Tính đến hết tháng 12 năm 2006, các KCN đã thu hút được 12 740 lao động vào làm việc, trong đó lao động địa phương có khoảng 7 580 người chiếm 59,5%. Với mức lương bình quân của công nhân lao động khoảng 1,3 triệu đồng/tháng. Về cơ cấu lao động: lao động phổ thông chiếm 32,45%; lao động có tay nghề cơ bản 42,12% và lao động có trình độ đại học 25,43%.
Số lao động làm việc tại các KCN có xu hướng tăng nhanh qua các năm (năm 2001 là 4 350 lao động, năm 2005 là 8 240 và năm 2006 là 12 740 lao động), nguyên nhân chủ là do các doanh nghiệp trong các KCN đã đi vào hoạt động góp phần tạo việc làm cho người lao động.
Như vậy, qua phân tích một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các KCN cho thấy: Trong những năm gần đây, mặc dù tốc độ tăng các KCN trên địa bàn tỉnh tăng nhanh chóng nhưng hiệu quả sử dụng còn thấp, các KCN chưa thực sự trở thành động lực tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế cũng như quá trình CNH – HĐH trong toàn tỉnh.
46 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KCN trên địa bàn tăng nhanh chóng (như nguồn vốn FDI đầu tư vào Vĩnh Phúc cao nhất trong cả nước); giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng nhanh chóng (tốc độ tăng giá trị sản lượng công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng trên 20%).
Những bài học kinh nghiệm
Qua nghiên cứu một số KCN điển hình trong các địa phương có điều kiện tương tự như ở Bắc Ninh, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cần thiết cho Bắc Ninh trong quá trình sử dụng các KCN như sau:
Thứ nhất, các thủ tục hành chính phải đơn giản, gọn nhẹ. Giảm thiểu những thủ tục rườm rà, phức tạp; tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; xúc tiến quảng bá, cung cấp thông tin cho các dự án đầu tư;… nhằm thu hút các dự án đầu tư đầu tư vào các KCN.
Thứ hai, phải tiếp tục nghiên cứu đưa các chính sách, các chế độ ưu đãi như: Thuế, giá thuê đất,.. để thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các chính sách và chế độ ưu đãi phải phù hợp với khuôn khổ chính sách chung của nhà nước (như: ưư đãi về thuế, giá thuê đất,… phải nằm trong giới hạn mà nhà nước cho phép).
Thứ ba, phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng theo hướng đa dạng hoá, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư.
Thứ tư, phải chú trọng xây dựng các đô thị nhỏ, hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm cung cấp các dịch vụ cả trong và ngoài phục vụ cho sự phát triển của các KCN.
Thứ năm, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, xúc tiến quảng bá, cung cấp thông tin cho các dự án đầu tư,… nhằm thu hút các dự án đầu tư đầu tư trong các KCN.
Từ kinh nghiệm thực tiễn các tỉnh đi trước cho thấy, để nâng cao hiệu quả sử dụng nói riêng và phát triển KCN nói chung, Bắc Ninh cần vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách chung của Đảng và nhà nước. Đồng thời, kết hợp giữa việc phát huy các kinh nghiệm thực tiễn của các tỉnh đi trước và các thế mạnh của tỉnh về phát triển các làng nghề truyền thống với việc tập trung sử dụng các KCN trên địa bàn.
Chương II: Thực trạng khai thác sử dụng các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2001 đến nay
I. Sơ lược quá trình phát triển các KCN tại Bắc Ninh
Quá trình phát triển các cụm công nghiệp Bắc Ninh
Từ năm 1998 (sau 01 năm tái lập tỉnh), Bắc Ninh đã quyết định thực hiện thí điểm 04 cụm công nghiệp là: Cụm sản xuất thép Châu Khê – Đa hội quy mô 13,5 ha; cụm sản xuất giấy Phong khê quy mô 12,7 ha; cụm sản xuất đỗ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang quy mô 12,7 ha và cụm công nghiệp đa ngành Đình Bảng quy mô 14,7 ha. Việc phát triển các cụm công nghiệp nói trên đã giải phóng lực lượng sản xuất, chỉ trong thời gian ngắn đã lấp đầy và đòi hỏi phải mở rộng. Qua đó, Bắc Ninh rút ra bài học có giá trị sâu sắc trong việc chỉ đạo xây dựng các KCN sau này.
Đến nay trên địa bàn toàn tỉnh đã có 25 cụm công nghiệp với tổng diện tích lên đến 654,1 ha; tổng vốn đăng ký 2 384 tỷ đồng và gần 3,5 tỷ USD; giải quyết cho 805 cơ sở sản xuất kinh doanh (trong đó 30,02% là các tổ chức kinh tế, còn lại là các hộ kinh doanh cá thể).
Trong quá trình phát triển, các cụm công nghiệp Bắc Ninh đang ngày càng gắn kết chặt chẽ với các KCN. Các cụm công nghiệp Bắc Ninh chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa linh hoạt vừa có khả năng tiếp cận đối với các doanh nghiệp trong KCN để thực hiện các dịch vụ: Cung cấp nguyên vật liệu, gia công sản phẩm, thu gom chế biến phế liệu, cung cấp lao động, dịch vụ vận tải,…
Các cụm công nghiệp còn là bước đệm chủ yếu cho các doanh nghiệp trong nước phát triển và di dời vào các KCN. Bởi vào các KCN có yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường, quy mô và chất lượng đầu tư. Cho nên, trong giai đoạn đầu các doanh nghiệp trong nước đều muốn vào các cụm công nghiệp để tiết kiệm chi phí. Nhưng khi sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định và ổn định về thị trường tiêu thụ thì các doanh nghiệp lại muốn mở rộng sản xuất vào các KCN để lấy hình ảnh, thương hiệu KCN nhằm tăng uy tín trên thị trường; hưởng các chế độ ưu đãi, giảm thiểu chi phí và tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quá trình phát triển các KCN
Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn Bắc Ninh tăng nhanh chóng. Hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 08 KCN có quy mô lớn. Các KCN đã được quy hoạch, xây dựng và phát triển góp phần làm phân bố lại khu vực kinh tế; tạo thành hai khu vực phát triển công nghiệp và nông nghiệp rõ rệt. Cụ thể:
KCN Tiên Sơn
Được thành lập theo Quyết định số 1129/QĐ – TTg ngày 19/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ do Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng (Vigracera) làm chủ đầu tư. KCN được khởi công vào tháng 12 năm 2000. Với vị trí thuận lợi, nằm giữa Quốc lộ (QL) 1A và QL1B, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20 km, cách sân bay Quốc tế Nội Bài 30 km, cách cảng biển Cái Lân 120 km.
KCN Tiên Sơn được quy hoạch theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 với quy mô là 350 ha, đến năm 2002 (sau 2 năm thành lập) KCN được mở rộng với diện tích quy hoạch đã lên đến 600 ha; tổng số vốn đầu tư hạ tầng 916,2 tỷ đồng. Đây là KCN sạch để tiếp nhận các dự án sản xuất hàng cơ khí điện tử, tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng,…
2.2 KCN đô thị Quế Võ
Được thành lập theo Quyết định số 1224/QĐ- TTg ngày 19/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích đất quy hoạch là 636 ha (được chia làm hai giai đoạn, trong đó giai đoạn đầu là 336 ha ). Tổng vốn đầu tư là 531 tỷ đồng do công ty cổ phần phát triển Kinh Bắc làm chủ đầu tư. KCN được khởi công vào tháng 04/2003.
