Vai trò và ứng dụng của đánh gíá kinh tế
dợc trong lựa chọn thuốc
Vai trò của đánh giá kinh tếđợc phát huy
khá rõ rệt trong lĩnh vực dợc. Một trong những
ứng dụng quan trọng của đánh giá Kinh tế dợc
là cung cấp thông tin về khía cạnh hiệu quả kinh
tế làm cơ sở cho việc lựa chọn thuốc thanh toán,
xây dựng danh mục thuốc bệnh viện, hớng dẫn
điều trị.Trong những năm gần đây, Kinh tếdợc
phát triển nhanh chóng, đợc ứng dụng rộng rãi
và có những đóng góp quan trọng cho việc đa
ra các quyết định chăm sóc y tếtrong cả khu vực
công lập và t nhân. Số liệu từ Trung tâm nghiên
cứu về phát triển thuốc Tufts cho thấy các
nghiên cứu kinh tế dợc hiện chiếm khoảng 1%
tổng chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) và
nhu cầu đối với các nghiên cứu này đang gia
tăng nhanh chóng. Tại Australia và Canada, việc
xem xét chấp nhận một thuốc mới vào danh mục
thuốc quốc gia phụ thuộc khá lớn vào kết quả
nghiên cứu kinh tế dợc. Các nớc có thể có
cách tiếp cận khác nhau sử dụng đánh giá Kinh
tế dợc trong xác lập mức giá thuốc thanh toán
và quyết định chi trả. Trong một nghiên cứu gần
đây tại 9 nớc châu Âu, một phần ba số ngời
đợc hỏi đến từ các cơ quan của chính phủ, bác
sỹ, dợc sỹ bệnh viện, quản lý bệnh viện, quỹ
đau ốm và các công ty dợc phẩm cho biết có sử
dụng các kết quả từ nghiên cứu kinh tế y tế để
đa ra các quyết định xử trí công việc (Hoffman
2000). Tại Mỹ mặc dù nghiên cứu kinh tế dợc
không nằm trong số các yêu cầu bắt buộc khi
nộp hồ sơ đăng ký thuốc mới tại Cơ quan quản lý
thuốc và thực phẩm, nhng Kinh tế dợc có một
ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn thuốc
đa vào các chơng trình CSSK của nhà nớc và
chơng trình BHYT t nhân. Trong một nghiên
cứu gần đây, 88% các nhà quản lý từ 15 chơng
trình chăm sóc sức khỏe toàn nớc Mỹ cho rằng
các thông tin kinh tế dợc rất hữu ích. Các
chơng trình ngày càng gia tăng việc đòi hỏi
hoặc khuyến khích các công ty dợc cung cấp
các thông tin kinh tế dợc khi muốn đợc
chơng trình chi trả các thuốc mới. Chính phủ,
cơ quan BHYT có thể sử dụng các kết quả
nghiên cứu chi phí - hiệu quả để từ chối hoặc hạn
chế chi trả các thuốc hoặc can thiệp y tế quá tốn
kém10. Đây chính là lý do gây ra sự bùng nổ các
nghiên cứu về kinh tế dợc tại các công ty dợc
của Mỹ. Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trớc,
sử dụng các thông tin chi phí - hiệu quả là một
chiến lợc tiếp thị quan trọng của các công ty
dợc để giành quyền cung cấp thuốc cho các
chơng trình chăm sóc sức khỏe đợc quản lý
tập trung (HMO). Năm 1994, tính bình quân
mỗi công ty dợc phẩm tại Mỹ đã tiến hành 24
nghiên cứu Kinh tế dợc.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nạo phá thai của phụ nữ nhiễm HIV ở Quảng Ninh và Hải Phòng, Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37
HIV ở Quảng Ninh và Hải Phòng chiếm tỷ lệ
tương ứng là 7% và 10% tổng số tất cả các
trường hợp nhiễm HIV. Tỷ lệ nhiễm HIV ở phụ
nữ mang thai là 1% ở Quảng Ninh và 0,3% ở Hải
Phòng (VMOH 2006).
Bài báo này tìm hiểu quyết định nạo phá thai
của phụ nữ nhiễm HIV ở hai tỉnh phía bắc Việt
Nam và xem xét mối quan hệ giữa quyết định
này và các đặc điểm kinh tế xã hội của người
phụ nữ cũng như tính sẵn có của các chương
trình PLTMC toàn diện. Các phát hiện của
nghiên cứu này sẽ giúp phụ nữ nhiễm HIV có
được sự lựa chọn sinh sản một cách hiểu biết.
PHƯƠNG PHáP
Mẫu nghiên cứu
Các phụ nữ nhiễm HIV ở Quảng Ninh và Hải
Phòng được tiếp cận theo hai hướng khác nhau.
Phụ nữ ở Quảng Ninh được xác định qua hệ
thống đăng ký quản lý các trường hợp nhiễm
HIV trong khi phụ nữ ở Hải Phòng được tiếp cận
qua cả hệ thống đăng ký quản lý và các mạng
lưới của người nhiễm HIV. 707 trong tổng số
1261 phụ nữ nhiễm HIV ở Quảng Ninh và Hải
Phòng đã chấp nhận tham gia nghiên cứu, trong
đó có 351 ở Quảng Ninh và 356 ở Hải Phòng.
Thu thập số liệu
Số liệu được thu thập trong giai đoạn từ tháng
NạO PHá THAI CủA PHụ Nữ NHIễM HIV ở
QUảNG NINH Và HảI PHòNG, VIệT NAM
1 2
Bùi Kim Chi , Tine Gammeltoft ,
3 4
Nguyễn Thị Thu Nam , Vibeke Rasch
BốI CảNH
Khoảng một nửa các ca nhiễm HIV trên thế
giới là phụ nữ và phần lớn họ sống ở các nước có
thu nhập thấp và trung bình (UNAIDS 2008).
