4.1. Ảnh hưởng của giống và lứa đẻ đến năng
suất sinh sản của nái L và Y
Ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất
sinh sản của lợn nái L và Y nguồn gốc Đan
Mạch trong nghiên cứu này tương tự với công
bố của Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn
(2010); Nguyễn Ngọc Thanh Yên và ctv (2018);
Trịnh Hồng Sơn và ctv (2019a,b){Nguyễn Văn
Thắng, 2010 #1658} đều cho thấy, yếu tố lứa đẻ
có ảnh hưởng rất rõ rệt (P<0,001) đến các chỉ
tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái, KLCS/
con, KLCS/con, mùa vụ ảnh hưởng đến KLCS/
con (P<0,001). Kết quả công bố của Nguyễn Văn
Thắng và Đặng Vũ Bình (2006) cũng chỉ ra rằng
lứa đẻ có ảnh hưởng rõ rệt đến tất cả các chỉ
tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái và mùa
vụ ảnh hưởng đến KLCS/con. Kết quả công bố
của Šprysl và ctv (2012) cho thấy, lứa đẻ có ảnh
hưởng rất rõ rệt đến SCSS (P<0,0001), mùa vụ
không có ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của
lợn nái (P>0,05). Như vậy, kết quả đánh giá mức
độ ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh
sản của lợn nái L và Y ở nghiên cứu này phù hợp
với các kết quả nghiên cứu đã công bố.
4.2. Năng suất sinh sản của lợn nái L và Y
Năng suất sinh sản của nái L và Y nguồn
gốc Đan Mạch trong nghiên cứu này thấp hơn
so với kết quả công bố của Đoàn Văn Soạn và
Đặng Vũ Bình (2011); Nguyễn Ngọc Thanh Yên
và ctv (2018) khi nghiên cứu trên lợn nái cùng
loại, ngoại trừ chỉ tiêu KLSS/con (1,49 và 1,46kg)
cao hơn. Tuy nhiên, năng suất sinh sản của lợn
nái L và Y trong nghiên cứu này cao hơn kết
quả công bố của Đặng Vũ Bình và ctv (2005).
Nghiên cứu trên đàn lợn nái Y và L tại một số
tỉnh Miền Bắc, Đặng Vũ Bình (2003) cho biết,
năng suất sinh sản của lợn nái L và Y không có
sự khác biệt. Khi nghiên cứu trên đàn lợn nái
thuần L và Y được nuôi tại Thái Lan, Tummaruk
và ctv (2002) cho biết lợn nái L có SCSS (9,7 con),
SCSSS (8,9 con), SCCS (7,6 con) cao hơn so với
nái Y (9,1; 8,4 và 6,8 con). Kết quả công bố của Su
và ctv (2007) cho thấy, nái L được nuôi tại Đan
Mạch có SCSS (14,23 con), SCSSS (11,61 con) và
SC21 ngày tuổi (9,76 con) cao hơn so với nái Y
(13,01; 11,49 và 9,59 con). Kết quả công bố của
Đặng Vũ Bình (2003) về SCCS của lợn nái Y và
L được nuôi tại một số cơ sở giống ở Hưng Yên,
Hà Nội và Thanh Hóa với các giá trị lần lượt
8,25 và 8,29 con. Như vậy, kết quả nghiên cứu
này có xu hướng cao hơn so với kết quả công bố
của Đặng Vũ Bình (2003); Su và ctv (2007). Kết
quả công bố của Phan Xuân Hảo (2006) cho biết,
SCSS/ổ của nái L và Y tương ứng là 10,9 và 10,9
con. Theo Lê Đình Phùng và ctv (2011), SCSS của
nái L và Y tương ứng là 11,47 và 10,64 con. Đoàn
Phương Thuý và ctv (2015) công bố SCSS của nái
L và Y là 11,2 và 11,91 con. Kết quả công bố của
Nguyễn Văn Đức và ctv (2010) cho biết, SCSSS
của lợn nái L và Y tương ứng là 10,63 và 10,14
con. Kết quả công bố của Đoàn Phương Thuý và
ctv (2015) cho thấy, SCSSS của lợn nái L và Y là
10,48 và 10,85 con.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng suất sinh sản lợn nái Landrace và Yorkshire nguồn gốc đan mạch tại trung tâm giống vật nuôi chất lượng cao - Học viện Nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 13
Phượng và ctv (2019) về NST của gà Nòi Nam Bộ
sau 3 TH chọn lọc chỉ tăng 5,62% so với THXP.
Tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở ở tuần tuổi 32-38 cho
thấy giữa các TH không có sự biến động lớn:
90,76-92,55% và 88,11-90,66%. Kết quả này thấp
hơn kết quả công bố của Vũ Ngọc Sơn và ctv
(2015) với tỷ lệ phôi đạt 93,3%, nhưng cao hơn
về tỷ lệ nở/trứng ấp (81,6%).
4. KẾT LUẬN
Đã ổn định đặc điểm ngoại hình đặc trưng
của gà Lạc Thủy (LT1 và LT2): Lúc 01 ngày tuổi
có màu trắng ngà. Khi trưởng thành gà LT1 và
LT2 không có sự khác biệt về màu lông, gà trống
có màu mận chín, gà mái chủ yếu có màu lá
chuối khô. Mào cờ đơn, da và chân màu vàng.
Khối lượng cơ thể gà LT1 lúc 8 tuần tuổi ở
TH3 gà trống đạt 855,03g và gà mái đạt 704,06g,
tăng tương đương 21,06 và 15,53% so với THXP.
Năng suất trứng đến 38 tuần tuổi của gà
LT2 ở TH3 đạt 63,34 quả, tăng 9,51 quả, tương
đương 17,67% so với THXP.
Các chỉ tiêu khác như: tỷ lệ nuôi sống, tiêu
tốn thức ăn, khối lượng cơ thể gà LT2, năng suất
trứng gà LT1 và các chỉ tiêu ấp nở đều ổn định,
đảm bảo đặc trưng của giống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Công Định, Vũ Chí Thiện,
Phạm Thị Bích Hường, Nguyễn Thị Minh Thu, Trần
Trung Thông, Hồ Xuân Tùng, Nguyễn Trọng Tuyển,
Phạm Công Thiếu và Nguyễn Thanh Sơn (2016).
Nghiên cứu chọn lọc giống gà Móng. Báo cáo Khoa học
Viện Chăn nuôi 2013-2015. Phần Di truyền – Giống vật
nuôi. Trang: 118-28.
2. Đỗ Thị Kim Dung (2014). Nghiên cứu một số đặc điểm
ngoại hình và khả năng sinh sản của gà địa phương
Lạc Thủy – Hòa Bình. Luận văn Thạc sỹ nông nghiệp.
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
3. Bùi Hữu Đoàn, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thanh
Sơn, Nguyễn Huy Đạt (2011). Các chỉ tiêu dùng trong
nghiên cứu chăn nuôi gia cầm, Nhà xuất bản Nông
Nghiệp.
4. Trần Đức Hoàn, Nguyễn Đình Nguyên và Nguyễn
Thị Thu Huyền (2018). Khả năng sinh trưởng và sức
sản xuất thịt của gà Lạc Thủy nuôi tại Bắc Giang, Tạp
chí KHCN Chăn nuôi, 84(2.2018): 27-41.
5. Đồng Sỹ Hùng, Bùi Thị Phượng, Phạm Ngọc Thảo,
Nguyễn Thị Lệ Hằng, Nguyễn Thanh Nghị và Phạm
Đình Phùng (2019). Chọn lọc nâng cao năng suất giống
gà Ri Ninh Hòa qua các thế hệ, Tạp chí KHCN Chăn
nuôi, 98(4.2019): 20-32.
6. Bùi Thị Phượng, Đồng Sỹ Hùng, Nguyễn Thị Lệ Hằng
và Nguyễn Thị Hiệp (2019). Chọn lọc nâng cao năng
suất giống gà Nòi Nam Bộ qua 3 thế hệ. Tạp chí KHKT
Chăn nuôi, 245(06.19): 8-12.
7. Vũ Ngọc Sơn, Trần Quốc Hùng, Nguyễn Thị Hải
và Nguyễn Văn Tám (2015). Kết quả bảo tồn gà Lạc
Thủy tại Viện Chăn Nuôi. Tạp chí KHCN Chăn nuôi,
53(4.2015): 25-36.
8. Hoàng Tuấn Thành (2017). Chọn lọc nâng cao năng
suất trứng dòng gà lông màu LV5, Tạp chí KHCN Chăn
nuôi, 77(7.2017): 7-17.
