Quyền tác giả kích thích sự sáng tạo,
tạo ra khả năng thúc đẩy phát triển văn hoá
và kinh tế tri thức tại các nước đang phát
triển. Quyền tác giả không chỉ mang lại sự
giàu có cho những cá nhân tài năng tại các
nước đang phát triển, đóng góp nguồn thu
nhập nhiều hơn cho nền kinh tế đất nước mà
trong một số trường hợp, nhờ tham gia các
công ước quốc tế về quyền tác giả, nhiều
nước đang phát triển đã gặt hái được những
thành công đáng kính nể, mà tiêu biểu là
ngành công nghiệp phần mềm của ấn Độ.
Từ năm 1995 đến 2002, thu nhập của ngành
này đã tăng từ 787 triệu đô la lên 10,2 tỷ đô
la, trong đó xuất khẩu phần mềm tăng từ
489 triệu đô la lên 7,8 tỷ đô la và mang lại
việc làm cho khoảng 520.000 người.
Quyền tác giả mang lại cơ hội phát triển
lành mạnh và nâng cao khả năng cạnh tranh
quốc tế của các ngành công nghiệp dựa trên
quyền tác giả. Tại các nước đang phát triển,
việc bảo hộ quyền tác giả tại thị trường trong
nước sẽ tạo ra cơ may để các nhà kinh
doanh phát huy tài năng nhằm phát triển
lành mạnh các ngành công nghiệp dựa trên
quyền tác giả, như các ngành xuất bản, điện
ảnh, âm nhạc và công nghiệp phần mềm có
địa vị quan trọng trong nền kinh tế tri thức.
Việc bảo hộ quyền tác giả có thể giúp kích
thích phát triển và nâng cao khả năng cạnh
tranh quốc tế của các ngành công nghiệp
dựa trên cơ sở quyền tác giả tại các nước
đang phát triển.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nền kinh tế tri thức - Khái niệm, tiêu chí phản ánh và nhận dạng phát triển ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 10 - Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005
Nền kinh tế tri thức
Khái niệm, tiêu chí phản ánh vμ nhận dạng phát triển ở n−ớc ta
TS. Nguyễn Trần Quế
Viện Kinh Tế và Chính Trị Thế Giới
I. Khái niệm
Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế
dựa vào tri thức (KBE - Knowledge - Based
Economy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri
thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công
nghệ cao. OECD (Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế) dịch nghĩa: "Nền kinh tế tri thức
là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp
vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri
thức và thông tin" (OECD 1996)
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái
Bình D−ơng (APEC) định nghĩa: "Nền kinh tế
tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình
sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở
thành động lực chính cho tăng tr−ởng, cho
quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất
cả các ngành kinh tế” (APEC 2000).
Ngân hàng Thế giới (WB, 2000) đánh
giá "Đối với các nền kinh tế tiên phong trong
nền kinh tế Thế giới, cán cân giữa hai yếu tố
tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri
thức. Tri thức thực sự đã trở thành yếu tố
quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn
cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố t− liệu sản
xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh
tế phát triển nhất về công nghệ ngày nay
thực sự đã dựa vào tri thức".
Trong vài năm gần đây, nổi lên một sự
công nhận rộng rãi về vai trò ngày càng tăng
của tri thức trong các quy trình sản xuất và
sự chuyển biến của các nền kinh tế công
nghiệp thành nền kinh tế dựa trên cơ sở tri
thức (KBE).
Trong KBE, khả năng sáng tạo và sử
dụng tri thức là điều quyết định cho sự thành
công của tất cả các lĩnh vực, trong đó có cả
các ngành "Công nghệ cao" và các ngành
truyền thông.
Một sự phát triển mới có liên quan mật
thiết với xu thế phát triển nền kinh tế tri thức,
đó là xu thế đang nổi lên hiện nay trong số
các nền kinh tế thành viên APEC để h−ớng
tới nền kinh tế mới (New Economy). Trong
hầu hết các năm gần đây các nền kinh tế
APEC phát triển nhất, đạt nhiều thành tích
cao nhất và tăng tr−ởng mạnh mẽ, với tỷ lệ
thất nghiệp và mức lạm phát thấp, ổn định.