Năm 2008 có khoảng 1,4 triệu phụ nữ mang thai
nhiễm HIV sinh con. Tỷ lệ phụ nữ mang thai
nhiễm HIV được tiếp cận ARV để phòng ngừa
lây truyền mẹ con tăng từ 10% năm 2004 lên
45% năm 2008 (WHO 2009). Phụ nữ nhiễm
HIV đối mặt với những quyết định khó khăn
liên quan đến việc mang thai của họ. Nhiều
nghiên cứu đã cố gắng tiếp cận với tỷ lệ nạo phá
thai của phụ nữ nhiễm HIV ở các nước có thu
nhập cao, trong khi có rất ít nhưng nghiên cứu
được tiến hành về vấn đề này ở các nước có thu
nhập thấp và trung bình (Delvaux &Nstlinger
2007).
ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HIV ở phụ nữ mang
thai tăng từ 0,3 % năm 2001 lên 0,37% năm
2006 (UNGASS 2008). Giống như nhiều phụ nữ
nhiễm HIV trên thế giới, phụ nữ mang thai
nhiễm HIV ở Việt Nam phải đối mặt với những
quyết định khó khăn liên quan đến việc sinh
con. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các giá trị
văn hóa có tác động mạnh mẽ đến quyết định
sinh con của phụ nữ Việt Nam (Gammeltoft
2007). Bên cạnh đó, họ còn băn khoăn về việc
chăm sóc con trong bối cảnh nguồn lực tài chính
eo hẹp và lo lắng về nguy cơ đứa trẻ bị mồ côi
cũng như kỳ thị và phân biệt đối xử (Bui và cộng
sự 2010).
Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi tiến hành
nghiên cứu là hai trong năm tỉnh có tỷ lệ nhiễm
HIV cao nhất cả nước. Năm 2005, phụ nữ nhiễm
1, 3
Viện Chiến Lược và Chính sách y tế
2,4
Trường Đại học Tổng hợp Copenhagen, Đan Mạch
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
38
4 đến tháng 11, 2007. Việc tiếp cận phụ nữ được
thông qua sự cộng tác với các trạm y tế, nơi cung
cấp dịch vụ chăm sóc tại nhà, giám sát các
trường hợp nhiễm HIV và thông qua mạng lưới
những người sống chung với HIV, nơi những
người nhiễm HIV được hỗ trợ để tiếp cận với các
dịch vụ chăm sóc và điều trị. Các cuộc phỏng
vấn cấu trúc được tiến hành ở những địa điểm
khác nhau do người phụ nữ lựa chọn: ở nhà của
họ, ở trạm y tế xã/phường hoặc ở trụ sở các câu
lạc bộ những người sống chung với HIV.
Phân tích thống kê
Phần mềm thống kê SPSS phiên bản 15.0
được sử dụng để phân tích số liệu. Các kết quả
của lần mang thai cuối cùng trước khi nhiễm
HIV và kết quả của lần mang thai đầu tiên sau
khi nhiễm HIV đã được tìm hiểu. ORs được tính
toán với nhóm phụ nữ nạo phá thai-biến phụ
thuộc so với nhóm phụ nữ sinh con. Cho dù phụ
nữ nhiễm HIV trước hoặc sau năm 2004, khi các
chương trình PLTMC và điều trị ARV trở nên
sẵn có, thời điểm nhiễm HIV có tác động đến
các biến khác trong nghiên cứu. Phân tích hồi
qui được thực hiện và tất cả các mối quan hệ
được trình bày qua ORs với khoảng tin cậy
95%.
KếT QUả
Phần lớn phụ nữ tham gia nghiên cứu ở trong
độ tuổi 25-29 (36,5%). Gần một nửa phụ nữ góa
chồng. Đa số phụ nữ tốt nghiệp tiểu học và trung
học cơ sở (37,9% và 32,1% tương ứng) và nhiều
người làm nghề buôn bán nhỏ hoặc lao động tự
do (40.9%). Phần lớn phụ nữ nói rằng họ bị
nhiễm HIV do quan hệ tình dục với chồng hoặc
bạn tình (80,3%). Tại thời điểm khảo sát, hơn
một nửa phụ nữ có một con hiện còn sống
(51,5%). Gần một nửa phụ nữ được điều trị
ARV và đa số (60,5%) chẩn đoán nhiễm HIV
sau 2004 khi các chương trình PLTMC và điều
trị ARV được triển khai rộng rãi ở Quảng Ninh
và Hải Phòng.
Khi được hỏi về kết quả lần mang thai cuối
cùng, 68% trong số 99 phụ nữ biết về tình trạng
nhiễm HIV của mình khẳng định đã phá thai,
ngược lại, chỉ có 22% trong 587 phụ nữ không
biết về tình trạng nhiễm của mình nói rằng họ đã
chấm dứt việc mang thai.
Trong số 99 phụ nữ mang thai khi đã nhiễm
HIV, 69 đã có thai trước 2004 và 30 sau 2004.
Trong số những phụ nữ mang thai trước 2004,
75% đã nạo phá thai, trong khi tỷ lệ này là 50%
trong số những phụ nữ mang thai sau năm 2004,
nghĩa là khi các dịch vụ PLTMC bắt đầu được
triển khai rộng rãi (Bảng 1).