9. Phạm Công Thiếu, Nguyễn Quyết Thắng, Phạm Hải
Ninh, Hồ Xuân Tùng, Trần Văn Phượng, Trần Thị
Hiền, Nguyễn Thị thu Hiền, Ma Thị Dược, Phạm
Hồng Bé và Lê Thị Bình (2018), Chọn lọc đàn hạt nhân
gà Tò, Tạp chí KHCN Chăn nuôi, 85(3.2018): 46-54.
10. Nguyễn Hoàng Thịnh và và Nguyễn Thị Châu Giang
(2020). Đặc điểm ngoại hình, khả năng sản xuất và chất
lượng thịt của gà Lạc Thủy nuôi trong nông hộ. Tạp chí
KHKT Chăn nuôi, 256(04.20): 8-13.
11. Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuyết Giang, Huỳnh
Thị Phương Loan,, Nguyễn Thị Ngọc Linh và Đỗ Võ
Anh Khoa (2020). Khối lượng và một số chiều đo cơ thể
của gà Nhạn Chân Xanh nuôi thả vườn. Tạp chí KHKT
Chăn nuôi, 257(06.20): 7-13.
NĂNG SUẤT SINH SẢN LỢN NÁI LANDRACE VÀ YORKSHIRE
NGUỒN GỐC ĐAN MẠCH TẠI TRUNG TÂM GIỐNG VẬT NUÔI
CHẤT LƯỢNG CAO - HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Hà Xuân Bộ1* và Đỗ Đức Lực1
Ngày nhận bài báo: 24/07/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 15/08/2020
Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 31/08/2020
TÓM TẮT
1 Học viện Nông nghiệp Việt Nam
* Tác giả liên hệ: TS. Hà Xuân Bộ, Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, ĐT: 0936595883; Email: hxbo@vnua.
edu.vn
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202014
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn ở nước ta chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong cơ cấu ngành chăn nuôi. Chăn
nuôi lợn cung cấp trên 70% lượng thực phẩm
chủ yếu cho xã hội, đáp ứng nhu cầu đời sống
của con người ngày càng cao. Trong những năm
vừa qua, việc nhập các giống lợn ngoại có tầm
vóc, sinh trưởng nhanh, sinh sản tốt, có tỷ lệ nạc
cao đã trở thành khâu quan trọng trong công
tác giống lợn. Việc nghiên cứu khả năng thích
nghi và khả năng sản xuất các giống lợn ngoại
đã được nhiều tác giả tiến hành và có những kết
luận phù hợp với thực tế nhằm thúc đẩy chăn
nuôi lợn phát triển.
Từ năm 2016, Trung tâm giống vật nuôi chất
lượng cao - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã
nhập đàn lợn Landrace (L) và Yorkshire (Y) từ
Đan Mạch phục vụ cho chương trình nhân giống
nhằm cung cấp cho thị trường những con giống
có chất lượng tốt. Việc nhập những giống lợn
với những ưu điểm vượt trội như vậy nhằm đẩy
nhanh tiến bộ di truyền quần thể và giúp nâng
cao chất lượng giống lợn ở Việt Nam.
Đàn lợn L và Y nguồn gốc Đan Mạch được
nhập về Trung tâm, nên việc đánh giá tính năng
sản xuất nói chung cũng như khả năng sinh sản
của chúng nuôi trong điều kiện khí hậu của Việt
Nam là cần thiết. Nghiên cứu về năng suất sinh
sản của lợn L và Y nguồn gốc Đan Mạch đã được
đề cập trong kết quả công bố của Nguyễn Ngọc
Thanh Yên và ctv (2018). Các nghiên cứu về
năng suất sinh sản của lợn L và Y với các nguồn
gốc như Pháp, Mỹ đã được đề cập trong kết quả
công bố của Trịnh Hồng Sơn và ctv (2019a,b);
Nguyễn Thị Hồng Nhung ctv (2020). Theo hiểu
biết của chúng tôi, các công trình công bố về
năng suất sinh sản của lợn nái L và Y nguồn gốc
Đan Mạch tại Việt Nam còn khá hạn chế. Nghiên
cứu này nhằm đánh giá về năng suất sinh sản
của nái L và Y trong điều kiện chuồng kín.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Số liệu được thu thập trên cơ sở dữ liệu
giống của Trung tâm giống vật nuôi chất lượng
cao - Học viện Nông nghiệp Việt Nam từ tháng
7/2017 đến tháng 2/2018. Năng suất sinh sản
được theo dõi trên tổng số 29 nái, bao gồm 15
nái L với 35 ổ đẻ và 14 nái Y với 34 ổ đẻ.
