào cho anh em thương, bệnh binh để phù hợp với tay nghề và sức khoẻ của anh em mà không ảnh hưởng đến năng suất lao động. - Còn thiếu vốn nhiều so với yêu cầu SXKD của Công ty. Nhất là vốn dùng để đầu tư theo chiều sâu, thủ tục đầu tư rất phức tạp phải qua nhiều khâu thẩm định. Chương III Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà nội I- Tăng cường sử dụng có hiệu quả nguồn lao động Lao động có ý nghĩa quyết định đến hoạt động SXKD của Doanh nghiệp, với việc sử dụng có hiệu quả nguồn lao động sẽ làm cho Doanh nghiệp có hiệu quả SXKD để tồn tại và phát triển, đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy gay gắt. 1- Tăng cường phân công lao động, bố trí lao động hợp lý Phân công lao động, bố trí lao động hợp lý sẽ làm cho Công ty khai thác được triệt để năng lực và sức sáng tạo của người lao động tiến tới nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lao động. Đối với Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội thì thực hiện những biện pháp sau để sử dụng lao động có hiệu quả. Công ty phải rà soát lại các văn bản quy định nội bộ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cũ trên cơ sở đó Công ty cho ra một số văn bản mới phù hợp với yêu cầu thực tế, hệ thống hoá chặt chẽ, phổ biến rộng rãi cho cán bộ công nhân viên. Các phòng ban phải xây dựng lại quy định phân giao nhiệm vụ cụ thể, các mối quan hệ của từng thành viên trong nhóm, phòng, quyền hạn và trách nhiệm. Kiên quyết dùng các biện pháp tổ chức, thuyên chuyển, cho thôi việc đối với những vị trí thừa trong các phòng ban, dây chuyền sản xuất. Cần rà soát thường xuyên, đánh giá đúng yêu cầu của công việc, năng lực phẩm chất cán bộ, bố trí, điều chỉnh cho hợp lý để tạo điều kiện cho những người có khả năng phát huy hết năng lực của mình. Có một số cán bộ đã yên vị hàng chục năm ở một vị trí cần được giao thêm nhiệm vụ, thay đổi vị trí cho họ để có thể phát hiện được khả năng tiền ẩn trong họ, đồng thời làm cho họ khỏi rơi vào tình trạng chủ nghĩa kinh nghiệm, lười sáng tạo. Thực hiện được những biện pháp trên Công ty sẽ giải quyết được tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ quản lý, công nhân sản xuất hiện nay. Mọi người sẽ làm việc đúng chức năng của mình, tránh được lãng phí lao động. 2- Hoàn thiện công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn: Lực lượng công nhân của Công ty về trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Công ty. Trình độ lao động phổ thông chiếm tỉ lệ cao 92,8% trong tổng số lao động. Cùng với yêu cầu sản xuất của Công ty cần phải tiến hành đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn. Cán bộ công nhân viên trong Công ty thường xuyên được kiểm tra và đào tạo lại tay nghề để nâng cao hiệu quả làm việc. Chính sách đào tạo cán bộ, công nhân của Công ty thường được tổ chức dưới hình thức sau: Đào tạo tại chỗ tức là đào tạo kỹ thuật trong phạm vi nhiệm vụ và trách nhiệm của nhân viên, dưới sự chỉ đạo của giám sát viên hoặc giám sát bộ phận. Mở lớp đào tạo trong Công ty, môn học chung cho tất cả các bộ phận sẽ theo quy định và hướng dẫn của Công ty. Đào tạo ngoài Công ty, Công ty có thể cử nhân viên dự các khoá huấn luyện hoặc là hội thảo của các Công ty và của các trường đào tạo khi có điều kiện. Việc cử đi học phải được quản lý chặt chẽ có định hướng rõ ràng, cố gắng kế thừa kinh nghiệm, nghề nghiệp cũ. Khuyến khích người lao động sử dụng thời gian của mình để tự trau dồi kiến thức. Công ty sẽ trả học phí một phần hay trợ cấp cho các khoa học nghiệp vụ nếu được Ban giám đốc phê chuẩn. Trong công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của Công ty có rất nhiều hình thức khác nhau và mục tiêu đào tạo cho