KCN có vị trí thuận lợi, sát QL 18 tuyến sân bay Nội Bài – Thành phố Hạ Long, gần QL 1B, cách Hà Nội 33 km, cách sân bay Quốc tế Nội bài 33 km, cảng Cái Lân Quảng Ninh 110 km, cảng Hải Phòng 100 km.
Bên cạnh KCN là khu đô thị, dân cư, dịch vụ 120 ha để phục vụ cho KCN.
KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn
Diện tích đất quy hoạch là 230,8 ha, được thành lập theo Văn bản số: 319/TTg – CN ngày 28/03/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số: 1179/QĐ – CT ngày 01/07/2005 của Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh. KCN có vị trí nằm gần nút giao thông lập thể giữa QL 1B và đường tỉnh lộ 295. Cách Thủ đô Hà Nội 20 km, cách sân bay Quốc tế Nội bài 31 km, cách cảng biển Cái Lân 122 km.
KCN được thành lập để kêu gọi các dự án sản xuất cơ khí, điện, điện tử, thủ công mỹ nghệ, dệt may và hàng tiêu dùng.
KCN đô thị Yên Phong
Diện tích quy hoạch là 740,73 ha; trong đó diện tích dành cho xây dựng KCN là 340,73 ha. Còn lại 400 ha dành cho xây dựng khu đô thị.
KCN do tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng làm chủ đầu tư. KCN có vị trí nằm sát đường QL 18, tuyến đường cao tốc sân bay Nội Bài – thành phố Hạ Long, cách Hà Nội 28 km, sân bay quốc tế Nội Bài 20 km.
KCN được thành lập để kêu gọi vốn đầu tư thuộc các ngành nghề sản xuất cơ khí, điện, điện tử, hàng tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm và vật liệu xây dựng cao cấp.
2.5 KCN Quế Võ II
Quy mô xây dựng 300 ha, do Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị làm chủ đầu tư. KCN được khởi công xây dựng vào đầu năm 2006. Và hiện nay vẫn đang trong quá trình xây dựng, chưa đưa vào sử dụng.
2.6 KCN Công nghệ thông tin
Quy mô là 53 ha, do công ty cổ phần công nghệ viễn thông Sài Gòn làm chủ đầu tư. KCN nằm sát nút giao thông lập thể giũă đường tỉnh lộ 295 và QL 1B, cách Hà Nội 19 km. Hiện nay, cũng đang trong quá trình xây dựng chưa đưa vào sử dụng.
2.7 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh
KCN Nam Sơn với quy mô 300 ha, nằm sát đường QL 38, QL 1B và QL 18; KCN đã được xây dựng đầu năm 2006.Hiện nay, đã bắt đầu đưa vào sử dụng.
2.8 KCN Thuận Thành
KCN Thuận Thành với quy mô 200 ha, nằm trên trụ đường QL 38 đi Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng. KCN được quy hoạch để dành cho các dự án đầu tư chế biến nông sản thực phẩm, vạt liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ,…Hiện nay, đang tìm kiếm chủ đầu tư.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, Bắc Ninh có 06 KCN đã được thành lập và đang đi vào hoạt động, 01 KCN đang xây dựng, còn lại 01 KCN đang tìm kiếm chủ đầu tư.
Về mặt phân bố, các KCN đa số tập trung tại vùng phía bắc sông Đuống, xung quanh tỉnh lỵ và khu vực thuận tiện về giao thông vận tải (tất cả các KCN trên địa bàn đều tập trung dọc theo hoặc nằm sát nút giao thông của những tuyến đường giao thông quan trọng ). Trong quá trình quy hoạch KCN đã biết tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, biết phát huy lợi thế tập trung tạo ra lợi thế vượt trội hơn so với các vùng miền khác tạo điều kiện thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư tập trung phát triển công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra, trong quá trình quy hoạch, Bắc Ninh luôn chú trọng quy hoạch KCN gắn liền với quy hoạch Khu đô thị, khu dân cư đảm bảo hệ thống cung cấp dịch vụ đồng bộ; đảm bảo sự phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật – xã hội trong và ngoài hàng rào KCN; đảm bảo sự phát triển bền vững của các KCN trên địa bàn tỉnh.
II. Đánh giá hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn tỉnh
Sau 9 năm xây dựng và phát triển, các KCN Bắc Ninh đã hội tụ doanh nghiệp đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các lĩnh vực cơ khí, chế tạo, điện, điện tử, tin học, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, may mặc, giấy da,…và các doanh nghiệp phục vụ đã đầu tư vào Bắc Ninh.
Nếu so sánh theo năm từ năm 2001 đến nay, các dự án đầu tư vào KCN có xu hướng tăng dần cả về số lượng và quy mô dự án. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, đã có khoảng 210 dự án đầu tư vào các KCN Bắc Ninh với tổng số vốn đăng ký đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Trong đó, có nhiều dự án lớn như: dự án công ty Canon, công ty Toyo Ink Compounds Việt Nam, Longtech Precision Việt Nam,…
Mặc dù, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển các KCN ở Bắc Ninh tăng nhanh. Góp phần thúc đẩy lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát triển, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên qua tìm hiểu tôi được biết, hiệu quả sử dụng các KCN chưa cao. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng chất lượng phát triển của các KCN nói riêng và của lĩnh vực công nghiệp nói chung còn thấp, dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn lực rất lớn trong quá trình đầu tư phát triển trên địa bàn của tỉnh.
Tỉ lệ diện tích được lấp đầy
Tính đến hết tháng 12 năm 2006 (chỉ tính những KCN đã đưa vào sử dụng), các KCN Bắc Ninh đã đưa vào quy hoạch tổng diện tích là 2 407,53 ha. Nhưng diện tích đất đã cho thuê của tỉnh còn thấp chỉ khoảng 1 041,98 ha chiếm khoảng 43,28% tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch (trong khi ở Bình Dương tỉ lệ này khoảng 61,24% và ở Vĩnh Phúc khoảng gần 60%). Chi tiết bảng 2.1:
Bảng 2.1: Tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN Bắc Ninh (tính đến hết tháng 12/2006)
Đơn vị: ha
TT
KCN
Tổng diện tích đưa vào QH
Diện tích đã cho thuê
Tỉ lệ (%)
1
KCN Tiên Sơn
600
343,25
57,21
2
KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh
300
114,6
38,20
3
KCN đô thị Quế Võ
636
261,08
41,05
4
KCN Quế Võ II
300
89,01
29,67
5
KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn
230,8
104,39
45,23
6
KCN đô thị Yên Phong
340,73
129,65
38,05
Tổng cộng
2 407,53
1 041,98
43,28
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh )
Từ bảng số liệu trên, cho thấy:
- Tỉ lệ diện tích đất cho thuê trên địa bàn của tỉnh còn thấp (chỉ chiếm khoảng 43,28 % tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch).
- Tỉ lệ diện tích cho thuê của từng KCN chênh lệnh khá lớn, dao động trong khoảng từ 29,67% đến 57,21%. Trong đó, KCN Tiên Sơn chiếm tỉ lệ lớn nhất (57,21%), KCN Quế Võ II thấp nhất (29,67%).