Lợn nái L và Y được nuôi trong chuồng kín
với thức ăn công nghiệp có thành phần dinh
dưỡng và khẩu phần ăn như ở bảng 1.
Nghiên cứu được tiến hành tại Trung tâm giống vật nuôi chất lượng cao - Học viện Nông
nghiệp Việt Nam từ tháng 7/2017 đến tháng 2/2018 nhằm đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái
Landrace (L) và Yorkshire (Y) nguồn gốc Đan Mạch. Năng suất sinh sản được theo dõi trên tổng
số 29 nái (15 L và 14 Y). Kết quả cho thấy, lợn nái Y có các chỉ tiêu về số con sơ sinh/ổ (14,47 con),
số con sơ sinh sống/ổ (13,32 con) và số con cai sữa/ổ (10,65 con) cao hơn (P>0,05) so với lợn nái L
(14,09; 12,03 và 10,29 con). Tỷ lệ sơ sinh sống của lợn nái Y nguồn gốc Đan Mạch (92,07%) cao hơn
so với lợn nái L (84,57%), nhưng khối lượng sơ sinh/con có xu hướng ngược lại (P<0,05). Việc sử
dụng lợn nái Y nguồn gốc Đan Mạch có thể cải thiện được tỷ lệ sơ sinh sống và lợn nái L nguồn gốc
Đan Mạch có thể cải thiện được khối lượng sơ sinh/con.
Từ khóa: Đan Mạch, lợn, nái Landrace, nái Yorkshire, năng suất sinh sản.
ABSTRACT
Reproductive performance of Landrace, Yorkshire Danish original sows raised at Hight
quality Animal Breeding Center, Vietnam National University of Agriculture
This study was carried out at Hight Quality Animal Breeding Center - Vietnam National
University of Agriculture to evaluate reproductive performance of Landrace (L) and Yorkshire (Y)
Danish original sows. The reproductive performance of 29 sows, including 15 L and 14 Y Danish
original sows were collected from July 2017 to February 2018. Results showed that total number
born (14.47 piglets), number born alive (13.32 piglets), number alive to weaning (10.65 piglets) of Y
sows were higher (P>0.05) than those of L sows (14.09, 12.03 and 10.29 piglets). Survival rate at birth
(92.07%) of Y sows was higher than this of L sows (84.57%), except birth weight (P<0.05). Survival rate
at birth could be improved by using Y sows and birth weight could be improved by using L sows.
Keywords: Denmark, pigs, Landrace sows, Yorkshire sows, reproductive performance.
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 15
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng và KP ăn
Lợn nái
CP
(%)
ME
(kcal/
kg)
P
(%)
Ca
(%)
KP
(kg/
ngày)
Chửa kỳ I 13,0 2.900 0,3-1,6 0,6-1,6 1,8-2,0
Chửa kỳ II 15,5 3.000 0,3-1,6 0,6-1,6 2,2-2,8
Nuôi con 15,5 3.000 0,3-1,6 0,6-1,6 5,0-5,5
Chờ phối 15,5 3.000 0,3-1,6 0,6-1,6 2,2-2,8
Lợn cái hậu bị được phối giống lần đầu ở
8,5-9 tháng tuổi với khối lượng (KL) 110-120kg,
phối kép 2-3 lần bằng thụ tinh nhân tạo. Năng
suất sinh sản được tính thông qua các chỉ tiêu:
số con sơ sinh/ổ (SCSS), số con sơ sinh sống/ổ
(SCSSS), số con cai sữa/ổ (SCCS), tỷ lệ sơ sinh
sống (TLSSS), tỷ lệ sống đến cai sữa (TLCS), khối
lượng sơ sinh/con (KLSS/con), KLSS/ổ, KLCS/
con, KLCS/ổ, khoảng cách lứa đẻ (KCLĐ) và các
chỉ tiêu về tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lứa
đầu cũng được tham khảo. Lợn con được xăm
số tai và cân lúc SS và CS ở 28 ngày tuổi. Các
chỉ tiêu SCSS, SCSSS, SCCS được xác định bằng
cách đếm tại các thời điểm tương ứng; KLSS/con,
KLCS/con được cân từng con bằng cân đồng hồ
và KLSS/ổ, KLCS/ổ là tổng KL toàn ổ tại các thời
điểm SS và CS. Tỷ lệ SSS = (SCSSS/SCSS) x 100;
tỷ lệ sống đến CS = (SCCS/SCSSS) x 100.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SAS 9.1
(2002). Sử dụng thủ tục GLM SAS 9.1 (2002) để
phân tích các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình
thống kê: yijk = µ + Si + Lj + Si*Lj + εijk. Trong đó,
yijk: chỉ tiêu năng suất sinh sản; µ: trung bình quần
thể; Si: ảnh hưởng của giống thứ i
th (i=2: Landrace và
Yorkshire); Lj: ảnh hưởng của lứa đẻ thứ j
th (j= 2: 1 và
2); Si*Lj: ảnh hưởng tương tác giữa giống và lứa đẻ;
εijk: sai số ngẫu nhiên. Ước tính giá trị trung bình
bình phương nhỏ nhất (LSM), sai số chuẩn (SE);
so sánh sự sai khác giữa các giá trị trung bình
bằng phép thử Tukey.