Bảng 1: Kết quả mang thai của 99 phụ nữ nhiễm HIV trước khi có thai
theo thời điểm chẩn đoán
Chẩn đoán nhiễm HIV năm 2004
và trước đó
Chẩn đoán nhiễm HIV sau 2004
Sinh con
Nạo phá thai
17 (24,7)
25 (75,3)
15 (50,0)
15 (50,0)
hơn các phụ nữ làm nội trợ khoảng 4 lần. Các
phụ nữ được chẩn đoán nhiễm HIV năm 2004 và
trước đó-trước sự phổ biến của các chương trình
PLTMC nạo thai sau khi nhiễm cao gấp 3 lần
phụ nữ nhiễm HIV sau năm 2004.
Phần lớn phụ nữ mang thai ở thời kỳ đầu
(91%) khi họ nạo phá thai sau khi phát hiện
nhiễm. Lo sợ lây truyền HIV từ mẹ sang con là
nguyên nhân chủ yếu khiến người phụ nữ quyết
Mối quan hệ giữa kết quả mang thai và các
đặc điểm kinh tế xã hội của 99 phụ nữ mang thai
sau chẩn đoán nhiễm HIV được trình bày trong
Bảng 2. Tuổi, nghề nghiệp và thời điểm chẩn
đoán nhiễm HIV có mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê với nạo phá thai. Những phụ nữ 30 và
trên 30 tuổi có tỷ lệ nạo thai cao hơn 5 lần những
phụ nữ dưới 30 tuổi. Những phụ nữ buôn bán
nhỏ và lao động tự do có tỷ lệ nạo phá thai cao
Nghiên cứu chính sách
39
định chấm dứt việc mang thai không mong
muốn (74,6%), tiếp sau là tình trạng kinh tế khó
khăn (10.4%). Việc ra quyết định liên quan đến
thai nhi thường là quyết định của cả hai vợ
chồng (43,3%), tuy nhiên, gần một phần ba phụ
nữ khẳng định rằng họ tự quyết định. Hơn thế
nữa, cha mẹ cũng đóng vai trò đáng kể trong quá
trình ra quyết định này (16,4%).
Bảng 2: Các đặc trưng nhân khẩu xã hội của phụ nữ nạo phá thai
và phụ nữ sinh con sau khi chẩn đoán nhiễm HIV
Nạo thai
n = 67
Sinh con
n = 32
Nạo thai vs. sinh con
OR (95% CI)
Nạo thai vs. Sinh con
OR hiệu chỉnh (95%CI)
Tuổi
< 30
=>30
Tình trang hôn nhân
Số con còn sống
Độc thân / ly hôn
Kết hôn
Góa
Không có con
1 con
2 con trở lên
Điều trị ARV
Có
Không
Nghề nghiệp
Thất nghiệp
Buôn bán nhỏ/lao động tự do
Nông dân/công nhân/thợ thủ
công và cán bộ nhà nước
Thời điểm chẩn đoán HIV
dương tính
2004 và trước đó
sau 2004
38 (56,7)
29 (43,3)
27 (84,4)
5 (15,6)
1
4.12 (1.41-12.01)
1
5.44 (1.28-23.02)
9 (13,4)
32 (47,8)
26 (38,8)
1 (3,1)
18 (56,3)
13 (40,6)
1
0.20 (0.23-1.69)
0.22 (0.25-1.97)
1
0.13 (0.13-1.39)
0.13 (0.11-1.51)
13 (19,4)
40 (59,7)
14 (20,9)
4 (12,5)
20 (62,5)
8 (25,5)
1.63 (0.47-5.63)
1
0.88 (0.32-2.43)
1.38 (0.31-6.14)
1
0.35 (0.08-1.45)
34 (50,7)
33 (49,3)
16 (50,0)
16 (50,0)
1.03 (0.44-2.39)
1
1.12 (0.38-3.36)
1
14 (20,9)
34 (50,7)
19 (28,4)
17 (53,1)
7 (21,9)
8 (25,0)
1
5.90 (2.01-17.33)
2.88 (0.92-8.56)
1
3.61 (1.05-12.45)
2.27 (0.79-9.75)
52 (77,6)
15 (22,4)
17 (53,1)
15 (46,9)
3.06 (1.24-7.53)
1
2.96 (1.02-8.53)
1
Ninh có nguy cơ sai số chọn mẫu (selection bias)
do một số trường hợp nhiễm mới trong cộng
đồng chưa được đưa vào danh sách quản lý HIV.
Nghiên cứu này cũng chỉ ra nguy cơ sai số hồi
cứu (recall bias) do tập trung vào các sự kiện đã
xảy ra một vài năm trước đó. Tuy nhiên, nhiễm
HIV được cho là một sự kiện có tính chất quyết
định và không dễ quên nên hầu hết phụ nữ đều có
thể nhớ thời điểm chẩn đoán HIV và kết quả của
lần mang thai đầu tiên sau khi nhiễm HIV.
Quyết định nạo thai, nếu nhiễm HIV, rất phổ
BàN LUậN
Các phụ nữ trong nghiên cứu này thường nạo
phá thai sau khi phát hiện nhiễm HIV. Các yếu
tố nguy cơ có quan hệ với nạo phá thai là độ tuổi
30 hoặc trên 30, làm nghề buôn bán nhỏ/lao
động tự do và được chẩn đoán nhiễm HIV trước
năm 2004.
Một điểm mạnh trong nghiên cứu này là các
phụ nữ nhiễm HIV đã được xác định thông qua
các kênh khác nhau để có được cỡ mẫu lớn nhất.
Tuy nhiên, cách tiếp cận nhóm đích ở Quảng
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
40
biến trong nghiên cứu này, khi hai phần ba phụ
nữ mang thai nhiễm HIV lựa chọn nạo phá thai.