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tỉ lệ lấp đầy khoảng từ 70% trở lên đạt được hiệu quả sử dụng về mặt đất đai, còn dưới 30% gây lãng phí nguồn lực rất lớn. Điều đó, cho thấy hiệu quả sử dụng đất đai trong quy hoạch các KCN trên địa bàn Bắc Ninh rất thấp.
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN giai đoạn 2001-2006
Số
TT
Năm
Tổng diện tích của các KCN ( chỉ tích
các KCN đã đưa vào sử dụng )
Diện tích đã
cho thuê
Tỉ lệ (%)
1
2001
940,43
250,78
26,67
2
2002
940,43
502,13
53,39
3
2003
1 236
539,67
43,66
4
2004
1 466,8
840,00
57,27
5
2005
2 407,53
913,18
37,93
6
2006
2 407,53
1 041, 98
43,28
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh )
Biểu đồ tỉ lệ cho thuê đất tại các KCN ở Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006
Nhận xét:
- Diện tích đất đã cho thuê tại các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng lên. Tăng mạnh nhất ở thời kỳ 2003-2004 (tăng 300,13 ha), kế đến thời kỳ 2001-2002 (tăng 251,35 ha); tăng chậm nhất từ năm 2004-2005 (tăng 73,18 ha).
- Khả năng “ lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn tỉnh biến động mạnh qua các năm. Cao nhất là năm 2004 (57,27%), thấp nhất là năm 2001 (26,67%).
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do sự gia tăng của diện tích đất quy hoạch KCN đã đưa vào sử dụng. Năm 2004, diện tích cho thuê cũng như tỉ lệ đất đã sử dụng tăng cao là do đây là năm đầu tiên các doanh nghiệp kinh doanh thực hiện việc di dời cơ sở sản xuất kinh doanh của mình vào hoạt động tại các KCN theo chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh.
Nhìn chung, khả năng “lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn biến động mạnh qua các năm, diện tích đất đã cho thuê còn tương đối thấp. Điều này, dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn lực đất đai rất lớn trong quá trình đầu tư phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác đất phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh.
2. Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích
Trong những năm gần đây, số dự án đầu tư vào các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng dần cả về số lượng và quy mô dự án. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, đã có 210 dự án đầu tư vào các KCN với tổng vốn đầu tư lên đến 1,6 tỷ USD. Các dự án đầu tư đang chuyển dần từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất phù hợp với quan điểm và chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh.
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp số vốn đầu tư tại các KCN Bắc Ninh
(tính đến hết tháng 12/2006)
Đơn vị: triệu USD/ha
TT
KCN
Tổng vốn đầu tư
Diện tích
chiếm đất
Tỉ lệ
VĐT
Trong nước
(Triệu đồng)
Nước ngoài
(Triệu USD)
Tổng vốn
(Triệu USD)
1
KCN Tiên Sơn
4431131.5
145.362
754.5665
343.25
2.1983
2
KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh
1427881.0
1.3032
156.1998
114.6
1.3630
3
KCN đô thị Quế Võ
1072766.4
218.3388
458.4565
261.08
1.7560
4
KCN Quế Võ II
1856927.8
3.258
91.9206
89.01
1.0327
5
KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn
2212345.3
5.2128
93.8779
104.39
0.8993
6
KCN đô thị Yên Phong
901303.5
0.000
9.7367
129.65
0.0751
Tổng cộng
11902355.5
373.4748
1618.1949
1041.98
1.5530
(Hệ số chuyển đổi: 1USD = 15 000 VNĐ)
Nhận xét:
Suất đầu tư chênh lệnh rất lớn đối với từng KCN. Trong đó, tỉ lệ vốn đầu tư tại KCN Tiên Sơn là lớn nhất (2,1983 triệuUSD/ha), còn KCN Yên Phong quá thấp (chỉ khoảng 0,0751 triệu USD/ha). Nhưng nhìn chung, suất đầu tư tại các KCN Bắc Ninh khá thấp (trừ KCN Tiên Sơn và KCN đô thị Quế Võ). Điều này cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN vẫn chưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Sở dĩ có sự chênh lệnh này, nguyên nhân chủ yếu là do chủ trương kêu gọi đầu tư của tỉnh. Cụ thể: các KCN (KCN Tiên Sơn, KCN đô thị Quế Võ, KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh) được thành lập nhằm kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và dự án công nghệ cao. Còn các KCN như: KCN đô thị Yên Phong, KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn được quy hoạch chủ yếu để thu hút các cơ sở kinh doanh mà chủ yếu là các hộ gia đình từ các làng nghề truyền thống như: đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ), giấy dó (Phong Khê), đồ đồng (Đại Bái),…
Suất đầu tư tại các KCN giai đoạn 2001-2006 tại các KCN Bắc Ninh có sự biến động khá lớn, giảm mạnh trong năm 2004, tăng nhanh trong năm 2005. Chi tiết bảng 2.4:
Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình đầu tư vào các KCN tại Bắc Ninh
giai đoạn 2001-2006
TT
Năm
Tổng vốn đầu tư
(Triệu USD)
Diện tích đất
sử dụng (ha)
Tỉ lệ VĐT
( Triệu USD/ha)
1
2001
306.9547
250.78
1.224
2
2002
625.1519
502.13
1.245
3
2003
601.7321
539.67
1.115
4
2004
921.4800
840.00
1.097
5
2005
1767.9165
913.18
1.936
6
2006
1618.1949
1041.98
1.5530
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh)
Nhận xét:
- Tỉ lệ VĐT một đơn vị diện tích rất thấp. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, suất đầu tư trung bình tại các KCN chỉ khoảng 1.5530 triệu USD/ha. Chứng tỏ khả năng kêu gọi đầu tư (đặc biệt là các dự án ứng dụng trình độ kỹ thuật công nghệ tiên tiến) của tỉnh kém.
- Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích biến động mạnh qua các năm và có xu hướng ngày càng giảm (trừ năm 2005). Trong năm 2004, suất đầu tư vào các KCN trên địa bàn giảm mạnh (từ 1,224 xuống còn 1,097 triệu USD/ha). Đến năm 2005, tỉ lệ này lại tăng mạnh (từ 1,097 lên 1,936 triệu USD/ha).
Nguyên nhân chủ yếu là do:
+ Trong năm 2004, thực hiện chủ trương của tỉnh uỷ Bắc Ninh, một số các doanh nghiệp (chủ yếu là các làng nghề) đang hoạt động trên địa bàn di dời vào các hoạt động tại các KCN. Trong đó, có một phần khá lớn các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất giấy, chế biến nông sản thực phẩm,…có nguồn vốn đầu tư thấp; chủ yếu sử dụng lao động thủ công là chính.
+ Trong năm 2005, các KCN được thành lập với mục đích thu hút đầu tư nước ngoài và các dự án công nghệ cao đã đi vào hoạt động như: KCN Tiên Sơn (quy hoạch giai đoạn 2), KCN đô thị Quế Võ đã thu hút được nhiều dự án lớn của công ty Canon, công ty Toyo Compounds Việt Nam, tập đoàn Longtech Precision Việt Nam,…
Do tỉ lệ VĐT thấp dẫn tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN phục vụ phát triển sản xuất thấp. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân cho thấy khả năng kêu gọi vốn đầu tư thấp, hướng đầu tư của các doanh nghiệp chưa thực sự đầu tư theo hướng phát triển các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao.
