Giải pháp thực tế - kinh nghiệm
của Viện Nghiên cứu và Phát triển
doanh nghiệp
Tuân theo những nguyên tắc nêu
trên, INBUS đã tiến hành những nghiên
cứu trong một vài năm để tìm kiếm và
phát triển mối quan hệ đối tác. Nhật Bản
đã được lựa chọn làm đối tác đầu tiên để
thiết lập mối liên hệ kết nối giữa doanh
nghiệp hai nước và kinh nghiệm của các
doanh nghiệp Nhật Bản là các bài học có
giá trị trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực kế cận cho các doanh nghiệp
Việt Nam đang được INBUS theo đuổi.
Học tập kinh nghiệm một cách sáng
tạo phải có nguồn nhân lực phù hợp. Vì
vậy, đào tạo nhân lực cần được tiến hành
sớm hơn. Trong những năm qua, INBUS
đã bước đầu thiết lập các mối liên hệ với
cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt
Nam và Nhật Bản để sử dụng cơ sở vật
chất và công nghệ của họ cho sinh viên,
học sinh rèn luyện, thực hành, trước hết
là ý thức kỷ luật và sự chăm chỉ. Chúng
tôi bước đầu thành công trong việc thuyết
phục một số cơ sở đại học và giáo dục
phổ thông thay đổi cách tiếp cận và tận
dụng những cơ hội chúng tôi mở ra. Hai
năm nay, Khoa Điện - Điện tử của Trường
Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà
Nội đã đưa việc thực hành trải nghiệm
vào chương trình đào tạo chính thức hàng
năm cho sinh viên. Một số thỏa thuận hợp
tác giữa INBUS với các trường đại học,
trường nghề, trường phổ thông, Hiệp hội
Doanh nghiệp Nhật Bản về đào tạo hướng
nghiệp liên thông và sử dụng nguồn nhân
lực đã được ký kết.
Nhằm hỗ trợ kết nối doanh nghiệp
Việt Nam với cộng đồng quốc tế, INBUS
đã sử dụng Bộ chỉ số BCI xây dựng cuốn
cẩm nang danh bạ về năng lực doanh
nghiệp theo ngành, lĩnh vực của tỉnh Hưng
Yên. Một chương trình đào tạo doanh
nhân tương lai thông qua mô hình ươm
tạo doanh nhân, doanh nghiệp tại Nhật
Bản cũng được cam kết giữa INBUS,
Báo Diễn đàn doanh nghiệp (VCCI) với
Đại diện Cộng đồng doanh nghiệp Nhật
Bản và bắt đầu triển khai. Chương trình
nhằm tạo cơ hội cho những người trẻ
tuổi Việt Nam mong muốn lập nghiệp có
thể tiếp cận và tiếp nhận những mô hình
kinh doanh nhỏ của Nhật Bản cùng kinh
nghiệm của họ. Những chương trình trên
chỉ mới được khởi xướng khoảng hai năm,
nhưng triển vọng rất sáng sủa, vì phù hợp
với xu thế và chủ trương chính sách của
Chính phủ./
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 327 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng lực sáng tạo tại doanh nghiệp Việt Nam và phát triển nguồn nhân lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
31Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
1. Phát triển kinh tế tư nhân là một
chủ trương lớn đầy thách thức
a) Việt Nam là nền kinh tế mới nổi và
đang chuyển đổi
Công cuộc đổi mới về kinh tế bắt đầu
được thực thi tại Việt Nam từ sau Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII vào
tháng 6 năm 1986. Tuy vậy, quá trình đổi
mới trong nền kinh tế xuất hiện muộn hơn,
vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX và
thực sự trở nên mạnh mẽ từ những năm đầu
thế kỷ XXI. Trong ba thập kỷ đổi mới, nền
kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến chuyển
quan trọng và đã đạt được những bước
tăng trưởng nhanh, liên tục ở mức 5-7%
GDP/năm, tạo ra nhiều việc làm, đời sống
được cải thiện. Kinh tế tư nhân đóng góp
khoảng 40% GDP (2017), thu hút 85% lao
động xã hội và chiếm 98% trong số trên
600 ngàn doanh nghiệp.
