- Đổi mới để phát triển. Trước hết là đổi
mới hệ thống quản lý phát triển, xây dựng
được nhân lực khu vực công có chất lượng,
có lương tâm và có trách nhiệm. Sau đó là
đổi mới phương cách điều hành phát triển.
Nói đi đôi với làm. Ba chủ thể phải đồng mục
tiêu, đồng hành động và đồng thụ hưởng kết
quả do phát triển đem lại. Các bộ và chính
quyền các địa phương phải là người có trách
nhiệm hàng đầu. Cải cách hành chính đi đôi
với đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành kinh tế từ trung ương
xuống địa phương; làm cho nền kinh tế phát
triển có tổ chức một cách khoa học. Nêu cao
quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan quản lý nhà nước và của đội ngũ
công chức, viên chức.
- Tiết kiệm đầu tư là yêu cầu cấp thiết.
Hàng chục năm thực thi đường lối hiện đại
hóa, Chính phủ Trung Quốc đã động viên
người dân “thắt lưng buộc bụng” để đầu tư
và tỷ lệ đầu tư xã hội trên GDP của họ đạt
tới khoảng 40-42%. Trong khoảng 15 năm
tới nền kinh tế Việt Nam cũng chưa lớn, khả
năng tích lũy từ nội bộ để đầu tư còn hạn chế.
Vì thế nước ta cần tiếp tục tạo ra môi trường
thuận lợi, hấp dẫn để thu hút được các dự án
đầu tư FDI với phương châm lôi kéo được
các nhà đầu tư chiến lược, có những dự án
lớn, sử dụng công nghệ cao và giữ vai trò
nòng cốt trong các chuỗi giá trị và các mạng
toàn cầu để tận dụng tốt cơ hội đem tới của
toàn cầu hóa, của các hiệp định thương mại
tự do và bảo hộ đầu tư.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao năng suất lao động của Việt Nam: Nhận diện những vấn đề gốc rễ để hành động đúng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 18, Số 1 (2020): 3-11
*Email: ngothuyquynhapd@gmail.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 18, Số 1 (2020): 3-11
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 18, No. 1 (2020): 3-11
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM:
NHẬN DIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ GỐC RỄ ĐỂ HÀNH ĐỘNG ĐÚNG
Ngô Doãn Vịnh1*, Lê Thị Thanh Thủy1
1Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ
Ngày nhận bài: 24/02/2020; Ngày chỉnh sửa: 12/3/2020; Ngày duyệt đăng: 20/3/2020
Tóm tắt
Nhiều năm nay Chính phủ, các địa phương, các nhà khoa học, các nhà quản lý quan tâm và dành nhiều thời gian tìm cách tăng năng suất lao động nhưng thực tế năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp, gia tăng
chậm, làm cho khả năng cạnh tranh sản phẩm cũng như cạnh tranh của nền kinh tế còn ở mức hạn chế. Thực tế
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về tăng năng suất lao động chưa được làm sáng tỏ và việc tìm giải pháp nâng
cao năng suất lao động vẫn gặp khó khăn. Trước tình hình như vậy, bài báo mong muốn góp phần lý giải rõ hơn
một số vấn đề then chốt, gốc rễ về nâng cao năng suất lao động của nước ta.
Từ khóa: Năng suất lao động, thu nhập cao, hiện đại hóa, liên kết, chuỗi giá trị.
1. Đặt vấn đề
Năng suất lao động là vấn đề quyết định
ai thắng ai và quyết định thịnh vượng. Chính
phủ và người dân Việt Nam đã nhận biết rõ
vai trò của năng suất lao động, thấy rõ tình
trạng năng suất lao động thấp và đã cố gắng
tìm cách tăng năng suất lao động của quốc
gia cũng như của các địa phương nhưng kết
quả đạt được còn khiêm tốn. Ngay từ năm
2013, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013
về phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng
lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 [1]. Vào
tháng 8/2019, Chính phủ tổ chức Hội nghị
cải thiện năng suất lao động quốc gia [2].
Các nhà khoa học, các nhà quản lý nói nhiều
đến nguyên nhân là chất lượng lao động của
Việt Nam chưa cao, cơ cấu kinh tế thay đổi
theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và
tăng tỷ trọng khối phi nông nghiệp chưa thỏa
đáng, quản lý nhà nước còn bộc lộ nhiều bất
cập, doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa
và nhỏ... Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai
đoạn 2011-2018 năng suất lao động của Việt
Nam tăng bình quân khoảng 4,88%/năm.