Tỉ lệ đóng góp cho GDP
Theo ước tính, trong năm 2006 tổng sản phẩm toàn tỉnh đạt 9 261,82 tỷ đồng (tăng 13,2% so với năm 2005), trong đó phần đóng góp của các KCN vào khoảng 2 511,81 tỷ đồng (chiếm 27,12% tổng GDP). Điều đó có được là do các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN đi vào hoạt động đã đóng góp quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh. Tuy nhiên, tỉ lệ đóng góp này quá thấp (theo thống kê, tỉ lệ này ở Bình Dương và Vĩnh Phúc đều chiếm khoảng trên 35%) chứng tỏ phát triển KCN chưa thực sự trở thành động lực mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương.
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
GDP
Tốc độ
tăng GDP
Giá trị SXCN
(tại các KCN)
Tỉ lệ đóng góp
GDP (%)
2001
4871.17
14.07
856.35
17.58
2002
5556.55
13.87
1148.54
20.67
2003
6327.24
13.61
1464.76
23.15
2004
7188.38
13.82
1628.17
22.65
2005
8181.82
14.12
2051.18
25.07
2006
9261.82
13.2
2511.81
27.12
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh
Niên giám thống kê - Cục thống kê Bắc Ninh 2001-2006)
Biểu đồ tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006
Nhận xét: Mặc dù tỉ lệ đóng góp cho GDP trên địa bàn có xu hướng tăng trong thời gian qua nhưng tỉ lệ đóng góp vẫn còn tương đối thấp chỉ dao động trong khoảng từ 17,58% đến 27,12% (trong khi giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh lại chiếm khoảng 45.78% tổng GDP của tỉnh). Chứng tỏ, khả năng hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn của tỉnh chưa cao.
4. Số lao động làm việc trong các khu công nghiệp
Tính đến hết tháng 12 năm 2006, các KCN đã thu hút được 12 740 lao động vào làm việc, trong đó lao động địa phương có khoảng 7 580 người chiếm 59,5%. Với mức lương bình quân của công nhân lao động khoảng 1,3 triệu đồng/tháng. Về cơ cấu lao động: lao động phổ thông chiếm 32,45%; lao động có tay nghề cơ bản 42,12% và lao động có trình độ đại học 25,43%.
Số lao động làm việc tại các KCN có xu hướng tăng nhanh qua các năm (năm 2001 là 4 350 lao động, năm 2005 là 8 240 và năm 2006 là 12 740 lao động), nguyên nhân chủ là do các doanh nghiệp trong các KCN đã đi vào hoạt động góp phần tạo việc làm cho người lao động.
Như vậy, qua phân tích một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các KCN cho thấy: Trong những năm gần đây, mặc dù tốc độ tăng các KCN trên địa bàn tỉnh tăng nhanh chóng nhưng hiệu quả sử dụng còn thấp, các KCN chưa thực sự trở thành động lực tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế cũng như quá trình CNH – HĐH trong toàn tỉnh.
III. Đánh giá các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng các KCN tại Bắc Ninh
Nhóm các vấn đề về khung pháp lý
Về cơ chế chính sách
Trong việc thu hút vốn đầu tư, các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) gặp tương đối nhiều khó khăn ngay từ khâu thành lập doanh nghiệp. Khó khăn trước hết từ tính không rõ ràng nhất quán của các văn bản pháp lý liên quan đến việc cấp phép đầu tư điều đó đã làm cho hệ thống thủ tục xem xét, phê duyệt mang tính chủ quan, tuỳ tiện gây tốn kém về thời gian và tiền bạc. Thực tế, khi một nhà đầu tư muốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Trước hết, chủ đầu tư phải trình bày phương án kinh doanh, sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt chấp nhận phương án kinh doanh thì chủ đầu tư mới được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, giấy phép đầu tư cũng chỉ là bước đầu, sau đó nhà đầu tư còn cần phải có được rất nhiều giấy tờ như: giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận vệ sinh môi trường,… cần phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó, doanh nghiệp mới có thể bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh.
Tính không rõ ràng, thiếu nhất quán của các văn bản pháp lý là tình trạng chung của hầu hết các KCN trên các tỉnh (thành phố) trong cả nước chứ không riêng của Bắc Ninh. Nguyên nhân chủ yếu do việc ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Về chính sách ưu đãi, mặc dù trong những năm gần đây Bắc Ninh đã tạo khá nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các KCN như: ưu đãi về giá thuê đất, ưu đãi về vay vốn kinh doanh, … nhưng nhìn chung những ưu đãi này vẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư. Nguyên nhân chủ yếu là do giá thuê đất tại các KCN Bắc Ninh (mặc dù đã được ưu đãi) vẫn rất cao, cao hơn hẳn giá thuê đất tại KCN của các tỉnh có cùng điều kiện như Bắc Ninh (cao hơn 1,3 lần giá thuê đất ở Vĩnh Phúc và 1,2 giá thuê đất ở Hải Phòng và Bình Dương).
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa cần kể đến là do quyền hạn của chính quyền địa phương trong việc đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư (như thuế, giá thuê đất,…) bị giới hạn trong phạm vi rất nhỏ bé. Điều đó đã dẫn tới sự hạn chế tính chủ động của tỉnh trong việc hoạch định chính sách nhằm thu hút đầu tư vào các KCN nói riêng và đầu tư vào địa bàn tỉnh nói chung.
Cơ chế phân cấp và uỷ quyền thiếu đồng bộ
Cơ chế phân cấp và uỷ quyền có ý nghĩa quyết định cho việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính khi các nhà đầu tư nói chung và đầu tư vào các KCN nói riêng.
Cũng giống như nhiều lĩnh vực khác, nguyên tắc phân cấp quản lý trong đầu tư chủ yếu dựa vào quy mô chứ không phải dựa vào tính chất của dự án. Điều đó đã dẫn tới hiện tượng tranh giành “quyền cấp phép” giữa trung ương và địa phương. Nhiều dự án nước ngoài chủ yếu chỉ sản xuất hàng dân dụng, không tác động đến tổng thể nền kinh tế chung (nhưng quy mô dự án lớn) vẫn phải có đầy đủ các thủ tục, tiến hành đầy đủ các bước gây tốn kém về chi phí thời gian và cả tiền bạc của chủ đầu tư, làm hạn chế dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào Bắc Ninh nói riêng.
Nguyên tắc “một cửa” mặc dù đã được đưa ra từ lâu nhưng thực tế, các thủ tục hành chính rườm rà và tuỳ tiện, còn chưa được sửa đổi đáng kể. Hệ thống phê duyệt phức tạp này không những gây ra sự chậm trễ và không chắc chắn, làm gia tăng mức độ rủi ro và các chi phí giao dịch đối với các dự án đầu tư ngay từ giai đoạn đầu tiên. Điều này có thể làm cho chủ đầu tư mất đi cơ hội đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, hệ thống cấp phép phức tạp, không rõ ràng trên nhũng nhiễu, hạch sách cũng như tham ô của các cán bộ nhà nước trong việc xét duyệt cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp.
Trong tình hình khoa học kỹ thuật và công nghệ đang có những bước tiến vượt bậc và với nhu cầu cuộc sống ngày càng đa dạng như hiện nay, thì việc thay đổi quy mô và lĩnh vực kinh doanh một cách linh hoạt nhằm thích nghi với thị trường là một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng theo quy định Bắc Ninh cũng như quy định của Việt Nam, mỗi lần thay đổi quy mô và lĩnh vực kinh doanh, chủ đầu tư lại phải xin phép và quy trình lại hoàn toàn không khác gì so với xin phép lần đầu. Như vậy, việc đăng ký bổ sung, sửa đổi đăng ký kinh doanh đã là một trở ngại lớn cho các nhà đầu tư. Điều này đã ảnh hưởng không tốt đến quá trình xây dựng cũng như khai thác sử dụng các KCN trên địa bàn Bắc Ninh.