từng năm được đề ra theo yêu cầu đòi hỏi của công việc thực tế. Đối với cán bộ kỹ thuật đã công tác lâu năm cần có kế hoạch luân phiên đưa đi đào tạo lại về khoa học công nghệ mới, về tin học và ngoại ngữ. Đối với cán bộ mới ra trường nên áp dụng hình thức kèm cặp, bồi dưỡng kinh nghiệm tại chỗ. Đối với công nhân định kỳ hàng năm có chương trình bổ túc về nghề nghiệp nhất là các dây chuyền về công nghệ mới. Phải mở rộng chiến dịch đào tạo cho toàn bộ lao động trong Công ty. Nghĩa là người lao động có khả năng thích ứng với nhu cầu công việc ở mức độ nhất định vẫn cần nâng cao trình độ chuyên môn hơn nữa để họ có thể thích ứng với công việc ở mức độ cao hơn, tự chủ vững tin trong công việc được giao. Đây là biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng lao động để thực hiện phương án này hàng năm Công ty phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ. Nhưng không thể không có vì nó liên quan đến sự phát triển của Công ty trong tương lai. II- Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Thị trường tiêu thụ là đặc biệt quan trọng đối với Công ty vì từ trước tới nay khách hàng đặt sản xuất chính là người tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Do vậy để mang lại hiệu quả cao trong việc tiêu thụ sản phẩm. Trong thời gian tới Công ty cần phải tiến hành các biện pháp nghiên cứu và mở rộng thị trường bao gồm: 1- Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục tiêu: Nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường có cạnh tranh nên một Doanh nghiệp muốn đứng vững phải đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu thị trường nhằm thu về lợi nhuận lớn nhất. Trong điều kiện đó công tác nghiên cứu thị trường cần phải được thường xuyên coi trọng vì nó là khâu cần thiết quyết định trong quá trình kinh doanh. Qua việc nghiên cứu thị trường đến việc xác định thị trường trọng điểm để quyết định sự tăng giảm sản xuất ở thị trường. Việc nghiên cứu thị trường phải nghiên cứu cụ thể ở từng loại khách hàng, từng loại hàng dựa trên khả năng có thể của Doanh nghiệp mà còn chính sách kinh doanh hợp lý. Để có được sự nghiên cứu đầy đủ chính xác, Công ty cần đào tạo và cử những chuyên gia có kinh nghiệm đi tìm hiểu thực tế, nắm bắt thông tin, xử lý dữ liệu, dự báo chính xác và nếu có thể tìm và bắt mối với khách hàng. Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty từ năm 1998 vẫn là tìm kiếm và tìm hiểu thị trường, nâng cao giá trị tổng sản lượng hàng bao bì. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty đòi hỏi phải nắm được những thông tin cần thiết về các Doanh nghiệp cùng sản xuất hàng bao bì, xu hướng thị trường hàng hoá bao bì trong nước và thế giới. Khả năng tiêu thụ của Công ty. Đối với mỗi thị trường cụ thể Công ty phải có cách tiếp cận riêng để đề ra hệ thống chỉ tiêu kỹ thuật phù hợp. Mặt khác công tác nghiên cứu thị trường cần được kéo dài và thường xuyên, liên tục, cần phải quan tâm tới nhiều thông tin khác nhau, thông qua đó Công ty có thể trách được những tổn thất trong qúa trình kinh doanh. Hơn nữa còn phải được tiến hành trên cả 2 lĩnh vực thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nghiên cứu thị trường nước ngoài gắn liền với công tác xuất khẩu hàng hoá và nhập khẩu vật tư thiết bị. Bộ phân nghiên cứu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu cần có các cán bộ có khả năng nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ để theo dõi các thị trường nước ngoài theo từng khu vực như: thị trường Đông Nam á, thị trường Tây Âu, Đông Âu và các thị trường mới như Trung á, Bắc Mỹ và Chây Mỹ. Khi có điều kiện Công ty nên tạo cơ hội cho các cán bộ tiếp cận các thị trường nói trên để có