Một khi chưa có nhận thức đúng, chưa nhận
diện chính xác về tăng năng suất lao động
thì chưa thể có phương cách phù hợp để tăng
năng suất lao động của nước nhà. Bài báo đi
4TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Doãn Vịnh và Lê Thị Thanh Thủy
sâu phân tích những vấn đề quan trọng để
cung cấp thêm thông tin cho những ai quan
tâm đến vấn đề nâng cao năng suất lao động
của Việt Nam.
2. Một số vấn đề lý thuyết
Thực tế chỉ ra rằng, về vấn đề năng suất
lao động và nâng cao năng suất lao động
ở Việt Nam đang có nhiều điểm chưa thật
tường minh, trong đó đặc biệt là các yếu tố
ảnh hưởng tới tăng năng suất lao động (nhóm
tác giả xem như các điều kiện tiên quyết) và
việc đánh giá vai trò của năng suất lao động
trong quá trình phát triển kinh tế có hiệu quả
và bền vững. Vì thế, bài báo tập trung làm rõ
hơn các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới năng
suất lao động và đánh giá năng suất lao động
trong mối quan hệ với thịnh vượng kinh tế.
2.1. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới năng
suất lao động
Ảnh hưởng tới tăng năng suất lao động là
vấn đề căn bản cần nhận thức đúng đắn mới
tìm ra cách thức tăng năng suất lao động một
cách chính xác. Nhóm tác giả thấy rằng, phải
kể tới các yếu tố chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, việc làm có thu nhập cao. Đây
là vấn đề có tính quyết định đầu tiên đối với
nâng cao năng suất lao động của quốc gia.
Chính phủ, chính quyền địa phương là người
chịu trách nhiệm chính trong việc tìm kiếm,
hướng dẫn cho người dân phát triển những
việc làm có thu nhập cao. Chính phủ Mỹ chỉ
dành những việc làm có thu nhập cao, độc
chiếm nhiều lợi nhuận cho người dân nước
Mỹ (như chế tạo vệ tinh, máy bay, công nghệ
điều khiển, phát triển trí tuệ nhân tạo, dịch
vụ công nghệ thông tin trên các nền tảng
Google, Facebook, Yahoo, Youtube, chế tạo
xe hơi...) và nhập khẩu hoặc đặt hàng nước
ngoài sản xuất hàng tiêu dùng thông thường
phục vụ nhu cầu của người dân Mỹ hoặc cung
cấp các linh phụ kiện mà doanh nghiệp Mỹ
không làm. Gần đây Trung Quốc đã chuyển
chủ trương “sản xuất tại Trung Quốc - Made
in” thành “sản xuất bởi người Trung Quốc
- Made by”; họ tăng cường phát triển điện
thoại di động thông minh, chế tạo máy tính
tốc độ nhanh, sản xuất bán dẫn, vệ tinh, tham
gia chế tạo máy bay Airbus, đi đầu trong lĩnh
vực công nghệ 5G; chế tạo tàu ngầm, tàu sân
bay... Thực tiễn cho thấy, nếu chỉ phát triển
những việc làm có thu nhập thấp thì làm sao
có thể có năng suất lao động cao.
Thứ hai, doanh nghiệp mạnh, nắm giữ
lĩnh vực tiên phong, quản trị tốt và sử dụng
công nghệ hiện đại có ý nghĩa lớn đối với
việc tạo ra năng suất lao động cao. Doanh
nghiệp là chủ thể tạo ra tổng sản phẩm của
nền kinh tế, việc làm, đóng góp vào ngân
sách nhà nước, chủ thể cạnh tranh thương
mại toàn cầu... Tức là doanh nghiệp trực
tiếp quyết định thịnh vượng quốc gia. Năm
1995, khi tham gia đoàn cán bộ của Ủy ban
kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và
Đầu tư) làm việc với Thủ tướng Singapore,
tác giả đã nghe ngài Lý Quang Diệu nói một
câu khá lý thú, đại thể là: “Khi con đại bàng
cất tiếng gáy nó sẽ át cả rừng chim sẻ”. Ngài
Lý Quang Diệu muốn ám chỉ khi trong quốc
gia có tập đoàn kinh tế lớn, tầm cỡ quốc tế
nó sẽ át các doanh nghiệp nhỏ. Chỉ có doanh
nghiệp lớn, có tiềm lực tài chính, công nghệ
và thị trường lớn mới có thể giữ vai trò nòng
cốt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2019,
thống kê ở Thái Lan cứ khoảng 30 người có
1 doanh nghiệp, trong khi Việt Nam cứ 128
5TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 18, Số 1 (2020): 3-11
người mới có 1 doanh nghiệp mà phần lớn lại
là doanh nghiệp vừa và nhỏ [3]. Thế thì lấy
ai đảm trách nhiệm vụ nâng cao năng suất
lao động.