Nhóm các vấn đề liên quan đến bộ máy của BQL các KCN
2.1 Cơ cấu tổ chức:
BQL các KCN trên địa bàn Bắc Ninh bao gồm: 25 thành viên. Trong đó: ( 01 trưởng ban, 02 phó trưởng ban, còn lại 22 thành viên). Hoạt động theo cơ chế đơn vị hành chính sự nghiệp với ba chức năng chính. Đó là:
Tổ chức triển khai quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng KCN.
Quản lý hoạt động đầu tư và xây dựng các doanh nghiệp thuê đất sản xuất.
Quản lý sau đầu tư.
Được chia thành 07 bộ phận là: Phòng quản lý doanh nghiệp, phòng quản lý xuất nhập khẩu, phòng quản lý đầu tư, phòng quy hoạch môi trường, đại diện BQL tại các KCN, phòng quản lý lao động và văn phòng ban.
Với hệ thống tổ chức quản lý là đơn vị thuộc UBND cấp tỉnh, nhưng trong quá trình hoạt động lại:
- Thiếu mối liên hệ về nghiệp vụ chuyên môn với các cơ quan quản lý chuyên ngành cấp dưới ( vì mỗi KCN lại có một BQL do UBND huyện nơi xây dựng KCN quản lý) dẫn tới việc lúng túng và thiếu cụ thể trong quản lý. Gây trở ngại lớn cho các nhà đầu tư, nhất là việc kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết ngay từ khi doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh.
- Chưa xây dựng được quy trình nghiệp vụ hành chính, tính chuyên nghiệp thấp.
- Còn lẫn lộn giữa hoạt động dịch vụ công với hoạt động quản lý nhà nước.
- Khả năng tiếp cận cũng như đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư còn thấp.
- Lực lượng quản lý mỏng, thiếu khả năng và môi trường phối hợp với cơ quan chuyên môn cũng như các cơ quan quản lý nhà nước khác ( chủ yếu do BQL tự đặt cơ chế hoạt động không có sự thống nhất).
Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu để hoàn thiện củng cố mô hình tổ chức quản lý đối với BQL các KCN Bắc Ninh nhăm nâng cao hiệu quả hoạt động của BQL.
2.2 Về cơ sở vật chất của BQL
Văn phòng làm việc của BQL ở tầng 2 của khu nhà 3 tầng, được chia làm 08 phòng làm việc. Trong đó, 01 phòng làm việc của Trưởng ban, 02 phòng làm việc của Phó trưởng ban, còn lại 05 phòng làm việc của nhân viên.
Đơn vị được trang bị khá nhiều tài sản nhưng nhìn chung trang thiết bị phục vụ cho BQL còn nhiều yếu kém. Mặc dù, đã trang bị hệ thống máy vi tính (25 máy/25 nhân viên) nhưng BQL chưa đủ khả năng để nối mạng với cơ quan chuyên môn cấp dưới. Điều này dẫn tới phối hợp giữa BQL và cơ quan quản lý cấp dưới chưa kịp thời và thiếu nhịp nhàng; ảnh hưởng xấu đến hiệu quả quản lý, điều hành của BQL. Điều đó đã gây trở ngại cho các nhà đầu tư, nhất là việc kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết, ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút vốn đầu tư tại các KCN.
2.3 Về năng lực của BQL
Hiện nay, BQL có 25 nhân viên. Trong đó, có 18 đồng chí có trình độ Đại học, 05 đồng chí có trình độ Cao đẳng và 02 đồng chí có trình độ trung cấp. Mặc dù hiện nay, BQL đã được trang bị hệ thống máy vi tính (mỗi người một máy) nhưng hiệu quả ứng dụng vẫn chưa cao. Cụ thể:
+ Một số công việc của BQL ( như: quy hoạch đất đai, thẩm định xây dựng, …) các nhân viên trong phòng vẫn làm theo phương pháp thủ công, trong khi những công việc này nếu ứng dụng những phần mềm chuyên dụng của máy tính sẽ góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác. Chính khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật không cao gây ra tình trạng lãng phí cả về thời gian và tiền bạc.
+ Trong quá trình quản lý hồ sơ lưu trữ vẫn sử dụng phương pháp lưu trữ thông qua giấy tờ gây lãng phí khá lớn vào mua sắm thiết bị văn phòng phẩm và gây mất thời gian trong quá trình tìm kiếm hồ sơ lưu trữ. Ngoài ra còn có thể gây ra tình trạng mất mát, hư hỏng nếu tài liệu được lưu trữ trong thời gian dài.
Số lao động tại BQL các KCN là 25 người (trong đó có 05 nhân viên hợp đồng). Với số biên chế như vậy, BQL khó có khả năng đáp ứng được yêu cầu công việc do một cá nhân phải đảm đương khá nhiều việc. Nếu so sánh với BQL các KCN tại một số tỉnh thành khác (như: Bình Dương, Vĩnh Phúc, thành phố Hồ Chí Minh,…) thì số lượng này còn quá ít ỏi. Năng lực của bộ máy điều hành còn hạn chế cả về số lượng, chất lượng và kinh nghiệm. BQL chưa chủ động đề xuất những giải pháp đặc thù phù hợp với điều kiện của Bắc Ninh mà chỉ dừng ở những kiến nghị chung chung mang tính vĩ mô áp dụng cho cả nước. Chưa tích cực học hỏi kinh nghiệm ở các tỉnh bạn để mạnh dạn đề xuất ý kiến áp dụng cho các KCN tại Bắc Ninh.
Cũng do số nhân viên của Ban quá ít, chưa có khả năng cũng như điều kiện thành lập hệ thống nghiên cứu nhằm tiếp cận cũng như đáp ứng các yêu cầu của nhà đầu tư còn thấp, ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả thu hút đầu tư vào các KCN.
Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở
Về đất đai
Theo luật đất đai, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được quyền thuê đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Thời gian thuê phụ thuộc vào nhiều yếu tố mang tính chủ quan cho tưìng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, để có thể thuê được mảng đất phù hợp hoàn toàn không dễ dàng. Cõ lẽ vì vậy, doanh nghiệp nước ngoài thường lựa chọn hình thức Liên doanh, trong đó doanh nghiệp Việt Nam đóng góp quyền sử dụng đất.
Trong những năm gần đây, mặc dù tỉnh đã tạo nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp trong quá trình thuê đất nhưng nhìn chung giá thuê đất tại Bắc Ninh nói chung và tại các KCN nói riêng vẫn tương đối cao so với các địa phương khác có cùng điều kiện như địa phương (gấp 1,3 lần giá thuê đất tại tỉnh Vĩnh Phúc, gấp 1,2 lần giá thuê đất tại Hải Phòng,…). Bên cạnh đó, quản lý phí tại tại các KCN Bắc Ninh cũng còn quá cao so với các địa phương khác, ảnh hưởng xấu đến việc thu hút đầu tư vào các KCN tại địa bàn.