Phát hiện này có liên quan đến các nghiên cứu
khác với việc chỉ ra một xu hướng nạo phá thai
tương tự sau khi chẩn đoán nhiễm HIV. Một
nghiên cứu ở châu Âu được tiến hành năm 1993
cho thấy phụ nữ mang thai sau khi nhiễm HIV
có nguy cơ nạo phá thai cao hơn 1,8 lần so với
phụ nữ có thai trước khi phát hiện nhiễm HIV
(Van Benthem et al. 2000).
Thời điểm chẩn đoán nhiễm HIV có mối quan
hệ với quyết định nạo phá thai. Những phụ nữ có
kết quả xét nghiệm HIV dương tính trước khi
các chương trình PLTMC được triển khai rộng
rãi năm 2004 có xu hướng nạo phá thai cao hơn
so với các phụ nữ được chẩn đoán nhiễm HIV
sau năm 2004. Tương tự, một số nghiên cứu ở
các nước có thu nhập cao đã khẳng định tác
động của các chương trình PLTMC đối với kết
quả mang thai. Trong một nghiên cứu ở hai bệnh
viện miền nam nước Pháp từ 1985 đến 1997,
Bongain và cộng sự đã quan sát thấy tỷ lệ nạo
phá thai giảm từ 59,4% trước khi có các chương
trình can thiệp PLTMC xuống còn 37,5% về sau
(Bongain et al. 2002). Một nghiên cứu gần đây ở
ấn Độ đã phát hiện ra rằng cùng với các dịch vụ
PLTMC sẵn có, phụ nữ nhiễm HIV đã tự tin hơn
khi quyết định sinh con (Kanniappan et al.
2008).
Nghiên cứu này đã tìm ra mối quan hệ mạnh mẽ
giữa nghề nghiệp và nạo phá thai. Những phụ
nữ làm nghề buôn bán nhỏ hoặc lao động tự do
thường có xu hướng nạo phá thai. Có thể giải
thích cho hiện tượng này là do phụ nữ ưu tiên
kiếm tiền để mưu sinh nên họ thường lựa chọn
chấm dứt việc mang thai. Tuy nhiên, một phát
hiện có thể gây ngạc nhiên là những phụ nữ thất
nghiệp lại có xu hướng sinh con. Điều này có
thể phản á nh một thực tế là các phụ nữ không có
việc làm thường có vị thế thấp trong gia đình,
họ cảm thấy áp lực phải sinh con nhằm thỏa
mãn mong muốn của các thành viên khác
(Oosterhoff et al. 2008).
Để tạo điều kiện cho phụ nữ nhiễm HIV có được
sự lựa chọn hiểu biết liên quan đến sinh sản, họ
phải được tiếp cận miễn phí với chương trình
PLTMC ở ngay ở giai đoạn đầu, sau khi phát
hiện nhiễm. ảnh hưởng của chồng/bạn tình và
các thành viên gia đình khác cần được tính đến
khi tư vấn cho người phụ nữ nhiễm HIV.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Bongain A, Berrebi A, Mariné-Barjoan E et al (2002) Changing trends in pregnancy outcome among
HIV-infected women between 1985-1997 into Southern French university hospitals. European
Journal of Ostetrics and Gynecology and Reproductive Biology 104, 124-128.
2. Bui KC, Nguyen TTH, Rasch V & Gammeltoft T (2010). Induced abortion among HIV-positive
women in Nothern Vietnam: Exploring reproductive dilemmas. Culture, Health and Sexuality 12,
S41-S54.
3. Delvaux D & Nstlinger C (2007) Reproductive choice for women and men living with HIV:
Contraception, abortion and fertility. Reproductive Health Matters 15, 46-66.
4. Gammeltoft T (2007) Prenatal diagnosis in Postwar Vietnam: Power, Subjectivity and Citizenship.
American Anthropologist 109, 153-163.
5. Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS) (2008) 2008 Report on the global AIDS
epidemic.
Nghiên cứu chính sách
41
6. Kanniappan S, Jeyapaul MJ & Kalyanwala S (2008) Desire for motherhood: exploring HIV positive
women's desires, attention and decision-making in attaining motherhood. AIDS Care 20, 625-630.
7. Oosterhoff P, Anh NT, Hanh NTT, Yen PN, Wright P& Hardon A (2008) Holding the line: family
responses to pregnancy and the desire for a child in the context of HIV in Vietnam. Culture, Health &
Sexuality 10 (Suppl.1), 1-14.
8. United Nations General Assembly Special Session (UNGASS) (2008) Third country report on
following up to the declaration of commitment on HIV/AIDS. Hanoi.
9. Van Benthem BHB, De Vincenzi I, Delmas MC, Larsen C, Van den Hoek A & Prins M (2000)
Pregnancies before and after HIV diagnosis in a European cohort of HIV-infected women. AIDS 14,
2171-2178.
10. Vietnam Ministry of Health (VMOH) (2006) Report 149/BC-BYT: Five-year review workshop on
HIV/AIDS prevention and control in 20012005 and action plan for 20062010. Hanoi, Medical
Publishing House.
11. WHO, UNAIDS, UNICEF (2009) Towards universal access: Scaling up priority HIV/AIDS
interventions in the health sector. Progress report . WHO, Geneva.
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
42
Diễn đàn chính sách y tế
Chu trình chính sách
1
TS. Trần Văn Tiến
định cho việc có đưa một vấn đề về y tế vào kế
hoạch xây dựng giải pháp chính sách để giải
quyết hay không.
Sau khi vấn đề đã được lựa chọn đưa vào kế
hoạch xây dựng chính sách, các bước tiếp theo
của chu trình chính sách sẽ phân tích tìm
nguyên nhân của vấn đề (bước phân tích chính
sách policy analysis), xây dựng các phương á n,
các giải pháp chính sách để giải quyết vấn đề
(bước xây dựng policy instruments). Trong chu
trình chính sách, bước phân tích chính sách có
thể coi là bước quan trọng nhất. Phân tích chính
sách tốt đòi hỏi đội ngũ chuyên gia có trình độ
và kinh nghiệm, đòi hỏi thời gian và có đủ thông
tin.
