Experiments of photosynthesis assessment of phytoplankton and seaweed had
been carried out in Thi Nai lagoon in rainy season (October, 2013) and dry season (May, 2014).
The results showed that primary productivity of phytoplankton was 8 - 149 mgC/m3/day, and that
productivity of seaweed Gracilaria verrucosa was 0.139 - 0.197 mg C/g seaweed/day. During
photosynthesis process of phytoplankton, an amount of 1.42 - 1.6 tons mineral nitrogen/day and
0.14 - 0.17 tons phosphate/day was consumed in the whole lagoon. The photosynthesis process of
seaweed also consumed an amount of 0.74 - 0.83 tons/day of inorganic nitrogen (including nitrate,
nitrite, and ammonium), and 0.041 - 0.045 tons/day of phosphate in the whole lagoon.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 612 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng suất sơ cấp ở đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
185
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 2; 2015: 185-192
DOI: 10.15625/1859-3097/15/2/6505
NĂNG SUẤT SƠ CẤP Ở ĐẦM THỊ NẠI, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Cao Thị Thu Trang*, Lưu Văn Diệu, Lê Xuân Sinh, Trần Đức Thạnh
Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: trangct@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 20-4-2015
TÓM TẮT: Các thí nghiệm đánh giá khả năng quang hợp của thực vật nổi và rong biển đã
được thực hiện tại đầm Thị Nại (Bình Định) vào mùa mưa (tháng 10/2013) và mùa khô (tháng
5/2014). Kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất sơ cấp của thực vật nổi và rong câu chỉ vàng
Gracilaria verrucosa nằm trong khoảng 8 - 149 mgC/m3/ngày và khoảng 0,135 - 0,197 mgC/g
rong/ngày. Trong quá trình quang hợp, thực vật nổi làm tiêu hao khoảng 1,42 - 1,6 tấn khoáng
nitơ/ngày và 0,14 - 0,17 tấn phôtphat/ngày. Tương tự, quần xã rong trong đầm cũng làm tiêu hao
khoảng 0,74 - 0,83 tấn/ngày các dinh dưỡng nitơ vô cơ và 0,041 - 0,045 tấn phôtphat/ngày trên toàn
đầm Thị Nại.
Từ khóa: Năng suất sơ cấp, quang hợp, dinh dưỡng, cacbon hữu cơ.
MỞ ĐẦU
Đầm Thị Nại nằm trong hệ toạ độ:
109012’00” - 109019’00” E; 13045’00” -
13054’00” N, thuộc các xã Phước Thắng,
Phước Hoà, Phước Sơn, Phước Thuận (huyện
Tuy Phước), xã Nhơn Hội, các phường Nhơn
Bình, Hải Cảng và Đống Đa (tp. Quy Nhơn).
Diện tích lúc triều dâng là 5.050 ha và 3.200 ha
lúc triều rút. Cửa đầm thông với vịnh Quy
Nhơn rộng từ 500 m đến 700 m. Đầm tương
đối kín, nằm theo hướng bắc nam, dài khoảng
12 km, rộng khoảng 4 km, lạch nước sâu ở cửa
đầm là 9 - 11 m. Các sông đổ vào: Sông Côn
với nhiều phân lưu đổ vào từ phía tây bắc với
lưu lượng nước trung bình năm 71 m3/s và phù
sa lơ lửng đạt 10,7 kg/s. Sông Hà Thanh là
sông nhỏ, đổ vào từ phía tây nam.
Quá trình quang hợp của thực vật nổi
(TVN) và các loại rong, cỏ biển có vai trò rất
lớn đến chức năng sinh thái của thủy vực. Quá
trình quang hợp là sự tổng hợp các chất hữu cơ
từ CO2 trong nước bởi các thực vật nổi, rong,
cỏ biển có trong nước dưới tác dụng của ánh
sáng. Thí nghiệm quang hợp được bố trí nhằm
đánh giá khả năng tổng hợp chất hữu cơ thông
qua năng suất sơ cấp đồng thời đánh giá khả
năng tiêu hao dinh dưỡng khoáng (khả năng
làm sạch) của các thuỷ vực.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Để đánh giá khả năng quang hợp của thực
vật nổi và rong biển, chúng tôi đã tiến hành thí
nghiệm quang hợp trong hai mùa mưa và khô tại
2 điểm trong đầm Thị Nại (hình 1). Đợt thí
nghiệm mùa mưa kéo dài từ 5 h ngày 9/10/2013
đến 17 h ngày 9/10/2013 và đợt thí nghiệm mùa
khô kéo dài từ 5 h ngày 23/5/2014 đến 17 h ngày
23/5/2014 (là thời gian diễn ra phản ứng quang
hợp mạnh dưới ánh sáng mặt trời).