những thông tin chính xác, đánh giá đúng thị trường từ đó giúp Công ty có đủ điều kiện thâm nhập và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Còn đối với thị trường trong nước đang là tiềm năng to lớn cho việc phát triển sản xuất của Công ty nói riêng và của toàn ngành nói chung. Vì thế đòi hỏi phải có cơ chế kinh doanh hiện nay, phải coi trọng thị trường trong nước với hơn 78 triệu dân là then chốt cho việc đầu tư kinh doanh sát với nhu cầu thị trường. Để công tác thu nhập thông tin, điều tra nghiên cứu thị trường nội địa thành các vùng hẹp (có thể theo vùng địa lý như: vùng Đồng bằng miền Núi, thành phố hay nông thôn). Đối với những vùng như thành phố có thu nhập cao, sống trang trọng, thích đi mua sắm thì đây quả là một thị trường lớn đối với Công ty. Vì thế trong thời gian tới, Công ty cầu thành lập phòng Marketing với chức năng nghiên cứu và phát triển thị trường, đề ra các chính sách marketing (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến), phối hợp chặt chẽ với phòng xuất nhập khẩu để hoạt động SXKD hàng bao bì của Công ty có hiệu quả hơn. 2- Sử dụng chính sách khuyếch trương quảng cáo Quảng cáo là bất cứ hình thức trình bầy được chi trả nào của trình bầy và xúc tiến phi cá nhân về ý tưởng các hàng hoá, các dịch vụ cho một người bảo trợ nhất định. Quảng cáo là để dễ dàng cho người tiêu dùng nắm bắt thông tin về hàng hoá, thúc đẩy khách hàng do dự đến với mình nhanh hơn, từ đó Công ty mới có được chiến lược để đẩy mạch tiêu thụ sản phẩm. Đây là một trong những vũ khí lợi hại nhất để thu hút khách hàng. Vì nhận thức rõ điều này nên Công ty không tiếc chi những khoản tiền khổng lồ cho việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình. Tuy nhiên quảng cáo có hiệu quả không phải là điều đơn giản, mà nó là cả một nghệ thuật, một kỹ năng mang tính tiểu sảo. Quảng cáo phải làm sao cho người tiêu dùng hiểu được thế mạch của Công ty là một Doanh nghiệp lớn có lịch sử kinh doanh lâu dài, có thị trường rộng, có chữ tín trong quan hệ buôn bán, mặt hàng kinh doanh có chất lượng, đảm bảo đúng nhãn mác, xuất xứ, sản xuất với giá thành hợp lý, dịch vụ trước và sau khi bán hàng đáp ứng nhu cầu tối đã cho khách hàng. Quảng cáo ngay trên bao bì sản phẩm, qua ti vi, đài, báo. Thường xuyên quảng cáo ở các mặt báo có nhiều độc giả quan tâm như thời báo kinh tế, đầu tư, Doanh nghiệp... những báo này là phương tiện gián tiếp đưa người tiêu dùng đến với Công ty. Công ty nên duy trì quảng cáo một cách đều đặn. Công ty nên tổ chức cửa hàng giới thiệu sản phẩm để tăng khả năng tiếp cận người tiêu dùng. Tổ chức các hội nghị khách hàng tiêu dùng và khách hàng trung gian khoảng 3 tháng một lần. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay muốn tiêu thụ được sản phẩm, Công ty phải biết chiều khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ thông qua việc đáp ứng đầy đủ số lượng, chất lượng và mặt hàng sao cho phù hợp với các nhu cầu của nhiều đối tượng tiêu dùng khác nhau, phương thức tiêu thụ phải đơn giản, thuận tiện, thiết bị phục vụ phải tiện lợi và hiện đại. Ngoài ra Công ty cũng cần quan tâm đặc biệt đến thái độ bán hàng. Nên nhớ rằng thân mật, cởi mở và chu đáo trong quá trình phục vụ là thứ nam châm thu hút khách hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả SXKD Công ty cần quán triệt phương châm “khách hàng là tất cả” III- Đầu tư cho công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong những năm qua với những nỗ lực và cố gắng, Công ty đã mua sắm một số máy móc chuyên dùng hiện đại và một số máy móc thiết bị mới thay thế cho các máy móc cũ đã quá lạc hậu. Nhưng so với trình độ của các nước phát triển hay ngay cả với những nước cạnh