Thứ ba, hiện đại hóa hay sử dụng công
nghệ hiện đại mới là phương cách đúng đắn
để nâng cao năng suất lao động. Thực tế
cho thấy, có nhiều quốc gia không có công
nghiệp phát triển tới mức như của Mỹ, Đức,
Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc... nhưng vẫn
đứng vào nhóm các nước phát triển, có GDP/
người/năm đạt mức cao (từ 40 đến 60 nghìn
USD) như Thụy Sỹ, Canada, Australia, New
Zeland, Singapore... Ngay từ năm 1978 khi
thực hiện cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã
thực hiện mạnh mẽ chủ trương bốn hiện đại
hóa (hiện đại hóa công nghiệp, hiện đại hóa
nông nghiệp, hiện đại hóa khoa học công
nghệ và hiện đại hóa quốc phòng). Nhờ thế,
Trung Quốc đã có sự bứt phá thần kỳ, chỉ sau
40 năm phát triển, GDP/người/năm đã đạt
mức khoảng 10 nghìn USD và trở thành nền
kinh tế lớn thứ hai sau Mỹ, có mức dự trữ
ngoại tệ lớn bậc nhất thế giới (khoảng hơn
3.000 tỷ USD, thậm chí có ý kiến cho rằng
phải tới khoảng 3.600 - 4.000 tỷ USD) [4].
Thứ tư, hoạt động kinh tế của một quốc
gia phải được tổ chức (mà bản chất của nó là
phát triển các tổ hợp đa ngành và các chuỗi
giá trị sản phẩm trên cơ sở liên kết và có sự
phát triển đồng bộ trong thế cân đối). Các
hoạt động kinh tế phải được tiến hành một
cách có tổ chức khoa học. Nhà nước là chủ
thể đứng ra hướng dẫn, trực tiếp tổ chức và
điều hành sự phát triển đối với lực lượng
doanh nghiệp mới hy vọng có năng suất lao
động cao. Cộng đồng doanh nghiệp (gồm cả
doanh nghiệp, hợp tác xã phi nông nghiệp,
hợp tác xã nông nghiệp, trang trại, gia trại,
hộ gia đình...) phải được tổ chức, hoạt động
của cộng đồng doanh nghiệp phải trên cơ sở
liên kết dọc (theo ngành) và liên kết ngang
(theo lãnh thổ).
Thứ năm, quản lý nhà nước có lợi cho
phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định nâng
cao năng suất lao động, việc quản lý phải
vừa “nắm chặt” nhưng cũng phải vừa để
“phát triển” [5]. Daron Acemoglu và James
A. Robinson [6] đã cho biết, thể chế kinh tế
quyết định sự thành bại của các nền kinh tế.
Nhà nước là người “sinh ra” và tổ chức thực
hiện thể chế kinh tế nên suy cho cùng Nhà
nước là người quyết định sự thành công hay
thất bại đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tiễn cũng đã chứng minh điều này. Sự
khác biệt về thành quả phát triển kinh tế, về
năng suất lao động ở Việt Nam trước và sau
đổi mới (1988), ở Trung Quốc trước và sau
cải cách mở cửa (1978) cũng như sự khác
biệt giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc chính
là do sự khác biệt về thể chế kinh tế.
2.2. Đánh giá năng suất lao động trong mối
quan hệ với thịnh vượng kinh tế
Phải đánh giá năng suất lao động để biết
mức độ đạt được, xu thế thay đổi năng suất
lao động quốc gia, xác định rõ nguyên nhân
của tình trạng năng suất lao động thấp, để
từ đó tìm ra giải pháp nâng cao năng suất
lao động một cách hữu hiệu để quốc gia trở
thành nước phát triển.
2.2.1. Nhận biết đúng đắn về vai trò của
năng suất lao động
Muốn đánh giá năng suất lao động phải
biết vai trò, sự đóng góp của năng suất lao
động đối với phát triển kinh tế của đất nước.