Tọa độ các điểm thí nghiệm như sau:
Vị trí thí nghiệm Tọa độ
Gần sát với cửa đầm (TN-TN 1) 13046’39,6” - 109015’07,1”
Giữa đầm (TN-TN2) 13049’55,60’’- 109014’14,63’’
Cao Thị Thu Trang, Lưu Văn Diệu,
186
Hình 1. Các điểm bố trí thí nghiệm quang hợp khu vực đầm Thị Nại
Nước tầng mặt và tầng đáy được làm giàu
thực vật phù du (TVPD) (10 lít nước được lọc
qua lưới TVPD kích cỡ mắt lưới 20 μm rồi cho
vào 1 lít nước đã lọc) và lấy vào các bình đen
và trắng và đưa trở lại đúng vị trí thu mẫu từ
sáng sớm (trước khi mặt trời mọc) và thu lại
vào lúc chiều muộn. Phân tích các thông số:
pH, DO, NO2-, NO3-, NH4+, PO43-, trước và sau
khi kết thúc thí nghiệm. Chỉ số pH được đo trực
tiếp bằng máy pH xách tay; Nồng độ ôxy hòa
tan (DO) được xác định bằng phương pháp
chuẩn độ Winkler theo TCVN 7324:2004 [1];
nồng độ NO2-, NO3-, NH4+, PO43- được xác định
bằng phương pháp so màu theo APHA phương
pháp 4500-N [2]. Tính toán lượng các bon hữu
cơ tạo ra trong 1 ngày đối với từng mùa và tính
toán lượng chất dinh dưỡng khoáng mất đi do
quá trình quang hợp tại từng khu vực thí
nghiệm. Sau khi kết thúc thí nghiệm, ta sẽ có
kết quả quan trọng, đó là sự gia tăng hàm lượng
ôxy hoà tan (DO) trong bình trắng do quá trình
quang hợp của tảo trong nước thí nghiệm, đồng
thời có sự giảm hàm lượng DO trong các bình
đen do quá trình tiêu hao ôxy do hô hấp và
phân huỷ vật chất. Do đó, hàm lượng ôxy liên
quan đến quá trình quang hợp sinh ra các vật
chất hữu cơ sẽ là:
DOquang hợp = DObình trắng - DObình đen
Trong đó: DOquang hợp: Nồng độ ôxy sinh ra
trong quá trình quang hợp; DObình trắng: Nồng độ
ôxy đo được trong các bình trắng; DObình đen:
Nồng độ ôxy đo được trong các bình đen.
Tính năng suất sơ cấp theo lượng Cacbon
hữu cơ (Ch/c) sinh ra trong nước trong quá trình
quang hợp dựa trên phương trình:
6CO2 + 6 H2O = C6H12O6 +6O2
Theo phản ứng quang hợp thì lượng Ch/c
sinh ra được quy đổi từ lượng ôxy sinh ra nhân
với 0,375.
Trong quá trình quang hợp, thực vật thuỷ
sinh sẽ sử dụng các dinh dưỡng khoáng trong
nước góp phần làm giảm hàm lượng của chúng
trong nước (làm sạch môi trường). Khả năng
loại bỏ dinh dưỡng khoáng trong quá trình
quang hợp của tảo được xác định như sau :
Xquang hợp = Xbình đen – Xbình trắng
Trong đó: Xquang hợp: hàm lượng dinh dưỡng
khoáng bị tiêu hao trong quá trình quang hợp;
Xbình đen: hàm lượng dinh dưỡng khoáng phân
Năng suất sơ cấp ở đầm Thị Nại
187
tích được trong các bình đen; Xbình trắng: hàm
lượng dinh dưỡng khoáng phân tích được trong
các bình trắng.