3. KẾT QUẢ
3.1. Ảnh hưởng của giống và lứa đẻ đến năng
suất sinh sản của lợn nái L và Y
Giống không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu
về năng suất sinh sản của lợn L và Y nguồn gốc
Đan Mạch (P>0,05), ngoại trừ chỉ tiêu TLSSS,
KLSS/con (P<0,05). Lứa đẻ không ảnh hưởng
đến các chỉ tiêu về năng suất sinh sản của lợn
L và Y (P>0,05), ngoại trừ KLSS/con (P<0,001),
TL sống đến CS và KLCS/ổ (P<0,05). Tương tác
giữa giống và lứa đẻ không ảnh hưởng đến các
chỉ tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái L và
Y (P>0,05), ngoại trừ chỉ tiêu KLSS/con (P<0,01).
Bảng 2. Yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản
Chỉ tiêu Giống Lứa đẻ Giống*Lứa
SCSS (con) ns ns ns
SCSSS (con) ns ns ns
SCCS (con) ns ns ns
TLSSS (%) * ns ns
TLCS (%) ns * ns
KLSS/con (kg) * *** **
KLSS/ổ (kg) ns ns ns
KLCS/con (kg) ns ns ns
KLCS/ổ (kg) ns * ns
KCLĐ (ngày) ns - -
ns: P≥ 0,05; *: P< 0,05; **: P < 0,01; ***: P< 0,001;
- : không kiểm tra
3.2. Năng suất sinh sản của lợn nái L và Y
Kết quả trình bày tại bảng 3 cho thấy lợn
nái Y có các chỉ tiêu về SCSS, SCSSS và SCCS
(14,47; 13,32 và 10,65 con), cao hơn so với lợn nái
L (14,09; 12,03 và 10,29 con). Tuy nhiên, sự sai
khác ở các chỉ tiêu này không có ý nghĩa thống
kê (P>0,05). Tỷ lệ SSS của lợn nái Y nguồn gốc
Đan Mạch (92,07%) cao hơn so với lợn nái L
(84,57%), nhưng KLSS/con có xu hướng ngược
lại (P<0,05).
Bảng 3. Năng suất lợn nái L và Y nguồn
Đan Mạch
Chỉ tiêu
Landrace Yorkshire
n Mean±SD n Mean±SD
SCSS (con) 35 14,09±3,28 34 14,47±3,74
SCSSS (con) 35 12,03±4,11 34 13,32±3,58
SCCS (con) 35 10,29±3,30 34 10,65±2,76
TLSSS (%) 35 84,57b±17,90 34 92,07a±9,17
TLCS (%) 35 87,55±17,33 34 81,12±16,28
KLSS/con (kg) 169 1,43a±0,29 178 1,37b±0,28
KLSS/ổ (kg) 35 16,03±5,60 34 16,15±4,37
KLCS/con (kg) 146 5,84±0,97 150 5,91±0,82
KLCS/ổ (kg) 35 66,08±22,03 34 63,89±17,72
KCLĐ (ngày) 15 159,73±25,78 14 164,93±38,56
Trong cùng hàng, những giá trị Mean mang
chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa (P<0,05)
3.3. Ảnh hưởng tương tác giữa giống và lứa
đẻ đến năng suất sinh sản của lợn L và Y
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202016
Số con sơ sinh/ổ của nái L nguồn gốc Đan
Mạch nuôi tại Trung tâm ở lứa 1 đạt 14,45 con,
cao hơn ở lứa 2 (13,60 con) là 0,85 con/ổ. Số con sơ
sinh sống/ổ của đàn nái L nguồn gốc Đan Mạch
ở lứa 1 đạt 12,20 con, cao hơn so với lứa 2 (11,80
con) là 0,4 con/ổ, song sự sai khác này không có
ý nghĩa thống kê (P>0,05). Mặc dù chỉ tiêu SCSS
và SCSSS của nái L nguồn gốc Đan Mạch ở lứa 1
đều cao hơn lứa 2, nhưng SCCS ở lứa 1 đạt 10,29
con lại thấp hơn so với lứa 2 (10,65 con) là 0,36
con/ổ, cho thấy TLCS ở lứa 2 (92,91%) cao hơn so
với lứa 1 (đạt 83,54%).