Cả lý thuyết và thực tiễn chỉ ra rằng, năng
6TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Doãn Vịnh và Lê Thị Thanh Thủy
suất lao động có vai trò quan trọng, quyết
định đến hiệu quả và sự phát triển bền vững
của nền kinh tế. Vai trò đó biểu hiện ở những
phương diện chính dưới đây:
- Gia tăng lợi nhuận và sức cạnh tranh
của sản phẩm cũng như của cả nền kinh tế,
góp phần quyết định cơ hội chiến thắng, cải
thiện mức sống dân cư và gia tăng sức mua
của xã hội.
- Đóng góp nhiều cho ngân sách. Thông
qua phát triển được nhiều sản phẩm hàng hóa,
doanh nghiệp nộp thuế doanh thu, người dân
đóng thuế khi mua hàng hóa. Ở đây cần nhấn
mạnh một vấn đề quan trọng là “tài chính hộ
gia đình” - một trong những bộ phận quan
trọng cấu thành nền tài chính quốc gia - phải
được chăm lo đúng mức, cần có biện pháp
nuôi dưỡng thích đáng. Khi đã có nhiều ngân
sách thì phúc lợi xã hội, chính sách xã hội,
cải thiện môi trường, xây dựng kết cấu hạ
tầng kỹ thuật sẽ tốt hơn.
- Nuôi sống được nhiều người. Khi năng
suất lao động cao sẽ nuôi sống được nhiều
người. Góp phần quyết định vào ổn định xã
hội và nâng tầm văn minh xã hội. Năng suất
lao động cao sẽ góp phần hình thành văn hóa
phát triển tiên tiến.
2.2.2. Đánh giá mức độ đạt được và vai
trò của năng suất lao động
Đánh giá để biết năng suất lao động cao
hay thấp, gia tăng hay không gia tăng, gia
tăng có ổn định không... Đối với cả nền
kinh tế quốc gia cũng như đối với các địa
phương, năng suất lao động xã hội được
tính bằng cách lấy tổng GDP làm ra trong
một năm chia cho tổng lao động làm việc
trong nền kinh tế quốc dân của năm đó.
Tốc độ tăng năng suất lao động của một
năm hay bình quân năm của một giai đoạn
cần tính toán và được tính theo phương
pháp mà lâu nay các nhà khoa học, các nhà
quản lý kinh tế đã sử dụng.
Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, việc tính năng suất lao động thường bị
nhiễu nên nhà phân tích cần chú ý. Vai trò của
năng suất lao động đối với phát triển kinh tế
của quốc gia hay của tỉnh đã quá rõ nhưng phải
tiến hành đánh giá mới thấy hết vấn đề. Nếu
năng suất lao động cao thì sẽ có tăng trưởng
kinh tế tốt và GDP/người sẽ cao, các vấn đề xã
hội, môi trường, an ninh quốc phòng sẽ được
giải quyết tốt. Trong thực tế thường phân tích
mức độ đóng góp của năng suất lao động cho
tăng trưởng kinh tế để tìm ra giải pháp tăng
năng suất lao động [7]. Điều này được phân
tích bằng biểu thức sau:
ĐL = [1- (TL : TGDP)] . 100 (%)
Trong đó:
ĐL: Tỷ lệ đóng góp của năng suất lao
động vào tăng trưởng kinh tế. ĐL càng lớn
chứng tỏ năng suất lao động đóng góp càng
nhiều cho tăng trưởng kinh tế và ngược lại
nếu ĐL càng nhỏ cho biết năng suất lao động
đóng góp càng nhỏ cho tăng trưởng kinh tế.
TL: Tốc độ tăng số lao động làm việc
trong nền kinh tế của kỳ nghiên cứu.
TGDP: Tốc độ tăng trưởng GDP của kỳ
nghiên cứu.
Theo tác giả Ngô Doãn Vịnh [7] thì khi
ĐL vượt mức 85% là lúc nền kinh tế đã biểu
hiện trạng thái bước vào ngưỡng phát triển.
Đây là điểm quan trọng.
Trong thực tiễn người ta còn sử dụng mô
hình phân tích các yếu tố là tác nhân của tăng
7TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 18, Số 1 (2020): 3-11
năng suất lao động, bao gồm: đóng góp của
vốn, thể chế, chính sách, nhân lực, doanh
nghiệp... vào tăng năng suất lao động. Theo
cách này thường gặp khó khăn vì thiếu số liệu.