Giá trị năng suất sơ cấp và tiêu hao dinh
dưỡng khoáng từ quá trình quang hợp phụ
thuộc vào độ sâu của thuỷ vực. Trong thí
nghiệm này, tiến hành ở lớp nước mặt và lớp
nước đáy (3 m).
Đối với thí nghiệm đánh giá khả năng
quang hợp của rong biển, cách tiến hành tương
tự nhưng có bổ sung rong câu chỉ vàng
Gracilaria verrucosa vào các bình đen và trắng
và đổ đầy nước trong bình. Nước sử dụng được
lọc qua lưới thực vật phù du kích cỡ mắt lưới
20 μm để loại bỏ TVN. Chỉ tiến hành thí
nghiệm ở tầng đáy. Thí nghiệm cũng tiến hành
như trường hợp quang hợp của thực vật nổi.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Năng suất sơ cấp của thực vật nổi
Dựa trên các công thức tính toán lượng oxy
hòa tan và lượng Cacbon sinh ra ở trên, đã tính
được lượng oxy hòa tan trung bình tạo ra trong
quá trình quang hợp và năng suất sơ cấp
(NSSC) của TVN tại các khu vực triển khai thí
nghiệm trong đầm Thị Nại (bảng 1).
Bảng 1. Lượng ôxy hòa tan sinh ra trong thí nghiệm quang hợp
và NSSC của TVN tại khu vực đầm Thị Nại
Thông số Tầng Trạm TN 1 Trạm TN 2
Ôxy sinh ra - mùa mưa (mgO2/l/ngày)
Mặt (n=3) 0,100 ± 0,029 0,027 ± 0,025
Đáy (n=3) 0,159 ± 0,030 0,043 ± 0,021
Trung bình 0,13 0,03
Ôxy sinh ra - mùa khô (mgO2/l/ngày)
Mặt (n=3) 0,115 ± 0,026 0,397 ± 0,039
Đáy (n=3) 0,092 ± 0,029 0,108 ± 0,022
Trung bình 0,10 0,25
NSSC - mùa mưa (mgCh/c/l/ngày)
Mặt 0,037 0,008
Đáy 0,060 0,016
Trung bình 0,048 0,012
NSSC - mùa khô (mgCh/c/l/ngày)
Mặt 0,043 0,149
Đáy 0,035 0,041
Trung bình 0,039 0,095
Từ bảng 1 và hình 2 nhận thấy, năng suất
sơ cấp của TVN trong nước đầm Thị Nại nằm
trong khoảng 0,008 - 0,149 mgC/l/ngày (tương
đương với 8 - 149 mgC/m3/ngày), trung bình
tầng mặt là 59 mgC/m3/ngày, trung bình tầng
đáy là 38 mgC/m3/ngày, trung bình mùa mưa là
30 mgC/m3/ngày, trung bình mùa khô là
67 mgC/m3/ngày. Như vậy, vào mùa khô
(tháng 5/2014), năng suất sơ cấp của TVN cao
hơn so với mùa mưa (tháng 10/2013) là do
luợng bức xạ mặt trời trong mùa khô lớn, gần
đạt cực đại, thúc đẩy quá trình quang hợp của
TVN. Ở lớp nước tầng mặt trực tiếp tiếp xúc
với ánh sáng mặt trời nên có năng suất sơ cấp
cao hơn so với lớp nước tầng đáy, điều đó được
thể hiện rõ trong mùa khô ở cả 2 trạm thí
nghiệm. Ngược lại, vào mùa mưa, bầu trời âm
u, nhiều mây, ít ánh nắng làm hạn chế quá trình
quang hợp của TVN. Vào mùa mưa, không có
sự chênh lệch lớn giữa tầng mặt và tầng đáy,
thậm chí ở lớp nước tầng đáy lượng ôxy tạo ra
nhiều hơn lớp nước tầng mặt. Đó là do quá
trình quang hợp diễn ra yếu và những thay đổi
rất nhỏ của nồng độ DO nằm trong sai số của
phép phân tích DO hòa tan.
