Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số

Khuyến nghị với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần có chiến lược nâng cao NSLĐ dựa vào tri thức và công nghệ, tập trung vào nâng cao năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động sản xuất và quản trị để nâng cao hiệu quả và năng suất của doanh nghiệp. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần lựa chọn quy mô phù hợp, phát triển những sản phẩm mới có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo, đổi mới tư duy để nâng cao khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ, ứng dụng các công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới, tham gia vào các hạt động nghiên cứu và phát triển. Đồng thời, doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động của doanh nghiệp, tập trung đào tạo kỹ năng cho người lao động; tổ chức lại lao động, trong đó chú trọng kết hợp hiệu quả giữa lao động và người máy theo từng công đoạn sản xuất, giúp tăng NSLĐ.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ SỐ LABOR PRODUCTIVITY OF VIETNAM IN THE CONTEXT OF DIGITAL ECONOMY Đỗ Thị Nga, Hoàng Khánh Lam* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/5/2020 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/11/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/11/2020 Tóm tắt: Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và nền kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ tạo ra là cơ hội để Việt Nam phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, Việt Nam cần có định hướng phát triển đúng và giải pháp hiệu quả để không bị tụt lại phía sau so với các quốc gia khác. Một trong những điểm nhấn căn bản để thúc đẩy sự phát triển, chính là cải thiện năng suất lao động (NSLĐ). Bài viết phân tích thực trạng NSLD của Việt Nam thời gian qua, làm cơ sở để đưa ra các giải pháp nâng cao NSLĐ trong bối cảnh nền kinh tế số. Từ khóa: Năng suất lao động, kinh tế số, cải thiện, thực trạng, Việt Nam. Abstract: In the current context, the industrial revolution 4.0 with the strong development of the digital economy is creating opportunities to develop Vietnam’s economy, but at the same time it poses many diffi culties and challenges. Therefore, Vietnam needs to have the right development orientation and eff ective solutions in order not to be left behind compared to other countries. One of the key points to promote development is to improve labor productivity. This article analyzes the current state of labor productivity in Vietnam, serving as a basis for solutions to improve labor productivity in the context of a digital economy. Keywords: Labor productivity, digital economy, improvement, situation, Vietnam. * Học viện Chính trị khu vực I 1. Một số vấn đề lý luận về năng suất lao động và kinh tế số Năng suất lao động Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh gia hay đo lường trình độ và năng lực hoạt động sản xuất và kinh doanh của mỗi quốc gia từ những nguồn lực và lợi thế sẵn có. Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thì “năng suất lao động là hiệu quả của lao động trong việc kết hợp sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra giá trị gia tăng trong một khoảng thời Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 73 (11/2020) 42-47 43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion gian nhất định”. Như vậy, năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hiệu suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, được đo bằng số sản phẩm hay lượng giá trị tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. NSLĐ thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất; là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Ở Việt Nam, theo Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia , NSLĐ phản ánh hiệu suất làm việc của lao động, được đo bằng GDP tính bình quân một lao động trong thời kỳ tham chiếu, thường là một năm. Kinh tế số Theo định nghĩa chung của nhóm cộng tác Kinh tế số của Oxford thì kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet”. Kinh