Với mục tiêu “lấp đầy”, các KCN không được phép chỉ chú trọng tới nguồn đầu tư nước ngoài mà bên cạnh đó còn phải quan tâm tới việc thu hút các nguồn đầu tư ở trong nước. Mặt khác, một số doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất nhưng lại gặp một số trở ngại lớn về mặt bằng sản xuất tại cơ sở cũ. Nhưng nếu như doanh nghiệp muốn thuê thêm đất để phát triển sản xuất thì thủ tục hành chính rất phức tạp. Một số nhà đầu tư còn cho rằng thủ tục thuê thêm đất mở rộng phát triển kinh doanh còn phức tạp hơn nhiều so với ban đầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do tỉnh chưa có những chính sách khuyến khích thoả đáng cũng như việc giảm thiểu các thủ tục hành chính. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến một số nhà đầu tư khi đăng ký kinh doanh đã thuê đất vượt quá quy mô kinh doanh của mình gây ra tình trạng tỉ lệ VĐT trên một đơn vị diện tích còn thấp vừa gây lãng phí nguồn lực lại vừa kém hiệu quả trong quá trình sử dụng của các KCN.
Hiện tại, quyền sử dụng đất được bảo đảm trên cơ sở tự do sử dụng có chỉ rõ mục đích sử dụng và người sử dụng. Khả năng chuyển nhượng đất vẫn còn nhiều hạn chế. Những hàng rào cản trở việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính là nằm trong các thủ tục hành chính.
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh chưa được cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất (chỉ cấp giấy chứng nhận cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng). Trong khi họ phải trả tiền thuê đất một lần trong thời gian nhiều năm song họ lại không được cấp giấy chứng nhận “ con”. Đây là một điều thiệt thòi cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN (so với các doanh nghiệp hoạt động ngoài KCN) bởi lẽ mặc dù họ đã phải bỏ ra một khoản vốn tương đối lớn song lại không có quyền dùng tài sản này (bằng quyền sử dụng đất) để thế chấp khi cần vay tín dụng.
Khó khăn này không chỉ riêng ở Bắc Ninh mà ở hầu hết các KCN cả nước. Nhưng nếu như cơ quan địa chính cung ngân hàng nỗ lực giải quyết thì chắc chắn chỉ cần một thời gian ngắn, họ sẽ tháo gỡ được một vướng mắc quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các KCN. Điều này sẽ góp phần quan trọng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN mà không đầu tư rải rác vào các khu dân cư tại địa phương.
3.2 Về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng trong các KCN ở Bắc Ninh nhìn chung còn yếu, ít nơi đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Trong số các KCN được thành lập ở Bắc Ninh thì đến nay mới chỉ có 02 KCN (KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ) được đầu tư hạ tầng kỹ thuật tương đối đồng bộ, bước đầu đã đáp ứng được công tác đầu tư xây dựng và hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Còn hầu hết (06 KCN còn lại) thì cơ sở hạ tầng hầu như rất ít, không đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Cụ thể:
- Đối với KCN Tiên Sơn:
Các hạng mục hạ tầng kỹ thuật đã lần lượt được đầu tư xây dựng như: Trạm điện 110/22KW – 80MVA; trạm cấp nước sạch 6 500 m3/ngày đêm; trung tâm điều hành; hệ thống đường trung tâm (đường quảng trường đô thị), đường nhánh phân khu chức năng; hệ thống thoát nước sạch và nước thải.
Đặc biệt KCN đã đầu tư xây dựng khu đô thị, khu dân cư, khu cung cáp dịch vụ với diện tích quy hoạch là 30 ha là nơi đầu tư xây dựng nhà ở cho các đối tượng cán bộ; công nhân lao động trong các doanh nghiệp hoạt động tại KCN; có đầu tư các dịch vụ vui chơi, giải trí; chợ và các công trình phúc lợi khác.
- Đối với KCN Quế Võ
Hạ tầng kỹ thuật cũng được quy hoạch tương đối và đầu tư tương đối đồng bộ bao gồm: Trạm điện 110/22KW – 60MVA; trạm cung cấp nước sạch 6 500 m3/ngày đêm; trung tâm điều hành; hệ thống đường trung tâm, đường nhánh; hệ thống thoát nước. Đặc biệt, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong các KCN và phát triển KCN, UBND tỉnh đã quy hoạch cảng nội địa ICD rộng 30 ha, khu đô thị dân cư và dịch vụ Kinh Bắc rộng 120 ha.
Nhìn chung, việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN ở Bắc Ninh, mặc dù chủ đầu tư cũng như tỉnh đã cố gắng lớn, xong với hình thức đầu tư “cuốn chiếu” nên hệ thống các cơ sở hạ tầng tại các KCN (trừ KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ) hầu như rất ít, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Thực tế còn cho thấy, nhiều doanh nghiệp ở Bắc Ninh đã phải tự bỏ tiền ra đầu tư công trình hạ tầng (mà vẫn chưa được hưởng các chế độ ưu đãi) khiến chi phí phất sinh không nhỏ. Đây là bất cập lớn mà BQL các KCN Bắc Ninh đang chỉ đạo để có những chuyển biến tích cực.
Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư cũng như kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng tại các KCN một cách đồng bộ.
Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ
Các dịch vụ trong KCN còn thiếu
Mặc dù, tỉnh chủ trương phát triển KCN theo hướng KCN đô thị nhưng các dịch vụ về cơ sở hạ tầng xã hội như: nhà ở, trường học, ngân hàng,… còn thiếu trầm trọng. Trong số các KCN Bắc Ninh được thành lập chỉ có KCN Tiên Sơn và KCN đô thị Quế Võ được đầu tư các cơ sở hạ tầng xã hội. Còn 06 KCN còn thì hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội rất thiếu thốn. Cụ thể:
Đối với KCN Tiên Sơn và KCN Quế Võ đã được đầu tư xây dựng các khu dân cư, khu đô thị dịch vụ. Một loạt các nhà ở, biệt thự và chung cư ra đời xung quanh Từ Sơn và Quế Võ đã góp phần đảm bảo sự phát triển bễn vững của KCN. Đồng thời, góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu ăn, ở của các chủ đầu tư cũng như nhu cầu của người lao động.
Đối với các KCN khác (06 KCN còn lại), hệ thống các cơ sở hạ tầng nhìn chung là còn thiếu và yếu. Hiện nay, người lao động tại các KCN này vẫn chủ yếu thuê nhà ở trong các vùng dân cư phụ cận. Điều đó, đã gây ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự trong khu vực và đặc biệt là các nhu cầu về văn hoá, thể thao cũng như các dịch vụ khác phục vụ phát triển của con người đang bị thiếu hụt nghiêm trọng.
Ngoài ra, do khoảng cách khá xa từ các KCN đến các khu dân cư, khu đô thị dịch vụ đã khiến các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN Bắc Ninh còn phải chịu cước phí dịch vụ rất cao so với các KCN tại các địa phương khác (điện, nước, viễn thông, phí vận chuyển,…). Điều này đã làm giảm ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút các nhà đầu tư vào các KCN.