NĂNG LỰC SÁNG TẠO TẠI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
PGS. TS. Nguyễn Mạnh Quân *
Tóm tắt: Việt Nam là một nền kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi. Tuy tăng
trưởng đạt tốc độ khá ấn tượng so với các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực,
nhưng theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), kinh tế Việt Nam vẫn có
nguy cơ tụt hậu. Việt Nam rất cần những bước tiến mang tính đột phá. Khu vực kinh tế
tư nhân là một động lực phát triển của nền kinh tế. Nhưng đóng góp của doanh nghiệp
tư nhân cho nền kinh tế còn rất hạn chế. Một trong những lợi thế tiềm ẩn của nền kinh
tế Việt Nam nằm ở nguồn nhân lực. Bài viết giới thiệu một số kết quả nghiên cứu về
năng lực sáng tạo của khu vực doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam và đề xuất một số
cách tiếp cận chiến lược tạo sức bật cho khu vực này.
Từ khóa: Năng lực, đổi mới, sáng tạo, nguồn nhân lực, tư nhân
Abstract: Vietnamese economy is the newly- emerged and transitioning one.
Although the growth has been recorded at a rather impressive rate in comparison
with the developing economies in the region, basing on the evaluation of the World
Economic Forum (WEF), Vietnam economy is still in the danger of lagging. Vietnam
is in great need for breakthrough progress. The private economic sector is the driving
force of economic development. The contribution of the private enterprises to the
national economy, however, remains so limited. One of the potential advantages of
Vietnam economy lies in its human resources. The article introduces the outcome of the
research on the creative capacity of the private enterprises in Vietnam and proposes
some strategic approaches to create a bounce for this sector.
Keywords: capacity, đổi mới / innovation, creation, human resources, private
* Viện nghiên cứu phát triển doanh nghiệp (Viện INBUS)
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
32Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
b) Thách thức chủ yếu đối với nền
kinh tế
Môi trường kinh doanh được cải thiện
thông qua những chính sách và sự nỗ lực
của Chính phủ, thứ hạng của nền kinh tế
được cải thiện theo từng năm, dù không
ổn định. Theo đánh giá của các chuyên
gia WEF và Chỉ số Sáng tạo toàn cầu
(GII), Việt Nam luôn chứng tỏ có những
ưu thế đặc biệt đáng kể trong một số lĩnh
vực về con người và sáng tạo.
Hình 1. Phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1990-2015 và xu thế; (WEF, 2015)
Tuy tăng trưởng đạt được tốc độ khá
ấn tượng, nhưng theo đánh giá của WEF,
kinh tế Việt Nam vẫn đang có nguy cơ tụt
hậu so với các nền kinh tế mới nổi khác
trong khu vực (H.1).
Cho dù một số chỉ số liên quan đến con
người và năng lực sáng tạo của nguồn nhân
lực Việt Nam được đánh giá là có nhiều ưu
thế, kinh tế Việt Nam vẫn bị coi là một nền
kinh tế phát triển ở mức trung bình và có
nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
c) Việt Nam rất cần những bước tiến
mang tính đột phá.
Theo đánh giá của WEF, Việt Nam
mới chỉ được coi là quốc gia đứng
đầu nhóm các nước phát triển dựa vào
nguồn lực. Tiềm năng con người chưa
thực sự được khai thác một cách hiệu
quả (H.2). Vì vậy, dù nỗ lực, cũng khó
có thể đạt được mục tiêu phát triển vượt
bậc. Đáng lưu ý, trong khi Việt Nam
đang gắng sức, các quốc gia khác cũng
tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh hơn
nhờ những nguồn lực và cách tiếp cận
đúng đắn. Vì thế, Đảng CSVN đã ban
hành Nghị quyết 10/NQ-TƯ phát triển
kinh tế tư nhân trở thành “một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”.