Hình 2. Năng suất sơ cấp của thực vật nổi
khu vực đầm Thị Nại
Cao Thị Thu Trang, Lưu Văn Diệu,
188
Theo Nguyễn Tác An và cộng sự “Báo cáo
chuyên đề tổng quan các vịnh đầm phá khu vực
Nam Trung Bộ” thuộc đề tài cấp nhà nước KC
09-22 “Đánh giá hiện trạng, dự báo biến động
và đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý tài
nguyên một số vũng - vịnh chủ yếu ven bờ biển
Việt Nam” năm 2004, NSSC của thực vật nổi ở
đầm Thị Nại có giá trị dao động từ 78 -
573,88 mgC/m3/ngày, trung bình
253,18 mgC/m3/ngày vào mùa khô; và từ
237,44 - 3423,77 mgC/m3/ngày, trung bình
834,40 mgC/m3/ngày vào mùa mưa. Các kết
quả này cao hơn các kết quả thí nghiệm NSSC
tại đầm Thị Nại năm 2013 - 2014. Giải thích về
sự khác nhau này có nhiều nguyên nhân, trong
đó nguyên nhân chủ yếu là sự thay đổi về thời
gian với tác động của nhiều nguồn ô nhiễm làm
suy giảm NSSC của đầm.
Khi so sánh các kết quả thí nghiệm được
thực hiện bởi cùng nhóm tác giả, nhận thấy
NSSC của TVN đầm Thị Nại khá tương đồng
với khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
(Thừa Thiên - Huế) nhưng nhỏ hơn các khu
vực cửa sông và vũng vịnh, đảo. NSSC tại vịnh
Cát Bà - Cạp Gù trong khoảng 250 -
300 mgC/m3/ngày [5], tại vịnh Hạ Long - vịnh
Bái Tử Long khoảng 60 - 360 mgC/m3/ngày
[6], tại vùng cửa sông Bạch Đằng khoảng
160 mgC/m3/ngày [7] và tại đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai là 14 - 110 mgC/m3/ngày [8].
Dựa vào kết quả tính năng suất sơ cấp và
thể tích nước của đầm Thị Nại, đã tính được
lượng Ch/c tạo ra bởi TVN trong 1 ngày trên
toàn đầm (bảng 2).
Bảng 2. Năng suất sơ cấp trên toàn đầm Thị
Nại (tấn Chc/ngày)
Mùa mưa Mùa khô
NSSC (mgC/m3/ngày) 30 67
Thể tích (triệu m3) 88,81 86,91
NSSC (tấnC/ngày) 2,68 5,80
Thực vật nổi trong nước đầm Thị Nại sản
xuất được 2,68 tấn Chc/ngày vào mùa mưa và
5,8 tấn Chc/ngày vào mùa khô, trung bình 4,2
tấn Chc/ngày.
Mức độ tiêu hao dinh dưỡng khoáng (làm sạch
nước) của TVN trong quá trình quang hợp
Hình 3. Mức độ tiêu hao dinh dưỡng khoáng
trong quá trình quang hợp tại khu vực
đầm Thị Nại
Năng suất sơ cấp ở đầm Thị Nại
189
Bên cạnh việc tạo ra C hữu cơ tươi sống và
ôxy hòa tan cung cấp cho thủy vực, quá trình
quang hợp cũng tiêu hao một lượng lớn các
chất dinh dưỡng khoáng của nitơ và phôtpho
trong nước. Lượng muối khoáng của nitơ và
phôtpho tiêu hao trong quá trình quang hợp
được tính toán và trình bày trong hình 3.
Trong số các muối dinh dưỡng khoáng của
nitơ và phôtpho tham gia vào quá trình quang
hợp, nhận thấy lượng bị tiêu hao nhiều nhất là
nitrat (trung bình 10,71 μgN/l/ngày) và amoni
(trung bình 5,75 μgN/l/ngày) tiếp theo là
phôtphat (trung bình 1,78 μgP/l/ngày) và cuối
cùng là nitrit (trung bình 0,90 μgN/l/ngày).