4.2 Chưa có dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp
Trong xu thế hội nhập hiện nay, thông tin đang ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghệp. Trong thời gian qua dịch vụ cung cấp thông tin (như các nhóm tư vấn, trang Web, báo chuyên đề,…) nhằm cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp còn yếu và hầu như không có. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư do dự trong quá trình lựa chọn đầu tư vào các KCN trên địa bàn.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2010
I. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế địa phương
Mục tiêu của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015 trở thành một tỉnh kinh tế công nghiệp. Vì vậy, phát triển các KCN là giải pháp hàng đầu để thực hiện mục tiêu đó. Cụ thể:
Thứ nhất, theo thống kê (tính đến hết tháng 12/2006 Bắc Ninh là một trong số các tỉnh có mật độ dân số cao nhất (khoảng 1 163 người/km2). Bắc Ninh lại là tỉnh có diện tích nhỏ nhất. Do đó, một trong những vấn đề cấp thiết nhất của tỉnh hiện nay là phải tạo công ăn việc làm cho người dân. Phát triển các KCN nhằm thu hút lao động là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp trên địa bàn của tỉnh và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ (bởi với mật độ dân số quá đông như vậy, Bắc Ninh khó có thể phát triển kinh tế theo hướng nông nghiệp).
Thứ hai, đầu năm 1997 thực hiện Quyết định của Thủ tướng chính phủ về việc tách tỉnh Hà Bắc trở thành tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Kể từ khi tái lập tỉnh, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế hầu như không có. Bên cạnh đó, vốn đầu tư của trung ương đầu tư cho tỉnh không nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của tỉnh. Vì vậy, một trong những giải pháp mà các nhà quản lý vĩ mô hướng tới là xây dựng các KCN nhằm tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước.
Thứ ba, Bắc Ninh là một trong những tỉnh thành cả nước có rất nhiều làng nghề truyền thống. Các làng nghề Bắc Ninh gắn liền với văn hoá Kinh Bắc cổ xưa như: Đồ đồng (Đại Bái), nhôm (làng Vó), gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ), giấy dó ( Phong Khê), tranh nhân gian (Đông Hồ), cày và cuốc sắt (Đa Hội), …Hiện nay, theo thống kê Bắc Ninh có khoảng 62 làng nghề truyền thống. Trong đó, đã có một số làng nghề ứng dụng công nghệ mới, tạo sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường; nhưng cũng có một số làng nghề yếu dần và ít có khả năng khôi phục.
Vấn đề đặt ra đối với địa phương là phải khôi phục các làng nghề và đưa các làng nghề ngày càng phát triển. Để thực hiện được mục tiêu đó thì xây dựng các KCN nhằm đưa các làng nghề vào quy hoạch phát triển là một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay của địa phương.
Như vậy, phát triển KCN là một trong những biện pháp hàng đầu nhằm phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế của địa phương nói chung. Đồng thời, phát triển KCN sẽ tạo động lực mạnh thúc đẩy quá trình CNH – HĐH của địa phương.
II. Quan điểm và phương hướng phát triển KCN
Quan điểm
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương (khoá VIII), Nghị quyết của tỉnh uỷ Bắc Ninh (năm 2002) và trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm phát triển KCN của các tỉnh bạn (đặc biệt là các tỉnh có cùng điều kiện), Bắc Ninh đã xây dựng quan điểm phát triển KCN trên địa bàn tỉnh theo hướng:
Thứ nhất, phát triển các KCN đô thị.
Phân tích theo vấn đề sử dụng và tạo việc làm cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong KCN thì việc giải quyết nhu cầu về nhà ở cho công nhân cũng như hạ tầng xã hội là hết sức cần thiết. Nhưng hiện nay, lao động tại các KCN ở Bắc Ninh chủ yếu thuê nhà ở trong dân tại các vùng phụ cận. Điều đó, đã ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự trong khu vực và đặc biệt là nhu cầu về văn hoá thể thao cũng như các dịch vụ phát triển con người đang bị thiếu hụt trầm trọng.
Nhằm giải quyết tình trạng này, chính quyền Bắc Ninh chủ trương xây dựng phát triển các KCN đô thị. Tức là tại các KCN, tỉnh chủ trương quy hoạch quỹ đất xây dựng các khu chung cư, khu đô thị phục vụ nhu cầu ăn ở của công nhân cũng như nhằm cung cấp các dịch vụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN.
Thứ hai, phát triển các KCN theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật cao vào sản xuất. Tức là phát triển các KCN nhằm thu hút các dự án công nghệ cao vào sản xuất tại các KCN.
Như chúng ta đã biết, hiện nay một doanh nghiệp nói riêng và một nền kinh tế của một quốc gia nói chung để có thể tồn tại và phát triển phải sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, phát triển KCN theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất là một trong những điều kiện mang tính tiền đề quan trọng giúp kinh tế địa phương phát triển một cách bền vững.
Phương hướng
Nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển KCN, tỉnh uỷ Bắc Ninh đã đưa ra một số phương hướng phát triển KCN như sau:
Thứ nhất, chuyển dần từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu. Chú trọng thu hút các dự án đầu tư có công nghệ cao, vốn lớn, tạo giá trị gia tăng cao,…
Thứ hai, phát triển các KCN theo hướng nâng dần tỉ lệ đóng góp của chúng cho nền kinh tế của tỉnh.
Thứ ba, phấn đấu đưa phần lớn các doanh nghiệp đóng trên địa bàn vào hoạt động trong các KCN.
III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn
Nhóm các giải pháp về khung pháp lý
1.1 Về cơ chế chính sách:
Nhằm giảm thiểu những khó khăn xuất hiện do tính không rõ ràng, không nhất quán của các văn bản pháp lý; hạn chế các thủ tục rườm rà, phức tạp trong quá trình cấp phép cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, BQL các KCN cũng như chính quyền địa phương cần nghiên cứu đưa ra các kiến nghị đối với Trung ương như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, tìm kiếm nhằm đưa ra các biện pháp kiến nghị giúp nhà nước tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến thủ tục cấp phép đầu tư nhằm giảm thiểu những vướng mắc còn tồn tại trong thủ tục trong quá trình cấp phép đăng ký, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, kiến nghị nhà nước nên tăng thêm quyền hạn của chính quyền tỉnh Bắc Ninh trong việc chủ động đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư như: ưu đãi về thuế, về giá đất (giá thuê đất tại các KCN ở Bắc Ninh vẫn cao hơn so với mặt bằng chung của các địa phương có cùng điều kiện như Vĩnh Phúc, ở Bình Dương),…
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương nên tạo điều kiện cũng như các ưu đãi về vay vốn kinh doanh, hỗ trợ giá thuê đất cho các doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ từ các làng nghề truyền thống),… nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư cũng như việc di dời các cơ sở kinh doanh tại địa bàn vào hoạt động trong các KCN.
Về cơ chế phân cấp và uỷ quyền
Để có thể xây dựng được một cơ chế phân cấp và uỷ quyền một cách khoa học, đồng bộ nhằm giảm thiểu chi phí cả về thời gian và tiền bạc cho các chủ đầu tư ngay từ khi đăng ký thành lập doanh nghiệp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Tỉnh uỷ nói chung và BQL các KCN nói riêng cần:
Thứ nhất, kiến nghị với cơ quan cấp trên nhằm thay thế từ nguyên tắc phân cấp theo quy mô sang nguyên tắc phân cấp theo tích chất từng dự án trong quá trình quản lý đầu tư. Nhằm hạn chế hiện trạng tranh giành “quyền cấp phép” giữa trung ương và địa phương; giảm thiểu các thủ tục, các bước cũng như giảm thiểu chi phí cả về thời gian và tiền bạc cho các chủ đầu tư (đặc biệt là đối với các dự án có quy mô lớn nhưng chủ yếu chỉ sản xuất hàng dân dụng, không gây tác động đến tổng thể nền kinh tế chung).