d) Vai trò thực sự của khu vực kinh tế
tư nhân tại Việt Nam
Tuy được thừa nhận có vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế, nhưng đóng
góp của doanh nghiệp tư nhân cho nền kinh
tế còn rất hạn chế. Theo báo cáo đánh giá
Hình 2. Xếp hạng các nền kinh tế trong
khu vực theo WEF (2018)
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
33Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
một năm sau thực hiện Nghị quyết 10/NQ-
TƯ (10/2018), các doanh nghiệp tư nhân
(DNTN) mới đóng góp gần 8% GDP. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Bên cạnh các vấn đề về môi trường kinh
doanh (như thể chế, luật pháp,) và năng
lực điều hành của bộ máy hành chính, có
những yếu tố về năng lực của doanh nghiệp
và phương pháp quản lý. Báo cáo GII 2017
về Việt Nam cho rằng, tuy có một số điểm
mạnh về năng lực hấp thụ kiến thức, tác
động của kiến thức hoặc phổ biến kiến thức,
nhưng vẫn bộc lộ những điểm yếu về giáo
dục và nhân lực, như giáo dục nghề nghiệp
và giáo dục đại học. Theo nghiên cứu của
VietAnalytics (Đinh Tuấn Minh, 2018),
phần đông DNTN có quy mô nhỏ và siêu
nhỏ, doanh nghiệp có số lượng lao động
dưới 10 người chiếm trên 50%. Khả năng
tiếp cận thị trường thế giới hạn chế, chỉ có
khoảng 11% DNTN có hàng hóa xuất khẩu
trực tiếp hoặc gián tiếp. Số DNTN nằm
trong top 50 chỉ chiếm 1/3 (16/50). Tuy đã
có nhiều chính sách và nguồn lực được cam
kết, dường như “năng lực hấp thụ chính
sách” nói chung, tiếp nhận và xử lý sự hỗ
trợ của DNTN nói riêng, đang là một vấn
đề lớn. Đáng ngại là nhiều nỗ lực đã được
thực thi, nhưng vẫn chưa được cải thiện.
Cần phải có các biện pháp tiếp cận phù
hợp, sự nỗ lực của cả Chính phủ, lẫn khu
vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là DNTN.
2. Doanh nghiệp Việt Nam qua
nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
a) Nghiên cứu ở cấp vĩ mô
Sự cam kết của Chính phủ trong việc
phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV) thể hiện qua các
chính sách hỗ trợ tín dụng, chính sách ưu
đãi về thuế và đào tạo nâng cao năng lực.
Quỹ phát triển DNNVV, với số vốn điều
lệ là 2.000 tỷ VND (gần 100 triệu USD),
thành lập từ năm 2014, chỉ cho vay với tỷ
lệ rất thấp. Số lượt doanh nghiệp tiếp cận
được nguồn tài chính này hầu như không
đáng kể. Tình trạng các nguồn tín dụng hỗ
trợ phát triển kinh doanh nhỏ khác cũng
tương tự, cho dù lượng vốn tín dụng cam
kết tăng hằng năm (Cấn Văn Lực, 2018).
Theo đánh giá của các chuyên gia, năng lực
quản lý điều hành của các doanh nghiệp và
người quản lý là một trở ngại lớn dẫn đến
tình trạng thiếu mặn mà của các tổ chức
tín dụng đối với các DNNVV. Theo Grant
Thornton, gần 60% số người được hỏi cho
rằng năng suất lao động chỉ có tầm quan
trọng rất ít. Điều đó chứng tỏ nguồn nhân
lực của Việt Nam mới là tiềm năng. Trong
khuôn khổ của hai chương trình quốc gia
về lập nghiệp và hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp trong các giai đoạn 2005-2009 và
2011-2015, hàng trăm tỷ đồng từ ngân
sách (dao động từ 30-60 tỷ VND/năm) đã
được giải ngân cho các khóa đào tạo để
phát triển nguồn nhân lực và năng lực hoạt
động của doanh nghiệp. Mặc dù vậy, tác
động có nó vẫn khó kiểm định.
Bảng 1. Cơ cấu doanh nghiệp được khảo
sát, theo ngành (INBUS, 2017-2018)
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
34Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Đào tạo nhân lực là một trong những
vấn đề then chốt đối với các doanh nghiệp
Việt Nam để nâng cao năng lực nội sinh,
hội nhập vào các chuỗi giá trị/cụm liên kết
và nền kinh tế toàn cầu. Những nghiên cứu
của Viện Nghiên cứu và Phát triển doanh
nghiệp (INBUS) đã chỉ ra rằng, để thực
hiện có hiệu quả các khóa đào tạo và nâng
cao năng lực hoạt động cho doanh nghiệp
Việt Nam, cần nhận thức rõ những tồn tại
sau: (i) Nhu cầu về nâng cao năng lực của
doanh nghiệp rất khác nhau, tùy thuộc thực
trạng năng lực và quan điểm của lãnh đạo
doanh nghiệp; (ii) Đào tạo nhân lực là cách
tiếp cận truyền thống, tuy nhiên, cần phải
nâng cao năng lực hệ thống, thay vì chỉ tập
trung vào trang bị kỹ năng.