Các phương án chính sách sẽ được công bố
xin ý kiến tham vấn của các bên liên quan, bao
gồm các chuyên gia, tổ chức nghiên cứu chính
sách, cơ quan quản lý y tế các cấp, các nhóm dân
cư theo khu vực địa lý, kinh tế xã hội, người
cung ứng dịch vụ vv (bước “tham vấn”
consultation). Bước tham vấn đảm bảo tập hợp
được ý kiến tham vấn của tất cả các bên liên
quan, từ các chuyên gia cho tới người hưởng lợi
(người dân và người cung ứng dịch vụ y tế) và
nhà quản lý, nhằm tập hợp các thông tin, bằng
chứng cần cho sự lựa chọn phương án chính
sách tối ưu.
Bước “phối hợp” bao gồm những hoạt động
thảo luận, đàm phán, tạo sự đồng thuận trong
các bộ, ngành liên quan nhằm đảm bảo sự đáp
ứng của tổ chức bộ máy, nhân lực và nguồn lực
tài chính do phương á n chính sách.
oạch định chính sách là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác H
quản trị. Chính sách y tế thuộc nhóm chính sách
công; chính sách công được xây dựng và triển
khai thực hiện nhằm các mục tiêu định trước,
cung cấp các giải pháp để giải quyết các vấn đề
xã hội. Chính sách được công bố bằng các hình
thức văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, về
những việc chính phủ sẽ làm hoặc sẽ không làm.
Có nhiều mô hình hoạch định chính sách,
trong đó mô hình “duy lý” (rationalist model)
được các đa số học giả cho là mô hình tối ưu.
Trong mô hình “duy lý”, quy trình xây dựng,
triển khai và thực hiện chính sách bao gồm nhiều
bước tuần tự, lặp lại nên được gọi là chu trình
chính sách (policy cycle). Chu trình chính sách
kinh điển bao gồm 5 bước, được các học giả
Australia chi tiết hóa thành 8 bước (xem hộp 1).
Chu trình chính sách được xây dựng dựa trên
quan điểm quá trình xây dựng và thực hiện các
chính sách công thường là một quá trình liên
tục, không có điểm kết thúc: mỗi chính sách
hiện hành có thể là sự tiếp nối hoặc phụ thuộc
vào một hay nhiều chính sách đã được ban hành
trước đó; chính sách hiện hành luôn cần được
điều chỉnh cho phù hợp với những biến đổi về
kinh tế, xã hội và văn hóa; một chính sách đang
thực hiện hôm nay có thể dẫn tới các chính sách
mới trong tương lai. Thực hiện tốt các bước
trong chu trình sẽ giúp cho chính sách được thiết
kế đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của chính
sách công: vì lợi ích công; bắt buộc thi hành; có
hệ thống; tập hợp các quyết định; liên đới; kế
thừa lịch sử và quyết định theo đa số.
Khởi đầu của mỗi chu trình chính sách là
bước xác định vấn đề (issue identification,
problem determination). Đây là bước quyết 1 Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Y tế, Bộ Y tế
43
Sau khi các phương á n chính sách được hoàn
thành với sự tham vấn của các bên liên quan, sự
đồng thuận của của các bộ, ngành, cơ quan có
thẩm quyền sẽ ra quyết định lựa chọn ban hành
một trong những phương án chính sách (bước
“quyết định chính sách” policy adoption). Hoạt
động giải trình, thuyết phục có vai trò quan
trọng đối với quyết định lựa chọn chính sách của
cơ quan có thẩm quyền.
Sau khi phương án chính sách được cơ quan
có thẩm quyền quyết định lựa chọn và ban hành,
chính sách được triển khai thực hiện.
Tuy là bước cuối cùng trong chu trình chính
sách, nhưng bước đánh giá chính sách vẫn có vai
trò đặc biệt quan trọng. Đánh giá chính sách,
nếu được một cách khoa học, khách quan, sẽ
cung cấp các thông tin cần thiết cho sự khởi đầu
của một chu trình chính sách mới: mọi bằng
chứng về ưu điểm, nhược điểm của chính sách
được tập hợp, phân tích, các vấn đề phát sinh sẽ
được phát hiện; kết quả đánh giá sẽ tạo cơ sở cho
việc điều chỉnh chính sách, hoặc xây dựng các
phương á n chính sách hoàn toàn mới.
Các học giả Harvard đề xuất khi xây dựng
chính sách y tế cần dựa trên khung lý thuyết 5
“nút” điều khiển của hệ thống y tế (“five control
knobs”, bao gồm các nút Tài chính - Cách thức
huy động nguồn tài chính cho y tế như thế nào, sử
dụng và phối hợp các cơ chế tài chính ra sao
nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng); nút
Phương thức chi trả - Lựa chọn và sử dụng
phương thức chi trả chi phí khám chữa bệnh cho
nhà cung ứng dịch vụ): nút Tổ chức hệ thống
cung ứng dịch vụ, nút Công cụ quản lý của Nhà
nước và nút Tuyên truyền thay đổi hành vi). Các
nút điều hành nói trên có tính chất quyết định đối
với hiệu quả hoạt động của các hệ thống y tế và
có thể điều chỉnh được bằng chính sách y tế. Do
vậy, để giải quyết các vấn đề chính sách, các giải
pháp chính sách cần can thiệp vào các “nút” đó.
Hộp 1. Chu trình chính sách chi tiết 8 bước của Brigdman và Davis.