Dựa vào kết quả tính tiêu hao dinh dưỡng
khoáng và thể tích nước của đầm Thị Nại
(bảng 2), đã tính được lượng dinh dưỡng
khoáng tiêu hao trong quá trình quang hợp
trong 1 ngày trên toàn đầm (bảng 3).
Bảng 3. Tiêu hao dinh dưỡng khoáng trong
quá trình quang hợp trên toàn
đầm Thị Nại (tấn/ngày)
Mùa N-NO2- N-NO3- N-NH4+ P-PO43-
Mưa 0,06 0,95 0,59 0,17
Khô 0,07 0,93 0,42 0,14
Như vậy, nhờ quá trình quang hợp mà
lượng dinh dưỡng khoáng bị tiêu hao trên toàn
đầm Thị Nại là 1,6 tấn N/ngày đối với muối
khoáng nitơ, 0,17 tấn P/ngày đối với phôtphat
trong mùa mưa và vào mùa khô các con số này
tương ứng là 1,42 tấn N/ ngày và 0,14 tấn
P/ngày. Tỷ lệ khối lượng C:N trong quá trình
quang hợp là 1,68 vào mùa mưa và 4,08 vào
mùa khô. Đây là những số liệu nghiên cứu
bước đầu tại đầm Thị Nại, cần có các nghiên
cứu tiếp theo để khẳng định các kết quả.
Năng suất sơ cấp của rong biển
Theo Nguyễn Tác An, 2004 [4], một số loài
rong ở đầm Thị Nại phân bố như sau:
Rong và thực vật bậc cao của đầm Thị Nại
có đến 136 loài, 38 họ, 19 giống thuộc 4 ngành
rong (Cyanophyta, Cholorophyta, Phaeophyta,
Rhodophyta) và 1 ngành thực vật bậc cao
(Anglospermas).
Rong trong đầm Thị Nại phát triển và tàn
rụi không rõ rệt, thường kéo dài thời gian sinh
trưởng, tốt nhất từ tháng 3 đến tháng 5. Đáng
chú ý có 3 loại rong sau đây:
Rong Câu Chỉ Vàng (Gracilaria
verrucosa): phân bố nhiều nhất ở khu vực Cồn
Chim trên diện tích 345.000 m2 sinh lượng bình
quân từ 214,2 gr/m2, có thể thu được 76,6 tấn
trong một đợt. Sinh trưởng cao nhất vào tháng
5 là 3.662 g/m2.
Rong Bún (Enteromophyta): loại này
phát triển quanh năm dễ khai thác, sinh trưởng
nhiều ở vùng rong câu, sinh lượng bình quân
đạt 283 g/m2, có thể thu 102 tấn rong một đợt
loài này dùng để chăn nuôi và làm thức ăn cho
cá rất tốt.
Rong Hẹ (Diplanthera uninenves): phân
bố trên diện tích đến 6.326.000 m2, có sinh
lượng 736,5 g/m2.
Rong biển của đầm Thị Nại có trữ lượng
cao, đa dạng về giống loài, có nhiều loài kinh tế
phục vụ cho xuất khẩu, công nghiệp và
chăn nuôi.
Mẫu thí nghiệm được thực hiện ở đầm Thị
Nại trong hai mùa mưa và mùa khô, lớp nước
đáy. Mẫu rong thí nghiệm là rong câu chỉ vàng
Gracilaria verrucosa (hình 4).
Hình 4. Mẫu rong thí nghiệm tại đầm Thị Nại
Bảng 4 trình bày tính toán NSSC của rong
câu chỉ vàng tại đầm Thị Nại.