Một yếu tố then chốt trong thành tích đáng
ghi nhận đó là sự gia tăng nhanh tốc độ tăng
năng suất lao động và năng suất các nhân
tố tổng hợp - Total Factor Productivity- TFP).
Ví dụ nh− ở Mỹ, việc đạt đ−ợc thành tích
tăng năng suất lao động mạnh mẽ chính một
phần là nhờ vào việc tăng nguồn vốn và đặc
biệt là nguồn vốn công nghệ thông tin và
truyền thông. Bên cạnh đó, vai trò của công
nghệ thông tin và mạng Intemet tăng lên
nhanh chóng đã dẫn đến sự xuất hiện của
đầu t− t− bản vô hình, trong đó có sự sáng
tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, thiết kế
lại công tác quản lý và các quy trình sản
xuất.
Về khái niệm, thuật ngữ "Nền kinh tế
mới" đ−ợc xác định theo các quan điểm khác
nhau. Trong khi một số nhà phân tích cho
rằng khái niệm này đồng nghĩa với khái niệm
nền kinh tế tri thức, thì một số công trình
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005 - Trang 11
nghiên cứu khác cho thấy rằng thuật ngữ
"Nền kinh tế mới" liên quan trực tiếp hơn đến
sự tăng tr−ởng bền vững và phi lạm phát với
mức độ đầu t− cao hơn vào công nghệ thông
tin truyền thông (ICT) và tái cơ cấu lại nền
kinh tế, nh− chúng ta đã từng chứng kiến ở
Mỹ vào cuối những năm 90. Nền kinh tế mới
chú trọng vào từng vai trò riêng của ICT và
vào sự tái cơ cấu trong tăng năng suất của
tổng yếu tố trong khi KBE nhấn mạnh đến
tầm quan trọng ngày càng tăng của tri thức
trong mọi hoạt động kinh tế.
Từ năm 2000, Uỷ ban kinh tế (EC) của
APEC đã tiến hành thực hiện các nghiên cứu
đánh giá về nền kinh tế tri thức và xu thế
đang nổi lên hiện nay về sự phát triển của
nền kinh tế mới tại các quốc gia thuộc
APEC, trong đó phân tích các đặc tính của
KBE theo 4 khía cạnh then chốt: môi tr−ờng
kinh doanh, hệ thống đổi mới, phát triển
nguồn nhân lực (HRD) và cơ sở hạ tầng ICT.
Nhận thấy rằng, sự tăng tr−ởng kinh tế sẽ trở
nên bền vững nhất đối với các nền kinh tế
phát triển theo h−ớng KBE, các nghiên cứu
của EC đã tiến hành đánh giá về phạm vi,
mà trong đó có thể áp dụng các đặc tính của
KBE cho các nền kinh tế APEC và tiến hành
xem xét kỹ l−ỡng môi tr−ờng chính sách mà
các nền kinh tế APEC đã và nên tuân theo
nhằm đạt đ−ợc năng suất lao động cao hơn
của một "kiểu mẫu nền kinh tế mới".
EC đã tiến hành nghiên cứu 16 tr−ờng
hợp điển hình, trong số 12 nền kinh tế APEC
để phát hiện ra những bằng chứng kinh tế vĩ
mô và vi mô minh hoạ về những ích lợi và
những thách thức nảy sinh trong khi theo
đuổi các chính sách cơ cấu, mà nếu thiếu sự
áp dụng các chính sách này trong các lĩnh
vực nh− ICT, vốn con ng−ời, đổi mới và tinh
thần kinh doanh, thì sẽ không mang lại hiệu
quả cho việc khích lệ sự chuyển biến cần
thiết để đ−a các nền kinh tế APEC h−ớng tới
hoà nhập vào nền kinh tế mới toàn cầu. Bên
cạnh đó các nghiên cứu của EC cũng xem
xét khả năng hợp tác chặt chẽ hơn trong
khối APEC để giúp các n−ớc thành viên phát
triển theo h−ớng nền kinh tế mới và nền kinh
tế tri thức.