Peter Bridgman và Glyn Davis (trong The Australian Policy Handbook) chia nhỏ 3
bước đầu của chu trình chính sách công nói trên thành 6 bước, tạo ra một chu trình chính sách 8
bước. Các bước trong chu trình chính sách theo nhóm học giả Australia nói trên bao gồm: 1)
Xác định vấn đề (identify issues); 2) Phân tích chính sách (policy analysis); 3) Xây dựng
phương án chính sách (policy instruments); 4) Tham vấn (consultation); 5) Điều phối
(coordination); 6) Quyết định (decision); 7) Thực hiện (implementation); 8) Đánh giá
(evaluation).
Sơ đồ chu trình chính sách 8 bước (Bridgman và Davis)
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
44
Xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng
Xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng
(evidence based policy) là cách tiếp cận giúp
cho các nhà hoạch định chính sách ban hành các
quyết định chính sách dựa trên các bằng chứng
khoa học tốt nhất được cung cấp ngay trong quá
2
trình xây dựng và thực hiện chính sách . Cách
tiếp cận xây dựng chính sách dựa trên bằng
chứng ngày nay đã trở thành phổ biến, bởi nó
giúp đảm bảo chính sách có hiệu quả tốt, đạt
được mục tiêu xác định trước.
Xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng sử
dụng những bằng chứng tin cậy nhất, đối lập với
phương pháp xây dựng chính sách dựa trên các
ý kiến chủ quan (opinion based policy), xuất
phát từ các kết quả nghiên cứu đơn lẻ, không
đảm bảo chất lượng nghiên cứu hoặc từ những
quan điểm, ước đoán chủ quan.
Tuy nhiên, không phải bằng chứng từ các
nghiên cứu nào cũng có đủ mức độ tin cậy để
làm cơ sở cho xây dựng chính sách do những
hạn chế trong thiết kế nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu và tập hợp, xử lý số liệu nghiên cứu.
Vì vậy, cần có sự phân tích bối cảnh nghiên cứu,
điểm mạnh, điểm yếu của mỗi nghiên cứu khi sử
dụng bằng chứng từ các nghiên cứu đó.
Việc xây dựng chính sách y tế không chỉ dựa
trên bằng chứng khoa học mà còn dựa trên kinh
nghiệm thực tiễn, nguồn lực, các giá trị xã hội và
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa.
Phân tích tác động chính sách
Phân tích tác động của chính sách (Regulatory
Impact Analysis - RIA) là công cụ quan trọng để
phân tích chính sách, đánh giá các giải pháp, các
lựa chọn chính sách. RIA được thực hiện lần đầu
tiên cuối thập kỷ 70. Hiện nay, tất cả các nước
khối OECD và nhiều nước đang phát triển đã sử
dụng công cụ này trong quá trình hoạch định
chính sách. ở nước ta, đánh giá tác động chính
sách trong quá trình hoạch định chính sách đã
được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008.
Nghiên cứu RIA phân tích điểm mạnh, điểm
yếu, phân tích chi phí cơ hội, phân tích chi phí
lợi ích, chi phí hiệu quả của các phương á n chính
sách khác nhau. Dựa trên kết quả đánh giá, báo
cáo RIA đề xuất được phương á n chính sách hợp
lý với chi phí thấp nhất. RIA cũng giúp tham vấn
với các nhóm lợi ích khác nhau liên quan đến
chính sách. RIA giúp liên kết và thống nhất
được các mục tiêu khác nhau của các chính sách
khác nhau (kinh tế, xã hội và môi trường); qua
đó, giúp đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của
chính sách nhà nước.
Kết luận
Ngày nay, việc á p dụng chu trình chính sách
là một hoạt động thường quy trong hoạch định
chính sách ở nhiều quốc gia phát triển trên thế
giới. Thực hiện nghiêm túc và trọn vẹn các bước
trong chu trình chính sách, từ bước xác định các
vấn đề chính sách để lên kế hoạch xây dựng
chính sách cho tới bước đánh giá chính sách đã
được triển khai thực hiện, với sự tham gia của tất
cả các bên liên quan và sự tham gia của các tổ
chức nghiên cứu tham vấn chính sách độc lập
trong phân tích, đánh giá chính sách sẽ giúp cho
công tác hoạch định chính sách đạt được hiệu
quả cao nhất.
2
Davies, P.T. 1999, 'What is Evidence-Based Education?',
British Journal of Educational Studies, 47, 2, 108-121: “an
approach that helps people make well informed decisions
about policies, programmes and projects by putting the best
available evidence from research at the heart of policy
development and implementation” .
i
World Health Organization, 2006. Health policy development:
a handbook for Pacific Islands practitioners, trg 20.
ii
Ramon Mallon, Cẩm nang thực hiện quá trình đánh giá dự báo
tác động pháp luật (RIA), Khuôn khổ hợp tác giữa GTZ và Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội, 2005, tr. 9-10
iii
World Health Organization, 2006. Health policy development:
a handbook for Pacific Islands practitioners
Diễn đàn chính sách y tế
45
Đảm bảo thuốc an toàn, hiệu quả và có
chất lượng.