tranh với nước ta về hàng bao bì như Đài Loan, Singapro, Nhật bản... thì máy móc thiết bị của Công ty vẫn lạc hậu hơn. Do đó để nâng cao chất lượng sản phẩm trong gian đoạn hiện nay thì Công ty vần phải đầu tư thêm máy móc thiết bị mới, hiện đại của các nước phát triển. Đặc biệt nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm bao bì của Công ty trong những năm tới trung bình là 1400 tấn/năm. Trong khi năng lực hiện tại năm 2000 của các phân xưởng chỉ đạt 1200tấn/năm. Vì thế để đạt chỉ tiêu trên thì các phân xưởng bao bì nhựa 12người/ ca dự tính phải được đầu tư để cải tiến và mua mới thêm một số máy móc thiết bị trị giá 1,5 tỷ đồng, gồm máy in liên hoàn... Dĩ nhiên khi mua sắm máy móc thiết bị, ngoài việc lựa chọn các máy phù hợp với nhu cầu, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, Công ty phải đánh giá được hiệu quả của việc đầu tư vào máy móc thiết bị. Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả đầu tư trong đó có chỉ tiêu quan trọng về mặt tài chính đó là: Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV): là tổng lãi quy về thời điểm hiện tại. Để xác định NPV, chúng ta xác định lãi của các năm quy chúng về thời điểm năm đầu tư rồi cộng kết quả lại tức là: Trong đó: Bi: thu nhập năm i Ci: chi phí năm i r: tỷ lệ chiết khấu n: Thời gian hoạt động của dự án CFi = Bi - Ci: số dư thu chi của năm i hay còn gọi là dòng tiền i NPV >0 thì dự án có lãi. - Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư có chiết khấu (T): xác định khoảng thời gian khi số vốn đầu tư bỏ ra thu hồi được hoàn toàn. Nó thoả mãn phương trình sau: K: Vốn đầu tư ban đầu. Thông thường người ta sử dụng các phương pháp sau để tính thời gian thu hồi vốn có chiết khấu T là phương pháp trừ dần, tra bảng, phương pháp cộng dồn. Căn cứ vào thực trạng phân tích trên và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án đầu tư, ta có thể xây dựng một phương án đầu tư cho máy móc thiết bị của Công ty năm 2001 như sau: - Đầu tư ban đầu K = 1500 triệu đồng (gồm cả chi phí bảo dưỡng) được huy động từ quỹ đầu tư và phát triển của Công ty. - Dự án hoạt động trong 10 năm (n=10) Tỷ lệ chiết khấu 10%/năm Tổng vốn đầu tư 1500 Khấu hao đều hàng năm = = = 150(triệu đồng) 10 năm 10 Biết rằng năng lực hiện tại tiêu thụ là 1125 tấn/năm và chi phí sản xuất là 14,625 triệu đồng/tấn: giá bán là 15,875triệu đồng/tấn. Nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm bao bì trong những năm tới trung bình là 1400tấn/năm. Chi phí sản xuất mới cho 1 tấn sẽ là: 14,625 x 1400 tấn + 150 = 14,723 triệu đồng/tấn 1400 Từ đó ta thấy khoản chênh lệch lợi nhuận (DL) sau khi được đầu tư thêm máy móc thiết bị: DL= (15,875-14,732) x1400 -(15,875 - 14,625) x1125 = 193,95 triệu đồng. Dòng tiền vào = DL +khấu hao = 193,95 + 150 = 343,95 triệu đồng. Với hệ số chiết khấu = Ta có: Bảng 11: Dòng tiền qua các năm Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Dòng tiền đầu tư (k) Dòng tiền vào Hệ số chiết khấu Giá trị hiện tại của dòng tiền Cộng dồn Thời hạn thu hồi vốn 2001 1500 0 1 -1500 -1500 2002 0 343,95 0,9091 312,69 -1187,31 2003 0 343,95 0.8264 284,24 -903,07 2004 0 343,95 0,7513 258,41 -644,66 2005 0 343,95 0,6830 234,92 -409,74 2006 0 343,95 0,6209 213,56 -196,18 2007 0 343,95 0,5645 194,16 -2,02 2007 2008 0 343,95 0,5132 176,28 174,26 2009 0 343,95 0,4665 158,18 332,44 2010 0 343,95 0,4241 145,69 478,13 2011 0 343,95 0,3855 132,42 610,55 Như vậy nhìn vào kết quả tính trong bảng ta xác định được NPV của dự án. NPV = 1595,36 triệu đồng. Thời gian năm ngay trước Chi phí chưa được bù đắp lần đầu = năm các luồng tiền + x 12 tháng hoàn vốn của dự án đáp ứng luồng tiền thu được được chi phí trong năm thời