3. Tình hình năng suất lao động của
Việt Nam và những vấn đề đặt ra
3.1. Khái quát tình hình năng suất lao động
của Việt Nam
Năng suất lao động và phát triển kinh tế
là vấn đề lớn, phức tạp nên với khuôn khổ
một bài báo nhóm tác giả chỉ xin trình bày
một số vấn đề quan trọng. Theo Tổng cục
Thống kê [3], từ 2015 đến nay nền kinh
tế Việt Nam từng bước phát triển có hiệu
quả hơn và bền vững hơn. Tăng trưởng
kinh tế, năng suất lao động, GDP/người có
mức tăng tương đối nhanh và ổn định, nợ
công giảm từ mức hơn 69% GDP xuống
còn 56% GDP, tỷ lệ người nghèo giảm
từ khoảng 14,2% năm 2010 xuống còn
khoảng 6,8% năm 2018; tỷ giá đồng Việt
Nam khá ổn định, lạm phát giảm và có lợi
cho tăng trưởng kinh tế.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu chủ yếu của Việt Nam
Chỉ tiêu Đơn vị 2010 2015 2018 Tăng b/q năm, %
1.1. Dân số Nghìn người 86.947,4 91.709,8 94.666 1,05
1.2. Lao động làm việc Nghìn người 49.048,5 52.840 54.249,4 1,28
1.3. GDP (giá 2010) Tỷ đồng 2.157.828 2.875.856 3.493.399 6,2
Trong đó: Nông nghiệp Tỷ đồng 396.576 462.536 500.567 2,95
% so tổng số % 18,4 16,1 14,3 -
Công nghiệp - Xây dựng Tỷ đồng 693.351 982.411 1.242.420 6,7
% so tổng số % 32,1 34,2 35,6 -
Dịch vụ Tỷ đồng 797.155 1.101.236 1.354.796 6,85
% so tổng số % 36,9 38,3 38,8 -
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp Tỷ đồng 270.746 329.673 395.616 4,85
% so tổng số % 12,6 11,4 11,3 -
1.4. GDP (giá hiện hành) Tỷ đồng 2.157.828 4.192.662 5.542.332 -
1.5. GDP/người (giá 2010) Triệu đồng 24,8 31,4 36,9 5,1
Giá hiện hành Triệu đồng 24,8 45,7 58,5 -
1.6. Năng suất lao động (giá 2010) Triệu đồng 44,0 54,4 64,4 4,9
1.7. Thu nhập bình quân 1 lao động của
khu vực doanh nghiệp
Giá hiện hành
Nghìn đồng 5.882* 8.272** -
Ghi chú: *Số trung bình giai đoạn 2011-2015 và ** số liệu năm 2017
Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam 2019 [3]
8TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Doãn Vịnh và Lê Thị Thanh Thủy
Năm 2018, năng suất lao động của Việt
Nam vẫn ở mức thấp. Nếu tính theo giá sức
mua tương đương, năng suất lao động của Việt
Nam chỉ bằng 7,3% năng suất lao động của
Singapore; 19% của Malaysia; 37% của Thái
Lan; 44,8% của Indonesia và bằng 55,9% của
Philippines. Theo công thức tính toán đã trình
bày thì trong thời kỳ 2011-2018 năng suất lao
động đóng góp khoảng 79,4% vào tăng trưởng
kinh tế (tức là đóng góp được 4,9 điểm phần
trăm (79,4% của 6,2%) [3]. Như vậy, thì nền
kinh tế Việt Nam còn xa mới bước vào ngưỡng
phát triển. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của
Việt Nam ở mức trung bình, chưa thật đảm bảo
cho tăng năng suất lao động quốc gia như mong
muốn [8]. Nhìn từ phía doanh nghiệp có nhiều
điểm cần suy ngẫm về vấn đề tăng năng suất
lao động. Năm 2018, ngoài số doanh nghiệp đã
nói, ở Việt Nam còn có 13.171 hợp tác xã phi
nông nghiệp, 5.151.948 cơ sở kinh tế cá thể phi
nông nghiệp, 31.668 trang trại nông nghiệp...