Trong các nghiên cứu của mình, Uỷ ban
Kinh tế APEC đã tiến hành phân tích một
loạt các vấn đề quan trọng liên quan tới các
động lực thúc đẩy tăng tr−ởng trong nền kinh
tế mới và coi đó là các khía cạnh cần l−u ý
trong các chính sách quốc gia của các n−ớc
thành viên APEC để h−ớng tới nền kinh tế
mới. Đó là các vấn đề: Vai trò của đổi mới
trong ngành dịch vụ trong nền kinh tế mới;
sự đóng góp của ICT cho sự tăng năng suất
lao động; các ch−ơng trình nghiên cứu và
triển khai (R-D) quốc gia và đóng góp của R-
D đối với tăng tr−ởng kinh tế, các kinh
nghiệm tổ chức và các chiến l−ợc kinh
doanh; và tầm quan trọng của tinh thần kinh
doanh trong nền kinh tế mới.
Tri thức thể hiện ở các ý t−ởng, sáng
chế, phát minh quy trình, trong sản xuất
và đời sống. Trên ph−ơng diện hành vi có
thể quan sát đ−ợc thì tri thức là khả năng
của một cá nhân hay một nhóm ng−ời trong
việc h−ớng dẫn, thuyết phục những ng−ời
khác thực hiện một quy trình tạo ra sự
chuyển hoá.
Trên ph−ơng diện kinh tế, tri thức là t−
liệu sản xuất. Nó đ−ợc sinh ra, trao đổi và sử
dụng sản xuất để tạo ra sản phẩm và dịch
vụ. Tri thức phải đ−ợc đánh giá, có giá trị và
đ−ợc mua bán trên thị tr−ờng.
Đo l−ờng và đánh giá tri thức là một
việc khó. Vì nó là sản phẩm vô hình, trừu
Trang 12 - Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005
t−ợng, chuyển tải bằng thông tin (vì vậy, có
ng−ời quan niệm nền kinh tế tri thức là nền
kinh tế thông tin) và trong kinh tế thị tr−ờng,
giá cả phải đ−ợc hình thành và xác định
thông qua thị tr−ờng, qua thoả thuận giữa
ng−ời mua và ng−ời bán. Muốn thế, tri thức
phải xác định đ−ợc sở hữu và giá trị đ−ợc
đảm bảo trong xã hội thực thi nghiêm ngặt
sở hữu trí tuệ. Nh− vậy, xã hội đ−ợc tổ chức
quản lý cao theo ph−ơng thức thị tr−ờng, đặc
biệt là thị tr−ờng khoa học công nghệ là một
cột trụ của kinh tế tri thức.
Tri thức có đ−ợc khi con ng−ời rút ra
kinh nghiệm trong sản xuất và đời sống, học
hỏi ng−ời khác và từ hoạt động nghiên cứu,
triển khai khoa học công nghệ. Vì vậy, một
cột trụ nữa của nền kinh tế tri thức là nguồn
nhân lực với chất l−ợng cao.
Tri thức đi vào sản xuất chủ yếu qua
công nghệ cao. Công nghệ cao vừa là kết
tinh của tri thức, vừa là công cụ, ph−ơng tiện
của tri thức tác động vào kinh tế và đời sống
nhân dân. Vì vậy, ng−ời ta cho rằng công
nghệ cao là cốt lõi của nền kinh tế tri thức.
Chúng ta có thể coi công nghệ cao là một
cột trụ của nền kinh tế tri thức.
Một cột trụ nữa của nền kinh tế tri thức
là mạng l−ới cơ sở hạ tầng phát triển, đặc
biệt là mạng B−u chính viễn thông, Intemet.
Nh− vậy, nền kinh tế tri thức có 4 cột trụ
là Công nghệ cao, nhân lực chất l−ợng cao,
cơ sở hạ tầng kinh tế và thị tr−ờng.
Trong một xã hội, một quốc gia, nền
kinh tế tri thức tồn tại song song với kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và có khi
chúng kết hợp, trộn lẫn với nhau trong một
sản phẩm. Nền kinh tế Mỹ, có ng−ời đánh
giá là 20% thuộc kinh tế tri thức, nông
nghiệp chỉ còn 1,3%, là quốc gia dẫn đầu
thế giới hiện nay về nền kinh tế tri thức. Xã
hội loài ng−ời về ph−ơng diện kinh tế đi từ
trồng trọt, chăn nuôi lên tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp đại cơ khí và nay bắt
đầu chuyển sang kinh tế tri thức. Công ty
Microsoft là công ty điển hình về nền kinh tế
tri thức.