Cao Thị Thu Trang, Lưu Văn Diệu,
190
Bảng 4. Năng suất sơ cấp của rong câu chỉ
vàng Gracilaria verrucosa (10 g rong
tươi) tại đầm Thị Nại
Trạm
Mùa mưa (mg/g rong
tươi/ngày)
Mùa khô (mg/g
rong tươi/ngày)
DO Ch/c DO Ch/c
TN 1 0,37 0,14 1,42 0,53
TN 2 0,50 0,19 1,36 0,51
Trung bình 0,43 0,16 1,39 0,52
NSSC của rong câu chỉ vàng Gracilaria
verrucosa tại đầm Thị Nại dao động từ 0,14 -
0,19 mgC/g rong/ngày, trung bình 0,16 mg C/g
rong/ngày vào mùa mưa. Vào mùa khô, NSSC
của rong dao động từ 0,51 - 0,53 mgC/g
rong/ngày, trung bình là 0,52 mg C/g
rong/ngày.
Các kết quả thí nghiệm cho thấy tốc độ
quang hợp của rong câu chỉ vàng Gracilaria
verrucosa trong đầm Thị Nại vào mùa khô cao
hơn gấp 3 lần vào mùa mưa liên quan đến thời
tiết, khí hậu vào mùa khô. Vào mùa khô, số giờ
nắng nhiều với cường độ mạnh làm gia tăng tốc
độ quang hợp của rong biển.
Do rong biển sinh trưởng theo mùa vụ, có
loài phát triển quanh năm như rong bún, nhưng
có loài chỉ phát triển vào thời gian nhất định
như rong câu nên việc tính toán năng suất sơ
cấp cho tất cả các loại rong biển trên toàn đầm
Thị Nại rất phức tạp. Các kết quả tính toán chỉ
mang tính tương đối. Để tính NSSC của rong
biển tại đầm Thị Nại, tạm thời chấp nhận một
số giả thiết sau:
Chỉ tính cho 3 loài phỏ biển trong đầm Thị
Nại là rong câu chỉ vàng, rong hẹ và rong bún.
Cho rằng khả năng quang hợp của rong
câu chỉ vàng, rong bún và rong hẹ là tương
đương nhau.
Trên cơ sở đó đã tính toán được lượng Ch/c
sinh ra trong quá trình quang hợp của quần xã
rong trong đầm Thị Nại (bảng 5).
Bảng 5. Năng suất sơ cấp của quần xã rong trên đầm Thị Nại
Loài rong Diện tích phân bố (m2)
Sinh khối
(g tươi/m2)
Ch/c sinh ra (tấn/ngày)
Mùa mưa Mùa khô
Rong Câu Chỉ Vàng (Gracilaria verrucosa) 345.000 212,2 0,01 0,04
Rong Hẹ (Diplanthera uninenves) 6.326.000 736,5 0,76 2,43
Rong Bún (Enteromophyta) 360.424 (*) 283 0,02 0,05
Toàn đầm 0,79 2,52
Ghi chú: (*) quy ra từ sản lượng và sinh khối thu được.
Như vậy, tính tương đối thì trên toàn đầm
Thị Nại trong 1 ngày có 0,79 tấn C tươi sống
được tạo ra do quá trình quang hợp của rong
biển vào mùa mưa, và con số này là 2,52
tấn/ngày vào mùa khô. Trong đó, rong hẹ có
vai trò quan trọng nhất trong việc sản xuất C
tươi sống do nó có diện tích phân bố lớn và có
sinh khối cao.
Tính toán mức độ tiêu hao dinh dưỡng
khoáng trong quá trình quang hợp của rong
biển tại đầm Thị Nại
Cũng tương tự như quang hợp của TVN,
quá trình quang hợp của rong biển cũng làm
tiêu hao một lượng lớn dinh dưỡng khoáng.
Bảng 6 trình bày lượng dinh dưỡng khoáng tiêu
hao trong các thí nghiệm tại đầm Thị Nại.
Bảng 6 cho thấy, vào mùa khô, mức độ tiêu
hao dinh dưỡng khoáng trong quá trình quang
hợp của rong cỏ biển nhiều hơn so với mùa
mưa, trung bình khoảng 1,1 - 1,2 lần so với
mùa mưa. Điều này cũng phù hợp với sức sản
xuất sơ cấp của rong biển. Trong số các chất
dinh dưỡng khoáng vô cơ của N, P được phân
tích thì lượng amoni bị mất đi nhiều nhất, tiếp
đến là nitrat, phôtphat và nitrit.