[3]. Vì đa phần đều có quy mô nhỏ nên dễ bị
tổn thương khi có biến động từ bên ngoài. Với
tình hình đó liệu nền kinh tế Việt Nam có thể
duy trì sự phát triển hiệu quả, bền vững trong
những năm tới hay không? Ở Việt Nam, doanh
nghiệp có vốn vốn đầu tư nước ngoài tạo ra
khoảng 19,4% GDP, khoảng 71,4% giá trị xuất
khẩu, đóng góp khoảng 13,1% ngân sách Nhà
nước và đóng góp khoảng 23,3% vốn đầu tư
xã hội đã thực hiện [3]. Từ những con số trên
cho thấy, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có
vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát
triển bền vững của Việt Nam. Tuy thế, sự thất
thoát của Việt Nam do các doanh nghiệp FDI
gây ra bởi chuyển giá, trốn thuế là bao nhiêu
thì chưa được thống kê. Điều này càng chứng
tỏ Nhà nước có vai trò quan trọng như thế nào
đối với phát triển kinh tế bền vững của nước ta.
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc tăng
năng suất lao động và xây dựng nền kinh tế
phát triển ở Việt Nam
3.2.1. Nền kinh tế đang có nhiều khó khăn
và hạn chế
Nhìn tổng thể nền kinh tế đang thiếu nhiều
tiền đề để tăng tốc trên cơ sở tăng năng suất
lao động. Đối với nền kinh tế Việt Nam hiệu
quả phát triển chưa cao và thậm chí có người
nói là còn thấp; phần lớn doanh nghiệp của
người Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, sử
dụng công nghệ chưa cao, nhìn chung chưa
có doanh nghiệp đứng trong nhóm 500 công
ty lớn của thế giới; có ít doanh nghiệp tham
gia các chuỗi giá trị toàn cầu và các mạng
cung ứng cũng như mạng phân phối toàn
cầu. Nền kinh tế có độ mở lớn nên cũng dễ
bị ảnh hưởng lớn từ bên ngoài. Do quy mô
nền kinh tế nhỏ (mới khoảng 240 tỷ USD giá
hiện hành), GDP/người thấp nên khả năng
tích lũy đầu tư từ nội bộ nền kinh tế cũng
thấp nhưng để phát triển kinh tế nhanh hơn
thì vẫn cần nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Tiềm lực công nghệ, đổi mới sáng tạo
quốc gia còn rất hạn chế, kinh nghiệm hoạch
định chính sách phát triển, quản lý và điều
hành tiên tiến cũng còn nhiều bất cập.
3.2.2. Phải xác định đúng nguyên nhân
của tình trạng năng suất lao động thấp
Có rất nhiều nguyên nhân, có cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
nhưng trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ
yếu. Nhóm tác giả xin nêu một số nguyên
nhân cơ bản:
- Nền kinh tế Việt Nam chưa có nhiều việc
làm có thu nhập cao, đa phần việc làm có
thu nhập thấp. Thu nhập của người lao động
trong khối doanh nghiệp chỉ đạt mức thấp;
lợi nhuận của doanh nghiệp cũng thấp.
9TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 18, Số 1 (2020): 3-11
Bảng 2. Một số chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp giai đoạn 2011-2017
Chỉ tiêu Giai đoạn Chung DNNhà nước
DN ngoài
Nhà nước
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
2.1. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
so với tài sản
(bằng hoặc lớn hơn 7,5% mới tốt); %
2011-2015 2,4 2,8 1,1 5,4
2016 2,7 2,6 1,4 6,9
2017 2,9 2,2 1,8 7,0
2.2. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
so với vốn chủ sở hữu
(bằng hoặc lớn hơn 15% mới tốt); %
2011-2015 8,2 12,1 3,4 15,1
2016 9,0 11,0 4,4 17,5
2017 10,0 11,4 6,0 18,1
2.3. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
so với doanh thu
(bằng hoặc lớn hơn 10% mới tốt); %
2011-2015 3,7 6,0 1,5 6,1
2016 4,1 6,9 1,9 6,8
2017 4,2 6,4 2,5 6,6
Nguồn: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2019 [9]
- Cơ cấu kinh tế chưa tạo ra tiền đề tăng
trưởng kinh tế có hiệu quả. Trong thời kỳ
2011-2018, việc đầu tư bộc lộ nhiều bất cập
mà tiêu biểu là đầu tư phát triển lĩnh vực sử
dụng công nghệ cao và đầu tư cho đổi mới
sáng tạo còn thấp. Trong khi tốc độ tăng
trưởng của khối ngành sản xuất sản phẩm
vật chất (nông nghiệp, công nghiệp và xây
dựng) đạt khoảng 6,05%/năm thì tốc độ tăng
của khối ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ
đạt khoảng 6,85%/năm. So sánh tốc độ tăng
trưởng của hai khối ngành này được hệ số
tương quan là: 1: 1,13 (tức là sản xuất sản
phẩm vật chất tăng 1% hay 1 lần thì tốc độ
tăng của khối ngành sản xuất sản phẩm dịch
vụ chỉ được 1,13% hay 1,13 lần). Mức tương
quan như thế là khá thấp so với mức của các
nước công nghiệp phát triển (1: 1,8-2,5). Tỷ
trọng lao động nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản ở Việt Nam còn chiếm tới khoảng
36-37% tổng lao động xã hội, lao động hoạt
động trong lĩnh vực khoa học công nghệ chỉ
chiếm khoảng 0,5%; mặt khác doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm tới 93% (mà cũng chỉ có
khoảng 8-10% doanh nghiệp sử dụng công
nghệ hiện đại) là nguyên nhân chủ yếu dẫn
tới năng suất lao động thấp.