Thứ hai, tiếp tục ban hành các thông tư hướng dẫn thục hiện cơ chế “một cửa”, “tại chỗ” nhằm giúp các nhà đầu tư và những người lao động không phải theo cơ chế “nhiều cửa”, “nhiều nơi” với những thủ tục phức tạp gây tốn kém về thời gian và tiền bạc.
Ngoài ra, tỉnh uỷ Bắc Ninh cần uỷ quyền cho BQL cấp các loại giấy phép như: giấy phép xây dựng, giấy phép lao động,… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư cũng như người lao động nhằm giảm thiểu công sức của họ trong quá trình xin cấp phép.
Thứ ba, BQL cần bổ xung lao động làm việc trong ban nhằm tránh tình trạng một ngưòi phải đảm đương quá nhiều công việc nhằm tăng cường năng lực của bộ máy điều hành cả về số lượng, chất lượng cũng như kinh nghiệm quản lý.
Nhóm các giải pháp liên quan đến bộ máy quản lý KCN
2.1 Về cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của BQL. Để nâng cao hiệu quả hạot động, BQL các KCN Bắc Ninh cần:
Thứ nhất, tăng cường mối liên hệ về nghiệp vụ chuyên môn với các cơ quan quản lý chuyên ngành cấp dưới nhằm tăng cường hiệu quả trong quá trình quản lý. Đồng thời, góp phần hạn chế tiến tới xoá bỏ các trở ngại cho các nhà đầu tư, nhất là việc hạn chế kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, cần xây dựng một quy trình hoạt động khoa học nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hạn chế tình trạng nhiệm vụ chồng chéo giữa các thành viên trong BQL. Đồng thời, còn tránh tình trạng một người phải đảm đương quá nhiều nhiệm vụ ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của từng thành viên nói chung và của BQL nói riêng.
Thứ ba, BQL các KCN chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước (không thực hiện việc cung cấp dịch vụ công cho các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN).
Thứ tư, tăng cường mối liên hệ giữa BQL với các cơ quan quản lý nhà nước khác trên địa bàn nhằm hình thành một hệ thống quản lý khoa học, đồng bộ; hạn chế tình trạng chồng chéo, “nhũng nhiễu” của cơ quan quản lý nhà nước khac đối với các doanh nghiệp.
2.2 Về cơ sở vật chất của BQL
Điều kiện làm việc ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả làm việc của từng thành viên trong BQL. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả làm việc của Ban cần tăng cường cơ sở vật chất, (như: mở rộng diện tích công sở, điều kiện làm việc cho nhân viên, …), đặc biệt là các trang thiết bị tiên tiến phục vụ trong quá trình làm việc.
Tăng cường kinh phí cho BQL để nối mạng với cơ quan chuyên môn cấp dưới là một trong những nhân tố mang tính quyết định đến năng lực quản lý của BQL cũng như các cơ quan chuyên môn cấp dưới. Bởi nối mạng cho Ban và các cơ quan chuyên môn cấp dưới giúp BQL cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, chính xác giảm thiểu chi phí cả về thời gian và tiền bạc trong quá trình đi lại tìm kiếm thông tin. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực quản lý của BQL và của cơ quan chuyên môn cấp dưới.
2.3 Về năng lực của BQL
Nâng cao năng lực cũng như kinh nghiệm quản lý điều hành, BQL các KCn Bắc Ninh cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tạo điều kiện giúp cán bộ công nhân viên trong Ban học vi tính nhằm nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình làm việc; quá trình lưu trữ hồ sơ, tài liệu nhằm hạn chế tình trạng áp dụng phương pháp thủ công trong một số công việc (như:quy họch đất đai, thẩm định xây dựng,…) cũng như hạn chế chi phí về “văn phòng phẩm” cho BQL.
Thứ hai, tạo điều kiện giúp cán bộ công nhân viên trong Ban học hỏi chuyên môn; đi thực tế nhằm học hỏi kinh nghiệm quản lý của các tỉnh bạn để mạnh dạn đề xuất ý kiến áp dụng cho các KCN ở Bắc Ninh.
Ngoài ra, cần thành lập ban nghiên cứu nhu cầu của các nhà đầu tư nhằm đáp ứng các yêu cầu đó một cách tốt nhất để nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước.
3. Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở
Về đất đai
Thực hiện mục tiêu ưu đãi đối với các vấn đề liên quan đến đất đai cho các doanh nghiệp nhằm tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN.
Đầu tiên, Bắc Ninh cần tạo điều kiện ưu đãi như: giảm giá thành thuê đất, hỗ trợ doanh nghiệp khi họ thuê đất,… nhằm thu hút đầu tư
Hiện nay, giá thuê đất tại các KCN nói riêng và tại Bắc Ninh nói chung còn khá cao so với các tỉnh (thành phố) có cùng điệu kiện như địa phương (cao gấp 1,3 lần ở Vĩnh Phúc và 1,2 lần so với Hải Phòng, Bình Dương). Vì vậy, để thu hút đầu tư vào các KCN địa phương cần kiến nghị với các cơ quan cấp trên nhằm tiếp tục hạ giá thành thuê đất. Đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể trả tiền thuê đất trong nhiều lần thay vì phải trả một lần như trước đây.
Ngoài ra, tỉnh cần thực hiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi thuê đất tại KCN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trong các KCN khi họ có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh như: giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm ra, phức tạp cho doanh nghiệp khi đăng ký thuê đất.
Tiếp đến, tỉnh cần chú trọng đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “con” (ngoài giấy chứng nhận cấp cho cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng) nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thế chấp vay vốn Ngân hàng khi cần thiết (giấy chứng nhận “con” này không thể dùng để chuyển nhượng vào các mục đích khác ngoài thế chấp Ngân hàng để vay vốn).
3.2 Về cơ sở hạ tầng
Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN ở Bắc Ninh như: hệ thống giao thông, điện, cấp thoát nước, … nhằm giảm thiểu những chi phí phát sinh khi nhà đầu tư đầu tư vào các KCN.
Do đầu tư vào các hạng mục hạ tầng kỹ thuật nhìn chung phải cần nguồn vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm. Vì vậy, tỉnh cần đưa ra các chính sách ưu đãi nhằm kêu gọi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào các hạng mục hạ tầng.
4. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ
Các dịch vụ KCN
Tiếp tục đầu tư xây dựng các khu dân cư, khu đô thị gắn liền với các KCN nhằm hoàn thiện hệ thống cung cấp các dịch vụ như: nhà ở, trường học,… phục vụ nhu cầu đời sống của người lao động trong khu công nghiệp cũng như hệ thống các dịch vụ cung cấp cho các doanh nghiệp (như: hệ thống cung cấp nguyên vật liệu; nhận gia công, chế biến,...) đang hoạt động trong các KCN.
Đồng thời, kêu gọi các chủ đầu tư đầu tư xây dựng nhà để bán hoặc cho thuê cũng như việc xây dựng các trường tư thục liền kề các KCN nhằm cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho các nhà đầu tư cũng như người lao động làm việc trong các KCN.
4.2 Thành lập nhóm nghiên cứu nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp
Thành lập các nhóm nghiên cứu, nhóm tư vấn, trang Web, …nhằm cung cấp những thông tin cần thiết một cách nhanh chóng, chính xác cho các nhà đầu tư khi họ muốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0075.doc