b) Nghiên cứu ở cấp doanh nghiệp
của Viện Nghiên cứu và Phát triển
doanh nghiệp
Gần đây (2017-2018) INBUS đã tiến
hành khảo sát 200 doanh nghiệp được lựa
chọn của tỉnh Hưng Yên (đứng thứ 56/63
tỉnh, thành phố về chỉ số cạnh tranh PCI)
và gần 500 doanh nghiệp ở 8 tỉnh, thành
phố khác (năm 2016) về năng lực doanh
nghiệp nói chung và nhân lực nói riêng,
trong đó có năng lực đổi mới, sáng tạo và
năng lực hấp thụ công nghệ (B. 1).
- Phương pháp khảo sát:
Việc khảo sát được tiến hành với Bộ
chỉ số BCI của INBUS được phát triển
dựa trên bộ chỉ số đánh giá năng lực hoạt
động quản trị của doanh nghiệp và bộ chỉ
số CIS của Nhật Bản (Ishijima và Maeda,
2014), INBUS cũng đã bổ sung, nâng cấp
BCI qua tham khảo bộ chỉ số SBC và
phương pháp nghiên cứu khác của Hàn
Quốc (2016), phương pháp luận đánh giá
năng lực tổ chức OCAT (Mwiya, 2009) và
đánh giá năng lực quản lý rủi ro dự án của
tổ chức OPMCAT của Cannada, phương
pháp tính của WEF, GII, cũng như nội
dung từ KPI (Parmenter, 2007), các chỉ
số cốt yếu về quản lý (Walsh, 2008), các
chỉ số về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (CSR), vốn xã hội (OTI) và văn
hóa tổ chức (DOCS), (H.3).
Phương pháp chỉ số (indexing) quen
thuộc như trong WEF, GII và nhiều tài
liệu nghiên cứu khác được sử dụng để
lượng hóa, phân tích và so sánh các doanh
nghiệp về các phương diện khác nhau. Áp
dụng để đánh giá năng lực doanh nghiệp,
BCI của INBUS cụ thể hóa thành hệ thống
các tiêu chí (H.4).
Hình 3. Phương pháp xây dựng Bộ chỉ số BCI
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
35Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Về nguyên tắc, BCI cũng được xây
dựng để triển khai khảo sát trên các chức
năng và lĩnh vực quản trị doanh nghiệp cơ
bản theo mô hình quản trị doanh nghiệp
kinh doanh trong kinh tế thị trường. Đó là
các chức năng hay lĩnh vực quản trị, như
marketing và bán hàng, công nghệ và tác
nghiệp, tổ chức và nhân sự, kế toán và tài
chính, quản trị và điều hành.
Về bán hàng và marketing, những
vấn đề về năng lực, như khả năng tạo ra
lợi nhuận, khả năng hoạt động hiệu quả,
năng lực quản lý điều hành, là những
nội dung được quan tâm. Trong các hoạt
động công nghệ, khả năng thích ứng,
đổi mới sáng tạo, khả năng đảm bảo tiêu
chuẩn chất lượng, là những vấn đề
được nhiều người coi trọng.
Về tổ chức và nhân sự, việc bố trí sử
dụng và tạo môi trường làm việc thuận lợi
luôn là những vấn đề được ưu tiên. Các
chỉ số về năng lực tổ chức, như hệ thống
thông tin nội bộ và chất lượng nguồn
thông tin cùng với những chính sách đảm
bảo truy nhập và khai thác thông tin là
những nhân tố quan trọng.
Thông tin về năng lực tài chính doanh
nghiệp, năng lực vốn hóa thị trường, khả
năng hấp thụ vốn hay năng lực quản lý
nợ xấu là những nội dung được nhiều đối
tượng, nhất là các nhà đầu tư, muốn biết.
Lòng tin, năng lực phát triển bền vững,
các nguồn lực xã hội, động lực của người
lao động,là những vấn đề quyết định
kết quả và hiệu suất hoạt động của doanh
nghiệp. Những vấn đề năng lực như vậy
được tổng hợp và thể hiện thành các chỉ
số KPI có thể xác minh một cách khách
quan, phản ánh thực trạng năng lực của
doanh nghiệp vào thời điểm khảo sát.
- Kết quả khảo sát:
Điểm số của gần 200 doanh nghiệp
được khảo sát tại Hưng Yên nằm trong
phạm vi được trình bày như trong B.2
và H.5.