- Chúng tôi đồng tình với quan điểm của
tác giả Ngô Thúy Quỳnh (2016), quản lý nhà
nước còn bộc lộ nhiều bất cập, trong đó nổi
bật là chính sách chưa thật sự có lợi cho phát
triển [5]. Cộng đồng doanh nghiệp vừa chưa
mạnh vừa thiếu liên kết và dường như chưa
hợp lực trong sản xuất cũng như trong cạnh
tranh quốc tế. Đối với người dân thì có bộ
phận không nhỏ thiếu tinh thần tự tôn trong
quá trình phát triển kinh tế cũng như trong
việc ganh đua với bên ngoài. Ở Việt Nam đã
có khoảng 50-55% người dân sử dụng điện
thoại thông minh nhưng phần đông họ chỉ sử
dụng để nghe, nói, tra cứu các mạng xã hội
chứ chưa sử dụng để làm ra tiền. Khi quan sát
sự thành công của nước Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc dễ nhận ra một vấn đề có tính nguyên
tắc là: Thành công = Trí tuệ (thông minh) +
Thông tin. Do đó, muốn tăng năng suất lao
động cần phải phát triển bằng trí tuệ, sáng tạo
và khôn ngoan.
10
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Doãn Vịnh và Lê Thị Thanh Thủy
4. Nhận định thay lời kết
Năng suất lao động cao luôn luôn là cái
đích của Nhà nước, doanh nghiệp và người
dân hướng tới nhưng muốn có năng suất
lao động cao thì Việt Nam phải thực hiện
cho được một số việc giữ vai trò then chốt
như sau:
- Nhà nước phối hợp với doanh nghiệp
và người dân xây dựng cho được chiến lược
phát triển cơ cấu kinh tế hiện đại trên cơ sở
tìm ra nhiều việc làm có thu nhập cao và theo
hướng hình thành được các lĩnh vực mũi
nhọn, các sản phẩm chủ lực tiêu biểu cho
Việt Nam. Rồi từ đó đổi mới việc đào tạo
nhân lực theo hướng đáp ứng yêu cầu phát
triển. Trên cơ sở xác định được lĩnh vực mũi
nhọn, sản phẩm chủ lực cho trung và dài hạn,
xây dựng được khung luật pháp về kinh tế đủ
đảm bảo có lợi cho mọi thành phần, mọi lực
lượng kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền
vững. Đồng thời, cần kiên quyết hiện đại hóa
nền kinh tế trên cơ sở tận dụng ảnh hưởng tốt
từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ
làn sóng phát triển của trí tuệ nhân tạo, của
nền kinh tế số cũng như tận dụng lợi ích từ
các làn sóng đầu tư FDI thế hệ mới. Nhanh
chóng có chiến lược quốc gia về phát triển
doanh nghiệp đúng đắn với tầm nhìn dài hạn
trong bối cảnh quốc tế ngày càng diễn biến
phức tạp. Tôn vinh những doanh nghiệp có
đóng góp lớn cho sự nghiệp phát triển của
Việt Nam.
- Đổi mới để phát triển. Trước hết là đổi
mới hệ thống quản lý phát triển, xây dựng
được nhân lực khu vực công có chất lượng,
có lương tâm và có trách nhiệm. Sau đó là
đổi mới phương cách điều hành phát triển.