Bảng 4. Ảnh hưởng tương tác của giống và lứa đẻ đến năng suất sinh sản
Chỉ tiêu
LxLứa1 LxLứa2 YxLứa1 YxLứa2
n Mean±SD n Mean±SD n Mean±SD n Mean±SD
SCSS (con) 20 14,45±3,30 15 13,60±3,29 20 14,35±3,91 14 14,64±3,61
SCSSS (con) 20 12,20±4,58 15 11,80±3,53 20 13,00±3,63 14 13,79±3,60
SCCS (con) 20 9,95±3,72 15 10,73±2,69 20 10,05±3,05 14 11,50±2,10
TLSSS (%) 20 82,95±19,98 15 86,73±15,08 20 90,45±9,40 14 94,37±8,62
TLCS (%) 20 83,54±20,61 15 92,91±9,95 20 77,97±17,38 14 85,61±13,95
KLSS/con (kg) 101 1,49a±0,28 54 1,28b±0,28 100 1,36b±0,32 62 1,33b±0,24
KLSS/ổ (kg) 20 18,18±6,32 15 15,10±4,66 20 15,07±4,08 14 17,70±4,43
KLCS/con (kg) 96 5,78±0,90 50 5,97±1,09 90 5,85±0,84 60 6,00±0,80
KLCS/ổ (kg) 20 60,60±23,3 15 73,40±18,47 20 59,17±18,09 14 70,63±15,35
KCLĐ (ngày) - - 15 159,73±25,78 - - 14 164,93±38,56
Số con sơ sinh/ổ của lợn Y ở lứa 2 là 14,64
con, cao hơn so với lứa 1 (14,35 con). Số con sơ
sinh/ổ ở lứa 1 của lợn L là 14,45 con, cao hơn Y
(14,35 con). Tuy nhiên, SCSS ở lứa 2 của lợn nái
Y cao hơn lứa 2 của L (13,60 con). Số con sơ sinh
sống/ổ của lợn nái Y lứa 1 là 13 con, thấp hơn so
với lứa 2 (13,79 con). Số con cai sữa/ổ của lợn Y ở
lứa 1 thấp hơn so với lứa 2 (10,05 và 11,50 con).
4. THẢO LUẬN
4.1. Ảnh hưởng của giống và lứa đẻ đến năng
suất sinh sản của nái L và Y
Ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất
sinh sản của lợn nái L và Y nguồn gốc Đan
Mạch trong nghiên cứu này tương tự với công
bố của Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn
(2010); Nguyễn Ngọc Thanh Yên và ctv (2018);
Trịnh Hồng Sơn và ctv (2019a,b){Nguyễn Văn
Thắng, 2010 #1658} đều cho thấy, yếu tố lứa đẻ
có ảnh hưởng rất rõ rệt (P<0,001) đến các chỉ
tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái, KLCS/
con, KLCS/con, mùa vụ ảnh hưởng đến KLCS/
con (P<0,001). Kết quả công bố của Nguyễn Văn
Thắng và Đặng Vũ Bình (2006) cũng chỉ ra rằng
lứa đẻ có ảnh hưởng rõ rệt đến tất cả các chỉ
tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái và mùa
vụ ảnh hưởng đến KLCS/con. Kết quả công bố
của Šprysl và ctv (2012) cho thấy, lứa đẻ có ảnh
hưởng rất rõ rệt đến SCSS (P<0,0001), mùa vụ
không có ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của
lợn nái (P>0,05). Như vậy, kết quả đánh giá mức
độ ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh
sản của lợn nái L và Y ở nghiên cứu này phù hợp
với các kết quả nghiên cứu đã công bố.