tế số hiện diện trên tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,...) mà công nghệ số được áp dụng. Kinh tế số bao gồm các hiện tượng mới nổi như công nghệ blockchain, nền tảng số, phương tiện truyền thông xã hội, doanh nghiệp điện tử (ví dụ như thương mại điện tử, các ngành truyền thống như sản xuất hoặc nông nghiệp có sử dụng công nghệ số hỗ trợ); các doanh nghiệp liên quan đến phát triển phần mềm, ứng dụng, phát triển nội dung số và truyền thông, các dịch vụ và đào tạo liên quan, cùng với các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất và phát triển thiết bị công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông. Tác động của kinh tế số đến năng suất lao động Năng suất lao động thấp là yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ và tính bền vững. Thúc đẩy tăng trưởng năng suất lao động hiện đang là mục tiêu quan trọng được Việt Nam chú trọng. Trong bối cảnh những động lực tăng trưởng hiện có đang trở nên dần cạn kiệt và thiếu hiệu quả, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để cải thiện mạnh mẽ năng suất lao động tổng thể của nền kinh tế. Trước hết, kinh tế số sẽ tác động sâu sắc đến mô hình tổ chức và cách thức vận hành của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp cần phải đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ sản xuất đến phân phối và lưu thông hàng hóa cho đến các hạ tầng hỗ trợ như giao thông vận tải, logistics, tài chính, ngân hàng,... mà trong đó công nghệ số được ứng dụng. Công nghệ số cho phép các công ty đổi mới, ví dụ bằng cách cải thiện quy trình kinh doanh và tự động hóa một số nhiệm vụ thường xuyên; giảm chi phí tương tác với nhà cung cấp và khách hàng. Tự động hóa, số hóa sẽ dần thay thế nhiều khâu trong quy trình sản xuất, góp phần giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, tăng lợi nhuận và sử dụng ít lao động hơn. Kinh tế số không chỉ tác động đến doanh nghiệp mà còn tác động đến cả nền kinh tế. Công nghệ số có khả năng ứng dụng ở hầu hết các ngành kinh tế, có thể tạo nên những thay đổi lớn về phương thức sản xuất và năng suất lao động trong các ngành kinh tế, thậm chí thay đổi cả cơ cấu ngành và kinh tế ngành. Một số ngành có thể sớm 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tận dụng lợi thế của công nghệ số để tạo nên thay đổi lớn về sản lượng, năng suất như: công nghiệp chế biến chế tạo, vận tải - logistic, tài chính - ngân hàng, y tế, giáo dục, nông nghiệp công nghệ cao. Từ 2018, một số công nghệ như rô-bốt tiên tiến, vận tải tự động, trí tuệ nhân tạo, và một số công nghệ khác đã được đưa vào sử dụng ở quy mô công nghiệp và dự kiến sẽ có những thay đổi đột phá về việc làm. Kinh tế số trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 sẽ thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nhiều nước, lao động sáng tạo sẽ ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội. Theo dự báo của nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế quốc dân, giai đoạn 2020 - 2030, trung bình mỗi năm, chỉ riêng kinh tế số đóng góp từ 7 - 16,5% trong tốc độ tăng trưởng NSLĐ tổng thể. 2. Thực trạng năng suất lao động của Việt Nam Thời gian qua, NSLĐ của Việt Nam tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Đơn vị: triệu đồng 0 20 40 60 80 100 120 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Hình 1: Năng suất lao động tính theo giá thực tế của Việt Nam giai đoạn 2013 – 2018 Nguồn: Tổng hợp số liệu theo Báo cáo tình hình kinh tế của Tổng cục Thống kê Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động của Việt Nam tính theo giá hiện hành năm 2019 ước đạt 110,4 triệu đồng/lao động (tương đương 4.791 USD/lao động, tăng 272 USD so với năm 2018). Nếu tính theo giá so sánh 2010, trong giai đoạn 2010 - 2019, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam đã tăng xấp xỉ 1,6 lần từ mức 38,47 triệu đồng/lao động năm 2010 lên mức 60,68 triệu đồng/lao động năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016 – 2019, NSLĐ tăng với tốc độ 5,93%/năm, cao hơn so với mức bình quân 4,61%/năm trong thời kỳ 2011-2015. Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là khoảng cách chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Chẳng hạn, NSLĐ của Việt Nam năm 2019 chỉ bằng khoảng 1/5 Malaysia; so với Thái Lan và Trung Quốc bằng khoảng 1/3, so với Indonesia bằng khoảng 1/2, và gần bằng một nửa NSLĐ trung bình của khối ASEAN. Điều này cho thấy nền kinh 45Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước. Năng suất lao động theo ngành Năng suất lao động trong khu vực nông, lâm, thủy sản là thấp nhất. Đến năm 2018, theo giá hiện hành, NSLĐ khu vực này chỉ đạt 39,8 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế. Năm 2018, NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng theo giá hiện hành đạt 131 triệu đồng/lao động; khu vực dịch vụ đạt 118,1 triệu đồng/lao động. Tuy nhiên, trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đây là khu vực có tốc độ tăng NSLĐ bình quân cao nhất với 5,2%/năm giai đoạn 2011- 2018, cao hơn tốc độ tăng bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng (3%/ năm) và khu vực dịch vụ (3,1%/năm), do đó, khoảng cách về NSLĐ giữa khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản với hai khu vực còn lại ngày càng được thu hẹp. Năng suất lao động theo các khu vực kinh tế Năm 2018, NSLĐ của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 225,12 triệu đồng/lao động gấp khoảng 1,3 lần khu vực nhà nước và gấp 6,9 lần khu vực ngoài nhà nước; khu vực kinh tế nhà nước là 175,37 triệu đồng/lao động. Khu vực kinh tế tư nhân có mức NSLĐ đạt 44,58 triệu đồng/lao động, thấp hơn khu vực kinh tế tập thể, khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế FDI, nhưng cao hơn so với khu vực kinh tế cá thể và mức NSLĐ tổng thể nền kinh tế. Dù được coi là động lực quan trọng của nền kinh tế nhưng khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên gặp hạn chế trong việc nâng cao NSLĐ, do khó tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, tiếp cận tín dụng, thiếu lao động có kỹ năng, khó tham gia chuỗi giá trị do các doanh nghiệp FDI dẫn dắt NSLĐ theo giờ làm việc khá thấp so với một số nước ASEAN NSLĐ trên mỗi giờ làm việc của Việt Nam năm 2018 theo giá hiện hành đạt 43,4 nghìn đồng, cao hơn 3,5 nghìn đồng so với năm 2017. Theo giá so sánh, năm 2018 NSLĐ theo giờ tăng 5,3% so với năm trước (thấp hơn mức tăng 6% của NSLĐ tính theo lao động), bình quân giai đoạn 2011-2018 tăng 4,8% (bình quân tốc độ tăng NSLĐ tính theo lao động giai đoạn này là 4,9%). Tính theo PPP 2011, NSLĐ mỗi giờ làm việc của Việt Nam đạt khá thấp so với một số nước trong khu vực ASEAN, năm 2015 chỉ đạt 4,4 USD, trong khi đó Malaysia đạt 24,9 USD; Thái Lan đạt 12,1 USD; Indonesia đạt 12 USD; Philippines đạt 8,4 USD. Riêng Singapore đạt mức NSLĐ theo giờ rất cao với 54,9 USD nhưng do số giờ làm việc trung bình mỗi tuần của một lao động ở Singapore cao hơn ở Việt Nam nên khoảng cách giữa năng suất tính theo mỗi giờ làm việc giữa Singapore và Việt Nam (12,5 lần) đã giảm so với khoảng cách 13,7 lần khi tính theo năng suất trên mỗi lao động. 46 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Hình 2: Năng suất lao động mỗi giờ làm việc của một số nước trong ASEAN năm 2018 (USD) (Nguồn: Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo năng suất lao động Việt Nam) 3. Một số đề xuất nhằm nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP, NSLĐ tăng bình quân trên 7%/năm. Đến năm 2030 NSLĐ tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Để đạt được mục tiêu đó, cần chú trọng một số giải pháp sau: Thứ nhất, cải thiện môi trường kinh doanh. Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần xác định việc tạo lập và thực thi chính sách nhằm nâng cao NSLĐ là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thúc đẩy năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Thứ hai, đổi mới sáng tạo để tăng năng suất lao động. Việt Nam phải ưu tiên tăng NSLĐ dựa trên nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ và khuyến khích các mô hình kinh tế mới trên nền tảng cuộc cách mạng 4.0, điển hình như: Kinh tế chia sẻ; Các nền tảng kết nối cung cầu; Nền tảng kỹ thuật số phục vụ thương mại điện tử; Các nền tảng phục vụ thanh toánCác mô hình kinh tế mới giúp tận dụng tối đa thời gian làm việc của người lao động. Sự bùng nổ của nền kinh tế chia sẻ có ảnh hưởng lớn đến thị trường thị trường, giúp tạo ra công việc có thu nhập dành cho những người đang trong chế độ nhàn rỗi. Do đó, cần khuyến khích các thử nghiệm thể chế để mở đường cho các ngành kinh tế mới, các mô hình kinh doanh mới sáng tạo để giải phóng NSLĐ của Việt Nam. Thứ ba, phát triển kinh tế số. Chính phủ cần phải có một bản chiến lược khung để làm nền tảng cho các định hướng và hành lang pháp lý, thể chế cho việc chuyển đổi số. Mục tiêu mà Việt Nam hướng tới là kịch bản chuyển đổi, có nghĩa là đồng bộ số hóa ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và phải bắt đầu từ hoạt động quản trị nhà nước. Để có thể có một nền 47Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion kinh tế chuyển đổi số đồng bộ, Nhà nước cần đầu tư và huy động nguồn lực để hình thành và phát triển hạ tầng và dịch vụ số rộng khắp. Nhìn dài hạn hơn, chuyển đổi số phải xuất phát từ sự đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo, bao gồm đổi mới cách thức quản lý, phương pháp giảng dạy, chương trình học gắn với các yếu tố của nền kinh tế số. Đồng thời, cần đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên và giảng viên những kỹ năng mới theo yêu cầu của chương trình học. Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động. Đối với các nước đang phát triển, việc chuyển dịch cơ cấu lao động đóng vai trò quan trọng trong việc tăng NSLĐ của quốc gia. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động thời gian qua còn chậm. Do đó, cần chuyển dịch cơ cấu lao động, từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, cần phải đặt ra ở cả nội tại mỗi ngành, theo hướng lao động giản đơn dần được thay thế bởi lao động có trình độ, kỹ thuật. Muốn làm được điều này, bên cạnh vai trò định hướng, hỗ trợ từ Nhà nước, bản thân người lao động cần phải ý thức tự trang bị kiến thức, hành trang cần thiết để thích ứng với môi trường làm việc mới. Việc này mang lại lợi ích cho chính người lao động, nhưng đồng thời thúc đẩy hình thành một thị trường lao động cạnh tranh. Khuyến nghị với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần có chiến lược nâng cao NSLĐ dựa vào tri thức và công nghệ, tập trung vào nâng cao năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động sản xuất và quản trị để nâng cao hiệu quả và năng suất của doanh nghiệp. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần lựa chọn quy mô phù hợp, phát triển những sản phẩm mới có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo, đổi mới tư duy để nâng cao khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ, ứng dụng các công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới, tham gia vào các hạt động nghiên cứu và phát triển. Đồng thời, doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động của doanh nghiệp, tập trung đào tạo kỹ năng cho người lao động; tổ chức lại lao động, trong đó chú trọng kết hợp hiệu quả giữa lao động và người máy theo từng công đoạn sản xuất, giúp tăng NSLĐ. Tài liệu tham khảo: [1]. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [2]. OECD (2001), Measuring productivity- measurment of aggriate and industry level productivity growth, OECD Manual, Tr14. [3]. Think Tank Vinasa, Việt Nam thời chuyển đổi số, Nxb Thế giới, 2019, tr. 172 [4]. Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (2019), Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2019, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. [5]. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo năng suất lao động Việt Nam. [6]. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm các năm từ 2009 – 2019. Địa chỉ tác giả: Học viện Chính trị khu vực I Email: donga.neu@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnang_suat_lao_dong_cua_viet_nam_trong_boi_canh_kinh_te_so.pdf
Tài liệu liên quan