Năng suất sơ cấp ở đầm Thị Nại
191
Bảng 6. Tiêu hao dinh dưỡng khoáng trong quá trình quang hợp của
rong câu chỉ vàng Gracilaria verrucosa tại đầm Thị Nại
Trạm TN
Mùa mưa (μg/g/ngày) Mùa khô (μg/g/ngày)
N - NO2- N - NO3- N - NH4+ P - PO43- N - NO2- N - NO3- N - NH4+ P - PO43-
TN1 2,71 56,49 42,82 5,16 5,15 87,93 60,38 8,73
TN2 6,83 96,36 100,57 11,80 6,59 89,96 92,51 9,87
Trung bình 4,77 76,42 71,7 8,48 5,87 88,95 76,45 9,3
Dựa trên số liệu thí nghiệm, đã tính toán
lượng dinh dưỡng khoáng bị tiêu hao do quá
trình quang hợp của rong biển trên toàn đầm
Thị Nại (bảng 7).
Bảng 7. Tiêu hao dinh dưỡng do quá trình quang hợp của quần xã rong
trên toàn đầm Thị Nại (tấn/ngày)
Loài rong
Mùa mưa Mùa khô
N - NO2- N - NO3- N - NH4+ P - PO43- N - NO2- N - NO3- N - NH4+ P - PO43-
Rong Câu Chỉ Vàng
(Gracilaria verrucosa) 0,0003 0,0056 0,0052 0,0006 0,0004 0,0065 0,0056 0,0007
Rong Bún (Enteromophyta) 0,0222 0,3561 0,3341 0,0395 0,0273 0,4144 0,3562 0,0433
Rong Hẹ (Diplanthera
uninenves) 0,0005 0,0078 0,0073 0,0009 0,0006 0,0091 0,0078 0,0009
Toàn đầm 0,023 0,369 0,347 0,041 0,028 0,430 0,370 0,045
Có thể thấy rằng lượng dinh dưỡng khoáng
mất đi trong quá trình quang hợp của quần xã
rong biển trên toàn đầm Thị Nại là khoảng
0,74 tấn dinh dưỡng khoáng nitơ/ngày và
0,041 tấn phôtphat/ngày vào mùa mưa. Con số
này vào mùa khô tương ứng là 0,83 tấn dinh
dưỡng khoáng nitơ/ngày và 0,045 tấn
phôtphat/ngày.
KẾT LUẬN
Các kết quả thực hiện thí nghiệm quang
hợp tại khu vực đầm Thị Nại vào mùa mưa
tháng 10/2013 và mùa khô tháng 5/2014 đã cho
ta một số kết quả sau:
NSSC của TVN dao động trong khoảng 8 -
149 mgC/m3/ngày, vào mùa khô, sức sản xuất
của TVN tăng cao hơn so với mùa mưa, nhất là
trong lớp nước tầng mặt. Thực vật nổi trong
nước đầm sản xuất được khoảng 2,68 tấn
Chc/ngày vào mùa mưa và 5,80 tấn Chc/ngày vào
mùa khô, trung bình 4,24 tấn Chc/ngày. Trong
đầm Thị Nại, TVN có sức sản xuất sơ cấp lớn
hơn so với rong và cỏ biển.
NSSC của rong câu chỉ vàng dao động từ
0,14 - 0,19 mgC/g rong/ngày, trung bình
0,16 mgC/g rong/ngày vào mùa mưa. Vào mùa
khô, NSSC của rong dao động từ 0,51 -
0,53 mgC/g rong/ngày, trung bình là
0,52 mgC/g rong/ngày. Đối với quần xã rong
của đầm Thị Nại, tính một cách tương đối với 3
loài rong phổ biến là Rong Câu Chỉ Vàng
(Gracilaria verrucosa), Rong Bún
(Enteromophyta), Rong Hẹ (Diplanthera
uninenves), tùy thuộc vào mùa vụ, mỗi ngày
quần xã rong tạo ra 0,79 tấn Ch/c trong mùa
mưa và 2,52 tấn Ch/c trong mùa khô nhờ quá
trình quang hợp, trong đó rong hẹ đóng vai trò
chính. Đồng thời quá trình quang hợp của quần
xã rong biển cũng làm tiêu hao trên toàn đầm
khoảng 0,74 tấn/ngày dinh dưỡng nitơ vô cơ,
0,041 tấn phôtphat/ngày vào mùa mưa; khoảng
0,83 tấn/ngày dinh dưỡng nitơ vô cơ và
0,045 tấn phôtphat/ngày vào mùa khô.