4.2. Năng suất sinh sản của lợn nái L và Y
Năng suất sinh sản của nái L và Y nguồn
gốc Đan Mạch trong nghiên cứu này thấp hơn
so với kết quả công bố của Đoàn Văn Soạn và
Đặng Vũ Bình (2011); Nguyễn Ngọc Thanh Yên
và ctv (2018) khi nghiên cứu trên lợn nái cùng
loại, ngoại trừ chỉ tiêu KLSS/con (1,49 và 1,46kg)
cao hơn. Tuy nhiên, năng suất sinh sản của lợn
nái L và Y trong nghiên cứu này cao hơn kết
quả công bố của Đặng Vũ Bình và ctv (2005).
Nghiên cứu trên đàn lợn nái Y và L tại một số
tỉnh Miền Bắc, Đặng Vũ Bình (2003) cho biết,
năng suất sinh sản của lợn nái L và Y không có
sự khác biệt. Khi nghiên cứu trên đàn lợn nái
thuần L và Y được nuôi tại Thái Lan, Tummaruk
và ctv (2002) cho biết lợn nái L có SCSS (9,7 con),
SCSSS (8,9 con), SCCS (7,6 con) cao hơn so với
nái Y (9,1; 8,4 và 6,8 con). Kết quả công bố của Su
và ctv (2007) cho thấy, nái L được nuôi tại Đan
Mạch có SCSS (14,23 con), SCSSS (11,61 con) và
SC21 ngày tuổi (9,76 con) cao hơn so với nái Y
(13,01; 11,49 và 9,59 con). Kết quả công bố của
Đặng Vũ Bình (2003) về SCCS của lợn nái Y và
L được nuôi tại một số cơ sở giống ở Hưng Yên,
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI
KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 17
Hà Nội và Thanh Hóa với các giá trị lần lượt
8,25 và 8,29 con. Như vậy, kết quả nghiên cứu
này có xu hướng cao hơn so với kết quả công bố
của Đặng Vũ Bình (2003); Su và ctv (2007). Kết
quả công bố của Phan Xuân Hảo (2006) cho biết,
SCSS/ổ của nái L và Y tương ứng là 10,9 và 10,9
con. Theo Lê Đình Phùng và ctv (2011), SCSS của
nái L và Y tương ứng là 11,47 và 10,64 con. Đoàn
Phương Thuý và ctv (2015) công bố SCSS của nái
L và Y là 11,2 và 11,91 con. Kết quả công bố của
Nguyễn Văn Đức và ctv (2010) cho biết, SCSSS
của lợn nái L và Y tương ứng là 10,63 và 10,14
con. Kết quả công bố của Đoàn Phương Thuý và
ctv (2015) cho thấy, SCSSS của lợn nái L và Y là
10,48 và 10,85 con.
4.3. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến năng suất
sinh sản của lợn nái L và Y
Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp
với những kết quả đã công bố trước đó của các
tác giả Dan và Summers (1996); Phan Xuân Hảo
(2001); Serenius và Stalder (2006); Aherne và
Kirkwood (2011); Nguyễn Ngọc Thanh Yên và
ctv (2018); Trịnh Hồng Sơn và ctv (2019a,b); và
tuân theo quy luật sinh sản chung của lợn nái.
Kết quả công bố của Nguyễn Ngọc Thanh Yên
và ctv (2018) cho thấy, SCSSS và SCCS của lợn
nái L nguồn gốc Đan Mạch không có sự sai khác
có ý nghĩa giữa các lứa đẻ, trong khi đó, SCSSS
và SCCS lợn nái Y nguồn gốc Đan Mạch có sự
khác biệt giữa lứa 1 với lứa 2, 4 và 5. Kết quả
công bố của Aherne và Kirkwood (2011) cho
thấy, SCSSS thấp nhất ở lứa 1 (9,5 con), tăng lên
10,0 con ở lứa 2, đạt giá trị cao nhất từ lứa 3 đến
lứa 5 (10,5-11,5 con) và giảm xuống ở lứa 6. Phan
Xuân Hảo (2001) khi nghiên cứu trên đàn lợn nái
sinh sản L và Y từ lứa đẻ 1 đến lứa đẻ 6 cho biết,
SCSS ở lứa đẻ thứ 1 là thấp nhất, sau đó tăng
dần từ lứa đẻ thứ 2, đạt giá trị cao nhất ở lứa
đẻ thứ 5 và giảm ở lứa đẻ thứ 6. Kết quả công
bố của Serenius và Stalder (2006) cho thấy, SCSS
tăng dần từ lứa 1 đến lứa thứ 4, 5 và giảm dần từ
lứa thứ 6. Kết quả công bố của Tretinjak và ctv
(2009) cho thấy, SCSSS thấp nhất ở lứa 1, tăng lên
và đạt giá trị cao nhất ở lứa 4, sau đó giảm dần
từ lứa 5. Số lứa đẻ tăng năng suất sinh sản tăng
và thường đạt đỉnh từ lứa 2 đến lứa 5 sau đó sẽ
giảm (Koketsu và ctv, 2017).