Trên thực tế, các tiêu chí cụ thể cho việc lựa
chọn thuốc bao gồm: nhu cầu theo mô hình
bệnh tật, năng lực của nhân viên y tế, khả năng
tài chính, tính an toàn và hiệu quả của thuốc
theo ghi nhận trong các tài liệu, chất lượng, sinh
khả dụng và tính ổn định của thuốc, chi phí điều
4
trị . Trong các tiêu chí lựa chọn thuốc thiết yếu
do Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo cũng ghi rõ
cần lựa chọn thuốc dựa trên kết quả phân tích
5
chi phí hiệu quả . Như vậy có thể thấy khi chọn
thuốc bên cạnh các yếu tố về điều trị, yếu tố kinh
6
tế đóng vai trò rất quan trọng . Việc sử dụng các
bằng chứng về đánh giá kinh tế (economic
evaluation) đang ngày càng được chú trọng trên
thế giới. Xu hướng sử dụng các thông tin, kết
quả đánh giá kinh tế trong việc quyết định lựa
chọn thuốc hoặc can thiệp y tế ngày càng gia
Lựa chọn thuốc dựa trên bằng chứng đánh giá
kinh tế tổng quan từ tài liệu quốc tế
1
Nguyễn Khánh Phương
Tại sao lựa chọn thuốc cần dựa trên bằng
chứng đánh giá kinh tế dược
Trong hệ thống y tế, cùng với nhân lực,
thuốc và các sản phẩm y học, vắc-xin và trang
thiết bị y tế là yếu tố đầu vào quan trọng của
toàn bộ hệ thống (WHO, World Health Report
2000: Performance of Health System). Số liệu
thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới cho biết chi
tiêu cho thuốc chiếm tỷ lệ 25-66% tổng chi y tế
2
tại các quốc gia đang phát triển . Tại Việt Nam,
chi cho thuốc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn lực cho chăm sóc sức khỏe. Theo số liệu
Tài khoản Y tế Quốc gia năm 2007, chi cho
thuốc chiếm 40% tổng chi toàn xã hội cho y tế
(Bộ Y tế, Tài khoản y tế quốc gia 2007). Do đó,
việc quản lý cung ứng và sử dụng thuốc đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng
hiệu quả nguồn lực cho y tế nhằm mục tiêu
chăm sóc sức khỏe công bằng, hiệu quả và phát
triển. Trong chu trình quản lý cung ứng thuốc
do Tổ chức Y tế Thế giới và tổ chức
Management Sciences for Health (MSH) xây
dựng bao gồm bốn bước: chọn thuốc, mua
thuốc, cấp phát và sử dụng thuốc. Trong đó,
chọn thuốc là khâu đầu tiên, có vai trò rất quan
trọng, quyết định liệu việc cung ứng thuốc có
đáp ứng nhu cầu điều trị, ở mức chi phí hợp lý và
đảm bảo chất lượng, hiệu quả và an toàn.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, việc chọn thuốc
3
phải đảm bảo ba tiêu chí cơ bản chung là :
Đảm bảo chi phí thuốc ở mức chi trả được
và có tính chi phí - hiệu quả để sử dụng tối ưu
nguồn tài chính cho CSSK;
Đáp ứng nhu cầu điều trị phù hợp với mô
hình bệnh tật;
1
Trưởng Khoa Nghiên cứu Kinh tế Y tế, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế.
2
WHO (2010), 10 facts on essential medicines, accessing to
ndex.html on June 22nd, 2011
3
WHO (2004), Management of drugs at health centre level,
Africa
4
David Peter (2006), The drug management cycle, The John
Hopkins University
5
WHO (2002), The selection of essential medicines, Geneva
6
Anthony Savelli, Harald Schwarz, Andrei Zagorski, Alexander
Bykov (1996), Manual for the development and Maintenance
of hospital drug formularies
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
46
Diễn đàn chính sách y tế
tăng,đặcbiệttrongcácchươngtrình BHYT quốc
gia hoặc chương trình CSSK do nhà nước tài trợ.
Tại Mỹ, nhu cầu đối với các thông tin về chi phí -
hiệu quả của thuốc ngày càng phổ biến. Trong
gói kích thích kinh tế 787 tỷ đô la năm 2009,
chính phủ Mỹ đã dành 1,1 tỷ đô la cho việc
nghiên cứu so sánh hiệu quả của các thuốc, can
7
thiệp y tế .
Đánh giá Kinh tế dược là gì?
Theo Hiệp hội quốc tế về Kinh tế Dược và
Nghiên cứu Kết quả (IPSOR), Kinh tế dược
(pharmacoeconomics) là khoa học đánh giá các
sản phẩm dược cũng như các can thiệp y tế về
các khía cạnh lâm sàng, kinh tế và nhân văn để
cung cấp thông tin cho nhà quản lý, cung cấp
dịch vụ y tế và bệnh nhân nhằm đạt kết quả tối
ưu và phân bổ nguồn lực CSSK theo cách tốt
8
nhất . Kinh tế dược là sự kết hợp các môn khoa
học khác nhau như kinh tế y tế, đánh giá lâm
sàng, phân tích nguy cơ, đánh giá công nghệ,
dịch tễ học Đánh giá kinh tế là nền tảng cơ
bản của kinh tế dược. Các kỹ thuật chủ yếu của
Kinh tế dược bao gồm: phân tích giảm thiểu chi
phí (cost minimization), phân tích chi phí hiệu
quả (cost-effectiveness), phân tích chi phí thỏa
dụng (cost utility), phân tích chi phí lợi ích (cost
benefit), phân tích chi phí của ốm đau/bệnh tật.
Về bản chất, các kỹ thuật này đều là sự so sánh
giữa hai lựa chọn có thể thay thế nhau (hai
thuốc, hai liệu pháp điều trị, hai biện pháp can
thiệp y tế) về mặt kết quả và tổng chi phí điều trị.
Tùy theo cách đo lường kết quả mà các kỹ thuật
mang tên gọi khác nhau. Trong các kỹ thuật này,
phân tích chi phí hiệu quả và phân tích chi phí
thỏa dụng là hai phương pháp thường được sử
dụng trong các hướng dẫn kinh tế dược được ban
9
hành tại nhiều nước . Do đó, có thể nói kinh tế
dược chính là kinh tế y tế hoặc nghiên cứu kết
quả y tế trong lĩnh vực dược.