Các doanh nghiệp được khảo sát
(B. 3) phân thành 7 nhóm năng lực: “rất
yếu” – “yếu” – “dưới trung bình” – “trung
bình” – “khá” – “tốt” – “rất tốt”, theo tỷ
lệ đồng đều (100/7). Có thể thấy hầu hết
các điểm năng lực của các doanh nghiệp
được khảo sát ở mức trung bình và trên
trung bình. Số doanh nghiệp được khảo
sát do các cơ quan quản lý ở địa phương
lựa chọn và giới thiệu. Có nghĩa là trong
thực tế năng lực doanh nghiệp Việt Nam
Hình 4. Hệ thống chỉ báo của Bộ chỉ số BCI sử dụng để khảo sát doanh nghiệp (INBUS)
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
36Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
tại địa phương có thể thấp hơn. Điều đó
giải thích tại sao đóng góp của các DNTN
cho kinh tế và vị trí của địa phương trên
bản đồ PCI lại thấp như vậy.
Trong một nghiên cứu của INBUS
tiến hành ở gần 500 doanh nghiệp khác
tại 8 tỉnh, thành phố, nhu cầu hỗ trợ nâng
cao năng lực của doanh nghiệp là khác
nhau (B.4 và B.5). Các doanh nghiệp
được xếp vào nhóm có năng lực thấp (rất
yếu, yếu, hoặc dưới trung bình) thường
ưu tiên quan tâm đến việc cạnh tranh -
tồn tại, trong khi doanh nghiệp thuộc các
nhóm trung bình và khá quan tâm nhiều
hơn đến việc nâng cao năng lực để cạnh
tranh - phát triển.
Bảng 2: Phổ điểm về năng lực của doanh nghiệp khảo sát
Hình 5. Phân bố điểm năng lực doanh
nghiệp khảo sát
Bảng 3. Phân nhóm doanh nghiệp khảo sát theo năng lực hoạt động, (INBUS, 2017)
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
37Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Năng lực đổi mới của các doanh
nghiệp không giống nhau (B.6, B.7 và
B.8). Ở các doanh nghiệp, nói chung,
chỉ ở mức trung bình. Chỉ có 1/191
doanh nghiệp có năng lực đổi mới thuộc
nhóm “tốt” là không đáng kể. Các doanh
nghiệp Việt Nam thường yếu về năng lực
sáng tạo, đổi mới (innovation), dưới mức
trung bình. Việc triển khai công nghệ
mới ở hầu hết các doanh nghiệp chỉ là áp
dụng (renovation) công nghệ hiện hữu
(B.6). Với những nhóm này, mối quan
tâm hàng đầu là sự sống còn và khả năng
tạo ra lợi nhuận.
Nhóm các doanh nghiệp có năng lực
trung bình quan tâm rất nhiều đến đổi mới
sáng tạo. Nhưng hiệu quả triển khai các
hoạt động này gây trở ngại cho việc tạo
ra sự bứt phá về năng suất. Các doanh
nghiệp có chỉ số đổi mới sáng tạo ở mức
trung bình chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng số
Bảng 4. Nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp ở Hà Nội (INBUS, 2016)
Bảng 5: Nhu cầu đào tạo phân theo nhóm doanh nghiệp (INBUS, 2016)
Bảng 6. Phân loại doanh nghiệp –
Ba nhóm “dưới trung bình”
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
38Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
doanh nghiệp có chỉ số tài chính, hiệu quả
ở mức cao lại không tương xứng (B.7).
Số các doanh nghiệp có năng lực
hoạt động tốt trở lên, có thể trở thành
doanh nghiệp dẫn dắt, tương đối ít (trừ
được đánh giá tốt về tính hiệu quả). Mức
đầu tư cho các hoạt động đổi mới sáng tạo
cũng thấp, số doanh nghiệp có chỉ số này
ở các mức “tốt” và “rất tốt” không đáng
kể: 1/191 (B.8).
Nhận thức và quan điểm của doanh
nghiệp và những người quản lý đóng vai
trò quyết định không kém. Hỗ trợ phát
triển năng lực doanh nghiệp đồng nghĩa
với việc làm thay đổi nhận thức của những
người quản lý để họ dành sự quan tâm và
nguồn lực nhiều hơn cho các hoạt động
đổi mới, sáng tạo. Việc đào tạo, nâng cao
kỹ năng cho người lao động như hiện
nay vẫn cần được tiếp tục. Tuy vậy, việc
điều chỉnh hệ thống tổ chức để tạo môi
trường thuận lợi cho người lao động phát
huy năng lực chỉ được thực thi bởi những
người lãnh đạo am hiểu vấn đề.