Nền kinh tế tri thức đ−ợc phản ảnh, đo
l−ờng, định l−ợng bằng thống kê nh− thế
nào; đây là vấn đề mới đặt ra cho các nhà
kinh tế, đặc biệt là các nhà thống kê.
II. Tiêu chí phản ánh nền kinh tế tri thức
1. Vấn đề tính giá trị tăng thêm vμ giá trị
sản xuất của nền kinh tế tri thức.
Vấn đề mấu chốt là vạch ra khái niệm
sản phẩm của nền kinh tế tri thức. Sản phẩm
có hàm l−ợng chất xám cao là sản phẩm của
nền kinh tế tri thức. Nh−ng hàm l−ợng cao là
bao nhiêu và chất xám đo bằng gì?
Công nghiệp phần mềm mà sản phẩm
là các ch−ơng trình máy tính có giá trị gia
tăng th−ờng trên 80% đ−ợc coi là bộ phận
cấu thành của nền kinh tế tri thức. Tuy
nhiên, những sản phẩm (vật chất và dịch vụ)
có giá trị tăng thêm trên 50% nh−ng đ−ợc
tạo ra bởi đội ngũ lao động cao cấp, chất
l−ợng cao (đại học trở lên) là sản phẩm của
nền kinh tế tri thức.
Sản phẩm của R - D có thể đ−ợc coi là
sản phẩm của nền kinh tế tri thức. Nh− vậy,
tổng khối l−ợng giá trị thực hiện (trao đổi
mua bán) trên thị tr−ờng khoa học Công
nghệ có thể tính vào tổng giá trị sản xuất
của nền kinh tế tri thức.
Các khu Công nghệ cao tạo ra các
sáng chế, phát minh và sản phẩm có hàm
l−ợng chất xám cao có thể coi là thuộc khu
vực kinh tế tri thức. Giá trị tăng thêm của các
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005 - Trang 13
khu Công nghệ cao đ−ợc tính trong GDP
của khu vực kinh tế tri thức.
Các doanh nghiệp nào thuộc về khu
vực kinh tế tri thức? Có thể điều tra để lập
danh sách các doanh nghiệp này, tính giá trị
tăng thêm của họ trong năm, tổng hợp riêng
để tính GDP của khu vực nền kinh tế tri thức
trong năm.
Các doanh nghiệp đa ngành, đa lĩnh
vực có thể điều tra để xác định tỷ lệ giá trị
sản xuất thuộc nền kinh tế tri thức trong giá
trị sản xuất của họ để từ đó tính ra tỷ lệ và
khối l−ợng giá trị tăng thêm đóng góp của họ
vào khu vực nền kinh tế tri thức.
2. Các tiêu chí phản ánh sự chuyển dịch
sang nền kinh tế tri thức.
- Tổng năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP)
- Tỷ lệ đóng góp của R - D trong GDP.
- Tổng chi tiêu xã hội cho R - D, trong
đó phần của Nhà n−ớc.
- Giá trị chuyển giao công nghệ. Các
khoản chi trả trực tiếp hoặc tiền bản quyền
để mua công nghệ trong toàn nền kinh tế
- Tỷ lệ chi tiêu cho R - D khu vực doanh
nghiệp.
- Tổng số lao động tham gia vào hoạt
động R - D.
- Số l−ợng các tổ chức khoa học và
Công nghệ, R - D.
- Tổng số ng−ời tiếp cận Internet.
- Tỷ lệ tăng tr−ởng thuê bao điện thoại
và số điện thoại thuê bao tính cho 1000 dân.
- Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển thị
tr−ờng khoa học công nghệ.
- Các chỉ tiêu phản ánh sự hình thành
và phát triển th−ơng mại điện tử.
- Các chỉ tiêu đào tạo nguồn nhân lực
chất l−ợng cao, trong đó đào tạo công nghệ
thông tin.