gian hoàn vốn = 6 năm + x 12 tháng = 6năm 4 ngày. Như vậy về mặt tài chính, việc đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị sẽ đem lại cho Công ty một khoản lãi 1593,36 triệu đồng tại thời điểm đầu tư và sau 6 năm 4 tháng Công ty thu hồi lại được toàn bộ số vốn đầu tư. IV- Sử dụng hợp lý nguyên vật liệu và đảm bảo vật tư cho sản xuất. Để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thì Công ty phải tìm mọi biện pháp để giảm giá thành như tăng năng suất lao động, định mức nguyên vật liệu sát sao, triệt để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Trước đây nguyên vật liệu trong nước chỉ được Công ty dùng vào sản xuất những mặt hàng phụ. Nay mặt hàng đang được đa dạng hoá, nguồn nguyên liệu trong nước đã và đang được cải thiện đáng kể, đạt tiêu chuẩn chất lượng tốt cho ngành sản xuất bao bì được đầu tư khá lớn. Công ty sẽ sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước như là: thu mua phế liệu, dung môi in lô... để sản xuất những sản phẩm chất lượng cao và đặc trưng. Công ty có kế hoạch thay thế và sử dụng rộng rãi nguyên vật liệu trong nước từ các nhà máy nhựa như là: Tiền Phong ...... Thay vì trước đây phải nhập khầu, các mặt hàng cao cấp mà buộc phải nhập nguyên vật liệu ngoại thì Công ty cũng cố gắng sử dụng thêm nguồn nguyên liệu trong nước. Khi Công ty đi vào sản xuất cho các thị trường thì Công ty phải quan tâm đên việc đảm bảo vật tư cả về số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm cho quá trình sản xuất. Một số biện pháp nâng cao chiến lược công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất là: - Tìm chọn những bạn hàng có uy tín trên thị trường đảm bảo cung cấp cho Công ty đúng số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm giao hàng với mức giá hợp lý nhất. - Tính toán hợp lý số lượng vật tư cần nhập mỗi lẫn và thời gian giữa hai lần nhập nhằm đảm bảo cho qúa trình sản xuất diễn ra liên tục đồng thời lượng vật tư dự trữ cũng không quá lớn, nếu không gây ra tình trạng vốn bị ứ đọng, làm giảm vòng quay của vốn dẫn đến SXKD kém hiệu quả. - Quản lý và tổ chức tốt việc vận chuyển, tiếp nhận hàng hoá, tạo điều kiện cung ứng vật tư kịp thời và đồng bộ cho SXKD của Công ty. Giữ gìn tốt số lượng và chất lượng vật tư hàng hoá. đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn lưu động, giảm chi phí trong cạnh tranh. V- Tăng cường quan hệ hợp tác với đối tác. Mối quan hệ với đối tác là một tài sản vô giá đối với bất kỳ Doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp có tồn tại hay không phụ thuộc phần lớn vào mối quan hệ như người ta thường nói “Buôn có bạn, bán có phường”. Mối quan hệ muốn chặt chẽ thì các bên phải giữ chữ tín với nhau, đó là thái độ sòng phẳng và chiếu cố lẫn nhau trong quan hệ buôn bán kinh doanh. Khi thực hiện hợp đồng, Công ty có đối tác trong nước là các xí nghiệp may, Công ty thực phẩm, các Công ty sản xuất bột ngọt, các siêu thị... và các Công ty xuất nhập khẩu. Các mối quan hệ này một mặt tạo điều kiện cho việc tiến hành sản xuất thuận tiện hơn một mặt có ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất theo hợp đồng của Công ty. Để phát triển sản xuất theo hợp đồng có hiệu quả Công ty cần có giải pháp về quan hệ với đối tác như sau: 1- Quan hệ trực tiếp với người đặt sản xuất theo hợp đồng. Hầu hết các hợp đồng của Công ty đều được ký trực tiếp không phải qua khâu trung gian nên lợi nhuận không bị chia sẽ, kết quả lợi ích kinh tế của Công ty không bị hạn chế. Các Công ty trực tiếp ký kết hợp đồng, họ cung cấp tài liệu kỹ thuật các mẫu hàng...