Vai trò và ứng dụng của đánh gíá kinh tế
dược trong lựa chọn thuốc
Vai trò của đánh giá kinh tế được phát huy
khá rõ rệt trong lĩnh vực dược. Một trong những
ứng dụng quan trọng của đánh giá Kinh tế dược
là cung cấp thông tin về khía cạnh hiệu quả kinh
tế làm cơ sở cho việc lựa chọn thuốc thanh toán,
xây dựng danh mục thuốc bệnh viện, hướng dẫn
điều trị.Trong những năm gần đây, Kinh tế dược
phát triển nhanh chóng, được ứng dụng rộng rãi
và có những đóng góp quan trọng cho việc đưa
ra các quyết định chăm sóc y tế trong cả khu vực
công lập và tư nhân. Số liệu từ Trung tâm nghiên
cứu về phát triển thuốc Tufts cho thấy các
nghiên cứu kinh tế dược hiện chiếm khoảng 1%
tổng chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) và
nhu cầu đối với các nghiên cứu này đang gia
tăng nhanh chóng. Tại Australia và Canada, việc
xem xét chấp nhận một thuốc mới vào danh mục
thuốc quốc gia phụ thuộc khá lớn vào kết quả
nghiên cứu kinh tế dược. Các nước có thể có
cách tiếp cận khác nhau sử dụng đánh giá Kinh
tế dược trong xác lập mức giá thuốc thanh toán
và quyết định chi trả. Trong một nghiên cứu gần
đây tại 9 nước châu Âu, một phần ba số người
được hỏi đến từ các cơ quan của chính phủ, bác
sỹ, dược sỹ bệnh viện, quản lý bệnh viện, quỹ
đau ốm và các công ty dược phẩm cho biết có sử
dụng các kết quả từ nghiên cứu kinh tế y tế để
đưa ra các quyết định xử trí công việc (Hoffman
2000). Tại Mỹ mặc dù nghiên cứu kinh tế dược
không nằm trong số các yêu cầu bắt buộc khi
nộp hồ sơ đăng ký thuốc mới tại Cơ quan quản lý
thuốc và thực phẩm, nhưng Kinh tế dược có một
ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn thuốc
đưa vào các chương trình CSSK của nhà nước và
chương trình BHYT tư nhân. Trong một nghiên
7
International Society for Pharmacoeconomic and Outcome
Research, access to website at
8
International Society for Pharmacoeconomic and Outcome
Research, access to website at
9
Surachat Ngorsuraches (2008), Defining typres of economic
evaluation, Journal of Medical Association of Thailand, Vol 91
Suppl.2
47
cứu gần đây, 88% các nhà quản lý từ 15 chương
trình chăm sóc sức khỏe toàn nước Mỹ cho rằng
các thông tin kinh tế dược rất hữu ích. Các
chương trình ngày càng gia tăng việc đòi hỏi
hoặc khuyến khích các công ty dược cung cấp
các thông tin kinh tế dược khi muốn được
chương trình chi trả các thuốc mới. Chính phủ,
cơ quan BHYT có thể sử dụng các kết quả
nghiên cứu chi phí - hiệu quả để từ chối hoặc hạn
chế chi trả các thuốc hoặc can thiệp y tế quá tốn
10
kém . Đây chính là lý do gây ra sự bùng nổ các
nghiên cứu về kinh tế dược tại các công ty dược
của Mỹ. Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước,
sử dụng các thông tin chi phí - hiệu quả là một
chiến lược tiếp thị quan trọng của các công ty
dược để giành quyền cung cấp thuốc cho các
chương trình chăm sóc sức khỏe được quản lý
tập trung (HMO). Năm 1994, tính bình quân
mỗi công ty dược phẩm tại Mỹ đã tiến hành 24
nghiên cứu Kinh tế dược.
Kết quả của các nghiên cứu Kinh tế dược có ý
nghĩa quan trọng trong việc đưa ra quyết định sử
dụng nguồn lực một cách khôn ngoan, công
bằng và hiệu quả. Chính vì vậy, các nghiên cứu
này cần phải được thực hiện theo các chuẩn mực
nhất định đảm bảo tính khoa học, tin cậy. Nhiều
nước đã ban hành Hướng dẫn đối với việc tiến
hành các nghiên cứu Kinh tế dược. Năm 2004,
Tony Tarn và Marilyn Smith đã tiến hành rà soát
các Hướng dẫn nghiên cứu Kinh tế dược của 33
nước trong đó có 8 nước yêu cầu kết quả nghiên
cứu kinh tế dược trong hồ sơ thuốc mới khi nộp
cho cơ quan có thẩm quyền để xét đưa vào danh
sách thanh toán, 20 nước không bắt buộc đưa
vào hồ sơ nhưng có dùng kết quả phân tích kinh
tế dược khi lựa chọn thuốc đưa vào chương trình
thanh toán. Tại châu á có Thái Lan, Trung
Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Israen đã ban
hành Hướng dẫn này, trong đó Thái Lan yêu cầu
phân tích Kinh tế dược trong hồ sơ nộp để đưa
thuốc mới vào chương trình thanh toán BHYT từ
năm 2008.
Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy rõ xu hướng
sử dụng kết quả các nghiên cứu đánh giá Kinh tế
dược trong lựa chọn thuốc thanh toán trong
chương trình BHYT hoặc CSSK do nhà nước tài
trợ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sử
dụng nguồn kinh phí vốn hạn hẹp cho CSSK./.
10
AMCP Guide to Pharmaceutical Payment methods, 2009
update (version 2.0), Journal of Managed care Pharmacy
Supplement (2009), Vol 15 No 6a
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nao_pha_thai_cua_phu_nu_nhiem_hiv_o_quang_ninh_va_hai_phong.pdf