Không thể kỳ vọng tất cả các doanh
nghiệp thuộc các khu vực khác nhau hấp
thụ như nhau các chính sách hỗ trợ và các
nguồn lực. Kết quả nghiên cứu cho thấy
những tác động tích cực của năng lực hấp
thụ công nghệ, hấp thụ chính sách đến kết
quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp
(B.9). Những doanh nghiệp hấp thụ công
nghệ mới chính sách mới tốt hơn sẽ có kết
quả kinh doanh tốt hơn. Nhưng điều đó
không khẳng định các chính sách đều tác
động giống nhau tới các doanh nghiệp, mà
phụ thuộc vào năng lực tiếp nhận, chuyển
hóa, vận dụng thành giải pháp kinh doanh
của doanh nghiệp.
3. Một số đề xuất về cách tiếp cận
chiến lược để tạo sức bật cho khu vực
doanh nghiệp tư nhân
a) Ẩn ý về chính sách
Bảng 7. Phân loại doanh nghiệp -
Hai nhóm “trung bình”
Bảng 8: Phân loại doanh nghiệp -
Hai nhóm từ “tốt” trở lên
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
39Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Tác động thể hiện trên hai mặt: tiêu
cực và tích cực. Tác động tiêu cực của
tình trạng năng lực đổi mới sáng tạo kém
ở các doanh nghiệp Việt Nam là khó tìm
được các đối tác quốc tế có năng lực
tương ứng, đáng tin cậy để tham gia
vào chuỗi sản xuất. Tình trạng này đồng
nghĩa với việc các doanh nghiệp nước
ngoài tại Việt Nam phải tự mình gánh
thêm công việc và chống chọi lại với
sự cạnh tranh sống-còn của của doanh
nghiệp nội địa. Sự quan tâm và đầu tư
cho đổi mới sáng tạo của các doanh
nghiệp nội địa còn ít ỏi. Có thể do hạn
chế về vốn, nhưng đáng lo ngại hơn là
sự hạn chế về tầm nhìn, nhận thức đối
với đổi mới, sáng tạo. Hệ quả là sự thờ
ơ, thiếu ủng hộ đối với các hoạt động
đổi mới sáng tạo trong các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu để ứng dụng trong sản xuất
đang được triển khai như một chính sách
lớn của Chính phủ hiện nay.
Bảng 9: Mối liên hệ giữa chỉ số kết quả tài chính (KRI) và chỉ số năng lực hấp thụ,
phân theo nhóm năng lực.
Bảng 10. Mối liên hệ giữa khả năng hấp thụ công nghệ và kết quả thực hiện về
tài chính.
Bảng 11. Mối liên hệ giữa khả năng hấp thụ chính sách và kết quả thực hiện về
tài chính.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
40Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Tuy nhiên, cũng đã hé lộ những khía
cạnh tích cực trong triển khai đổi mới sáng
tạo tại các doanh nghiệp Việt Nam. Ba
mươi năm đổi mới chưa phải là dài đối với
lịch sử phát triển của một nền kinh tế đang
chuyển đổi. Các doanh nghiệp Việt Nam
chủ yếu vẫn đang ở giai đoạn tìm tòi, hỏi
kinh nghiệm. Tuy nhiên, tình trạng học hỏi
đã bước sang thời kỳ có sáng tạo, cải tiến.
Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là một chính
sách chủ đạo đang được triển khai một
cách tích cực, rộng khắp tại các trường đại
học và hệ thống tổ chức của đoàn thanh
niên trong cả nước. Khía cạnh tích cực của
việc ham học hỏi kiến thức và kinh nghiệm
quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam
cũng có thể và cần được khai thác thông
qua mối quan hệ giàu sự tin cậy giữa các
đối tác. Thay vì thiết lập các mối quan hệ
kinh tế truyền thống (hợp đồng), đã hình
thành các mối liên kết mạng lưới, kết nối
thành viên và trợ giúp lẫn nhau cùng phát
triển (partnership).
b) Giải pháp thực tế - kinh nghiệm
của Viện Nghiên cứu và Phát triển
doanh nghiệp
Tuân theo những nguyên tắc nêu
trên, INBUS đã tiến hành những nghiên
cứu trong một vài năm để tìm kiếm và
phát triển mối quan hệ đối tác. Nhật Bản
đã được lựa chọn làm đối tác đầu tiên để
thiết lập mối liên hệ kết nối giữa doanh
nghiệp hai nước và kinh nghiệm của các
doanh nghiệp Nhật Bản là các bài học có
giá trị trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực kế cận cho các doanh nghiệp
Việt Nam đang được INBUS theo đuổi.