5. KẾT LUẬN
Năng suất sinh sản của lợn nái L và Y nguồn
gốc Đan Mạch nuôi tại Trung tâm giống vật nuôi
chất lượng cao đạt mức khá: SCSS, SCSSS, KLSS/
con, KLSS/ổ, SCCS, KLCS/con, KLCS/ổ đạt 14,28
con; 12,67 con; 1,40 kg; 16,09kg; 10,46 con; 5,88
kg và 65,00kg. Việc lựa chọn lợn nái Y nguồn gốc
Đan Mạch có thể cải thiện được TLSSS và lợn nái
L có thể cải thiện được KLSS/con.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aherne F. and Kirkwood R. (2011). Factors affecting
litter size. The pig site. http//thepigsite.com/articles/
AREA=Reproduction.
2. Đặng Vũ Bình (2003). Năng suất sinh sản của lợn nái
Yorkshire và Landrace nuôi tại các cơ sở giống miền Bắc,
Tạp chí KHKT Nông nghiệp, 1(2): 113-17.
3. Đặng Vũ Bình, Nguyễn Văn Tường, Đoàn Văn Soạn
và Nguyễn Thị Kim Dung (2005). Khả năng sản xuất
của một số công thức lai của đàn lợn nuôi tại Xí nghiệp
Chăn nuôi Đồng Hiệp - Hải Phòng, Tạp chí KHKT Nông
nghiệp, 3(4): 304-09.
4. Dan T.T. and Summers P.M. (1996). Reproductive
performance of sows in the tropics, Tro. Ani. Health Pro.,
28(3): 247-56.
5. Nguyễn Văn Đức, Bùi Quang Hộ, Giang Hồng Tuyến,
Đặng Đình Trung, Nguyễn Văn Trung, Trần Quốc Việt
và Nguyễn Thị Viễn (2010). Năng suất sinh sản, sản xuất
của lợn Móng Cái, Pietrain, Landrace, Yorkshire và ưu
thế lai của lợn lai F1(LRxMC), F1(YxMC) và F1(PixMC),
Tạp chí KHCN Chăn nuôi, 22(2): 29-36.
7. Phan Xuân Hảo (2001). Xác định một số chỉ tiêu về sinh
sản, năng suất và chất lượng thịt của lợn Landrace và
Yorkshire có các kiểu gen halothan khác nhau. Luận án
tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà
Nội.
8. Phan Xuân Hảo (2006). Đánh giá tính năng sản xuất của
lợn đực ngoại Landrace, Yorkshire và F1(Landrace x
Yorkshire) đời bố mẹ, Tạp chí KHKT Nông nghiệp, 4(2):
120-25.
9. Koketsu Y., Tani S. and Iida R. (2017). Factors for
improving reproductive performance of sows and herd
productivity in commercial breeding herds, Por. Health
Man., 3(1): 1-10.
10. Nguyễn Thị Hồng Nhung, Phạm Duy Phẩm, Trịnh
Hồng Sơn, Phạm Doãn Lân và Đỗ Đức Lực (2020). Năng
suất sinh sản của lợn nái Landrace và Yorkshire nguồn
gốc Pháp qua ba thế hệ nuôi tại Trung tâm nghiên cứu lợn
Thuỵ Phương, Tạp chí KHKT Việt Nam, 18(10): 854-61.
11. Serenius T. and Stalder K.J. (2006). Selection for sow
longevity, J. Ani. Sci., 84(13 suppl): E166-71.
12. Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2011). Khả năng
sinh sản của các tổ hợp lợn lai giữa nái nai F1(Landrace
x Yorkshire), F1(Yorkshire x Landrace) với đực Duroc và
L19, Tạp chí KHPT, 9(4): 614-21.
13. Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Thị Lan và Đỗ Đức Lực
(2019a). Năng suất sinh sản và một số yếu tố ảnh hưởng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nang_suat_sinh_san_lon_nai_landrace_va_yorkshire_nguon_goc_d.pdf