để Công ty tiến hành sản xuất. Để tiến hành quan hệ trực tiếp với khách hàng đặt sản xuất theo hợp đồng thì Công ty cần thực hiện. Tiến hành tạo mẫu mã riêng của Công ty có thể bằng cách hợp tác với đối tác để cùng tạo kiểu dáng sản phẩm bao bì túi đẹp, thích hợp sẽ là cơ sở để cho đối tác quyết định đặt sản xuất tại Công ty. Bởi vì mẫu mã sản phẩm đã phản ánh đầy đủ về trình độ sản xuất, thể hiện chất lượng có đáp được yêu cầu sản xuất theo hợp đồng hay không. Thông thường khi ký kết hợp đồng sản xuất, khách hàng thường trực tiếp cung cấp mẫu mã, các tài liệu kỹ thuật.. 2- Quan hệ với các Công ty cùng sản xuất bao bì. Một mặt phát triển thêm quan hệ hợp đồng sản xuất của Công ty đã có từ trước mặt khác là phát triển sự liên kết vẽ kỹ thuật gồm: - Cùng giúp đỡ nhau về vấn đề tạo mẫu túi, bao bì. - Giúp đỡ nhau về đào tạo và tuyển chọn công nhân. - Trao đổi kinh nghiệm sản xuất và tổ chức sản xuất. Xu hướng ngày nay là các Công ty kinh doanh quốc tế thường liên kết với nhau để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì khi đã là thành viên của một hiệp hội nào đó thì việc cạnh tranh là cạnh tranh của cả khối. Hiện tại Công ty chưa thể liên kết được với các Doanh nghiệp nước ngoài thì giải pháp trước mắt là liên kết với các Doanh nghiệp nội địa. 3- Quan hệ với người cung cấp nguyên vật liệu Từ trước tới nay khi tiến hành hoạt động sản xuất, Công ty phải nhập hầu hết nguyên vật liệu từ phía khách hàng nước ngoài. Do vậy Công ty rất phụ thuộc vào họ. Vì vậy Công ty phải chủ trương mở rộng mối quan hệ với các Doanh nghiệp cung cấp vật liệu, mối quan hệ này phải được liên kết chặt chẽ thông qua các hoạt động như. - Khi có đơn đặt hàng thì Công ty phải ký kết hợp đồng chặt chẽ với nhà cung cấp nguyên vật liệu. - Cung cấp thông tin về nguyên vật liệu cho nhà cung cấp để lần sau cung cấp được tốt hơn. - Có sự đầu tư giúp đỡ về vốn cho các hoạt động xuất khẩu nguyên vật liệu sản xuất cho Công ty mình. Chủ trương mở rộng quan hệ này sẽ tạo điều kiện cho giai đoạn phát triển mới của Công ty đó là SXKD để mở rộng thị trường và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm. VI- Kiến nghị với nhà nước. Xuất khẩu của nước ta hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Một số nước có đồng tiền giảm giá nên hàng xuất khẩu của họ rẻ hơn, lấn sân một số thị trường của Việt Nam. Chúng ta không thiếu các tổ chức cho vay để thực hiện việc xuất khẩu nhưng vấn đề chủ yếu cầu giải quyết hiện nay đối với tín dụng ưu đãi là thiếu nguồn vốn. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có một tổ chức hỗ trợ về vồn thoả đáng cho Doanh nghiệp hoạt động chẳng hạn như bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm rủi ro xuất khẩu, hỗ trợ vốn cho bán hàng trả chậm. Xuất phát từ thực tế và đòi hỏi trên, nước ta cần thành lập một quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Trước mắt quỹ này làm nhiệm vụ cấp tín dụng ưu đãi và làm mấy việc chủ yếu sau: - Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. - Bảo hiểm rủi ro cho hàng xuất khẩu. - Bù lãi suất cho tín dụng xuất khẩu. - Hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp xuất khẩu bán hàng trả chậm. Việc nhà nước lập ra quỹ hỗ trợ xuất khẩu sẽ giúp cho Doanh nghiệp mạnh dạn bán hàng trả chậm với lãi xuất thấp nhờ vậy mà khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, bên cạnh đó còn nâng cao được giá bán hàng. Thông qua việc xuất khẩu nhiều, mạnh của các Công ty thì sản phẩm của họ phải có bao bì đóng gói với mẫu mã đẹp để tăng sự kích thích về sản phẩm và được tiêu thụ nhiều hơn thì Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội sẽ cung cấp được cho họ sản phẩm bao gói của mình với mục đích là mở rộng thị trường tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0337.doc
Tài liệu liên quan