Học tập kinh nghiệm một cách sáng
tạo phải có nguồn nhân lực phù hợp. Vì
vậy, đào tạo nhân lực cần được tiến hành
sớm hơn. Trong những năm qua, INBUS
đã bước đầu thiết lập các mối liên hệ với
cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt
Nam và Nhật Bản để sử dụng cơ sở vật
chất và công nghệ của họ cho sinh viên,
học sinh rèn luyện, thực hành, trước hết
là ý thức kỷ luật và sự chăm chỉ. Chúng
tôi bước đầu thành công trong việc thuyết
phục một số cơ sở đại học và giáo dục
phổ thông thay đổi cách tiếp cận và tận
dụng những cơ hội chúng tôi mở ra. Hai
năm nay, Khoa Điện - Điện tử của Trường
Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà
Nội đã đưa việc thực hành trải nghiệm
vào chương trình đào tạo chính thức hàng
năm cho sinh viên. Một số thỏa thuận hợp
tác giữa INBUS với các trường đại học,
trường nghề, trường phổ thông, Hiệp hội
Doanh nghiệp Nhật Bản về đào tạo hướng
nghiệp liên thông và sử dụng nguồn nhân
lực đã được ký kết.
Nhằm hỗ trợ kết nối doanh nghiệp
Việt Nam với cộng đồng quốc tế, INBUS
đã sử dụng Bộ chỉ số BCI xây dựng cuốn
cẩm nang danh bạ về năng lực doanh
nghiệp theo ngành, lĩnh vực của tỉnh Hưng
Yên. Một chương trình đào tạo doanh
nhân tương lai thông qua mô hình ươm
tạo doanh nhân, doanh nghiệp tại Nhật
Bản cũng được cam kết giữa INBUS,
Báo Diễn đàn doanh nghiệp (VCCI) với
Đại diện Cộng đồng doanh nghiệp Nhật
Bản và bắt đầu triển khai. Chương trình
nhằm tạo cơ hội cho những người trẻ
tuổi Việt Nam mong muốn lập nghiệp có
thể tiếp cận và tiếp nhận những mô hình
kinh doanh nhỏ của Nhật Bản cùng kinh
nghiệm của họ. Những chương trình trên
chỉ mới được khởi xướng khoảng hai năm,
nhưng triển vọng rất sáng sủa, vì phù hợp
với xu thế và chủ trương chính sách của
Chính phủ./
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
41Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
Tài liệu tham khảo
1. Kỷ yếu hội thảo Thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW: tiếp tục hoàn thiện môi
trường phát triển kinh tế tư nhân, VCCI, 10th. July 2018.
2. INBUS (2013-2018). Business Indexing – Corporate Financial Capacity.
Annual reports, Hanoi.
3. INBUS (2016). Business Capacity Survey 2016 Report. Internal publication
use, Hanoi.
4. INBUS (2017). Research for the development of the handbook of business
capacity to the improvement of the PCI of Hung Yen province. Project Report,
Department of Planning and Investment of Hung Yen.
5. INBUS (2018). The Handbook of industrial business capacity of Hung Yen
province. Department of Planning and Investment of Hung Yen, Hung Yen.
6. Ishijima, Maeda (2015-2017). Credibility Index for SMEs (Small and Medium
Enterprises), JAIF project, ASSEAN.
7. Parmenter (2007). Key Performance Indicators – Developing, Implementing,
and Using the Winning KPIs. John Wiley & Sons, Inc., New Jersey.
8. Schwab, WEF (2017). The Global Competitiveness Report 2017–2018. World
Economic Forum, Geneva.
9. VCCI (2018). Proceedings of workshop Implementing Resolution 10-NQ/TW:
Continue to improve the environment of private economic development. VCCI, 10th.
July 2018.
Ngày nhận bài: 07/6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_luc_sang_tao_tai_doanh_nghiep_viet_nam_va_phat_trien_ng.pdf