Các kết quả nghiên cứu đã phản ánh được
vai trò của từng thành phần tham gia quang hợp
trong khối nước của đầm Thị Nại. Các kết quả
này là nguồn đầu vào quan trọng để đánh giá
khả năng tự làm sạch của thủy vực. Tuy nhiên,
đây mới là nghiên cứu bước đầu, cần có các
nghiên cứu tíêp theo tại đầm Thị Nại để có
những hiểu biết rộng hơn, sâu hơn về NSSC
của đầm.
Cao Thị Thu Trang, Lưu Văn Diệu,
192
Lời cảm ơn: Bài báo này được viết trên cơ sở
nguồn tài liệu của đề tài KC09.17/11-15 “Đánh
giá sức tải môi trường của một số thủy vực tiêu
biểu ven bờ biển Việt Nam phục vụ phát triển
bền vững” do Viện Tài nguyên và Môi trường
biển thực hiện. Các tác giả xin cảm ơn đề tài đã
cho phép công bố các số liệu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TCVN 7324:2004 (ISO 5813:1983). Chất
lượng nước - xác định ôxy hòa tan -
phương pháp Iod.
2. APHA, 2002. Standard Methods for the
Examination of Water and Wastewater, 20th
ed. Washington, DC 20005, 2002.
3. Cao Thị Thu Trang, Nguyễn Thị Phương
Hoa, 2009. Đánh giá sức tải môi trường
vùng nước ven đảo Cát Bà phục vụ cho
phát triển bền vững. Tạp chí Khoa học và
Công nghệ biển, 9(Phụ trương 1): 154-168.
4. Trần Đức Thạnh, Trần Văn Minh, Cao Thị
Thu Trang, Vũ Duy Vĩnh, Trần Anh Tú,
2012. Sức tải môi trường vịnh Hạ Long -
Bái Tử Long. Nxb. Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, Hà Nội. 297 tr.
5. Cao Thị Thu Trang, Nguyễn Thị Phương
Hoa, 2010. Nghiên cứu sức tải môi trường
sông Bạch Đằng. Đăng trong Tuyển tập
“Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hà
Nội, ngày 26/10/2010. Tr. 162-168.
6. Cao Thị Thu Trang, Trịnh Thành, Vũ Thị
Lựu, 2013. Năng suất sơ cấp khu vực đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai. Tài nguyên và
Môi trường biển 10/2013; Tập XVII. Nxb.
KHTN&CN. Tr. 196-204.
PRIMARY PRODUCTIVITY OF THI NAI LAGOON,
BINH DINH PROVINCE
Cao Thi Thu Trang, Luu Van Dieu, Le Xuan Sinh, Tran Duc Thanh
Institute of Marine Environment and Resources-VAST
ABSTRACT: Experiments of photosynthesis assessment of phytoplankton and seaweed had
been carried out in Thi Nai lagoon in rainy season (October, 2013) and dry season (May, 2014).
The results showed that primary productivity of phytoplankton was 8 - 149 mgC/m3/day, and that
productivity of seaweed Gracilaria verrucosa was 0.139 - 0.197 mg C/g seaweed/day. During
photosynthesis process of phytoplankton, an amount of 1.42 - 1.6 tons mineral nitrogen/day and
0.14 - 0.17 tons phosphate/day was consumed in the whole lagoon. The photosynthesis process of
seaweed also consumed an amount of 0.74 - 0.83 tons/day of inorganic nitrogen (including nitrate,
nitrite, and ammonium), and 0.041 - 0.045 tons/day of phosphate in the whole lagoon.
Keywords: Primary productivity, photosynthesis, nutrients, organic carbon.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6505_23976_1_pb_1637_2079684.pdf