Nói đi đôi với làm. Ba chủ thể phải đồng mục
tiêu, đồng hành động và đồng thụ hưởng kết
quả do phát triển đem lại. Các bộ và chính
quyền các địa phương phải là người có trách
nhiệm hàng đầu. Cải cách hành chính đi đôi
với đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành kinh tế từ trung ương
xuống địa phương; làm cho nền kinh tế phát
triển có tổ chức một cách khoa học. Nêu cao
quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan quản lý nhà nước và của đội ngũ
công chức, viên chức.
- Tiết kiệm đầu tư là yêu cầu cấp thiết.
Hàng chục năm thực thi đường lối hiện đại
hóa, Chính phủ Trung Quốc đã động viên
người dân “thắt lưng buộc bụng” để đầu tư
và tỷ lệ đầu tư xã hội trên GDP của họ đạt
tới khoảng 40-42%. Trong khoảng 15 năm
tới nền kinh tế Việt Nam cũng chưa lớn, khả
năng tích lũy từ nội bộ để đầu tư còn hạn chế.
Vì thế nước ta cần tiếp tục tạo ra môi trường
thuận lợi, hấp dẫn để thu hút được các dự án
đầu tư FDI với phương châm lôi kéo được
các nhà đầu tư chiến lược, có những dự án
lớn, sử dụng công nghệ cao và giữ vai trò
nòng cốt trong các chuỗi giá trị và các mạng
toàn cầu để tận dụng tốt cơ hội đem tới của
toàn cầu hóa, của các hiệp định thương mại
tự do và bảo hộ đầu tư.
Tài liệu tham khảo
[1] Thủ tướng Chính phủ (2013). Quyết định số
339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 về phê duyệt đề
án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn
2013-2020.
[2] Báo Chính phủ (2019). Thủ tướng chủ trì Hội
nghị cải thiện năng suất lao động quốc gia. Truy
cập ngày 05/02/2020, từ <http: //baochinhphu.
vn/Thong-cao-bao-chi/Thu-tuong-chu-tri-
11
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 18, Số 1 (2020): 3-11
Hoi-nghi-cai-thien-nang-suat-lao-dong-quoc-
gia/372506.vgp>.
[3] Tổng cục Thống kê (2019). Niên giám Thống
kê Việt Nam 2018. Nhà xuất bản Thống kê, Hà
Nội.
[4] Thông tấn xã Việt Nam (2019). Dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc tăng cao hơn dự
kiến. Truy cập ngày 05/02/2020, từ <http:
//thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/quoc-
te/2019-02-12/du-tru-ngoai-hoi-cua-trung-
quoc-tang-cao-hon-du-kien-67660.aspx>.
[5] Ngô Thúy Quỳnh (2016). Phát triển bền vững
nhìn từ góc độ quản lý nhà nước. Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế về “Quản lý chiến lược mục tiêu
phát triển bền vững, cách tiếp cận, tư duy hệ
thống hóa và điều khiển học - Bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam”. Tháng 3/2016, Học
viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
[6] Daron Acemoglu & James A. Robinson (2013).
Tại sao các quốc gia thất bại. Nhà xuất bản Trẻ,
TP. Hồ Chí Minh.
[7] Ngô Doãn Vịnh (2005). Bàn về phát triển kinh
tế: Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu sang.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8] Ngọc An (2019). Việt Nam tăng 10 bậc xếp
hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Truy cập
ngày 05/02/2020, từ <https: //tuoitre.vn/viet-
nam-tang-10-bac-xep-hang-nang-luc-canh-
tranh-toan-cau-20191009114319843.htm>.
[9] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019). Sách trắng
doanh nghiệp Việt Nam 2019. Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội.
INCREASING LABOR PRODUCTIVITY IN VIETNAM:
IDENTIFICATIONS OF KEY PROBLEMS TO FIND OUT CORRECT ACTIONS
Ngo Doan Vinh1, Le Thi Thanh Thuy1
1Hung Vuong University, Phu Tho
Abstract
For many years, the Vietnamese Government, localities, scientists, and managers have paid great attention for finding ways to increase labor productivity, but in fact the Vietnam’s labor productivity has been still low
and slowly increasing. As a result, the competitiveness of products as well as the economy’s competitiveness has
still limited. Currently, there seems to be many theoretical and practical issues on increasing labor productivity
that have not been clarified, therefore finding solutions to increase labor productivity still faces difficulties. The
article aims to contribute to better explaining some key issues and the solutions of improving labor productivity
in Vietnam.
Keywords: Labor productivity, high income, modernization, integration, value chain, Vietnam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_nang_suat_lao_dong_cua_viet_nam_nhan_dien_nhung_van.pdf