- Doanh số của ngành công nghệ thông
tin, công nghiệp phần mềm và tỷ lệ tăng
tr−ởng của chúng qua các năm.
III. Nhận dạng nền kinh tế tri thức ở n−ớc ta
Trong bối cảnh chung toàn cầu của
những chuyển dịch mang tính cơ cấu nh−
cuộc cách mạng công nghệ thông tin và
truyền thông, những tiến bộ nhanh chóng và
v−ợt bậc của khoa học - công nghệ, làn
sóng toàn cầu hoá kinh tế dâng mạnh thúc
đẩy cạnh tranh trên quy mô toàn cầu, những
thay đổi trong nền kinh tế văn hoá, lối sống
và thị yếu của ng−ời tiêu dùng khi thu nhập
tăng lên, các quốc gia đang chuẩn bị cho
mình khung chính sách để thích ứng với bối
cảnh mới đó.
Phân tích chiến l−ợc điều chỉnh thực tế
của các quốc gia, chúng ta thấy các −u tiên
chính sách chung sau: xây dựng một mạng
viễn thông phát triển, c−ớc phí rẻ và hiệu
quả; tăng năng suất thông qua các ngành
kinh doanh có hàm l−ợng thông tin và giá trị
tăng thêm cao; tăng tính cạnh tranh của
khu vực công nghiệp và th−ơng mại; hỗ trợ
khu vực dịch vụ thông tin; đầu t− tập trung
cho giáo dục và đào tạo (đặc biệt là giáo
dục kỹ thuật) kết hợp với các ch−ơng trình
học tập suốt đời và nâng cao kỹ năng; nâng
cao mặt bằng dân tri, ng−ời dân đ−ợc thông
tin tốt và tham gia sâu rộng hơn vào nền
dân chủ, các chiến l−ợc ủng hộ và bảo tồn
các giá trị văn hoá.
Trang 14 - Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005
Ngày nay, các n−ớc đi sau hoàn toàn
có thể gặt hái những cơ may của làn sóng
công nghệ mới. Họ hoàn toàn có khả năng
bắt kịp nhanh chóng các n−ớc đi tr−ớc bởi
chính tính −u việt của làn sóng công nghệ
mới hiện nay. Là n−ớc đi sau, họ không cần
phải phát minh lại những gì sẵn có. Nhiệm
vụ chính của các n−ớc đi sau là mở cửa tri
thức vμ ý t−ởng từ các n−ớc đi tr−ớc. Vấn đề
đặt ra ở đây là: Sản xuất ra công nghệ mới
lμ rất quan trọng song đối với vị thế của một
n−ớc đi sau năng lực "bắt ch−ớc" vμ hấp thụ
công nghệ lμ điều sống còn. Chính vì vậy,
hai chính sách mở cửa thị tr−ờng và đầu t−
cho giáo dục phải là hai trụ cột của khung
chính sách cho các n−ớc đang phát triển đón
bắt xu thế kinh tế tri thức. Mở cửa thị tr−ờng
giúp đẩy nhanh quá trình chuyển giao tri
thức còn giáo dục sẽ giúp nâng cao năng lực
hấp thụ tri thức của một quốc gia. Nh− vậy,
trong thời đại kinh tế tri thức, lợi thế so sánh
của n−ớc đi sau nằm trong khả năng ứng
dụng công nghệ nguồn từ các n−ớc đi tr−ớc
chứ không phải là khả năng phát minh ra
các công nghệ đó.
Đối với n−ớc ta, chính sách ch−a h−ớng
mạnh sang hình thành và phát triển nền kinh
tế tri thức.
- Môi tr−ờng chính sách vĩ mô của Việt
Nam ch−a khuyến khích các ngành công
nghiệp có hàm l−ợng tri thức cao. Việt Nam
ch−a hình thành đ−ợc một cơ chế hợp tác
hiệu quả giữa giới khoa học và giới doanh
nghiệp.
- Việt Nam ch−a có một hệ thống định
chế tài chính đầu t− vào các hoạt động
nghiên cứu công nghệ và đổi mới. Trong nền
kinh tế tri thức, nguồn tài chính là điều kiện
tiên quyết để biến ý t−ởng thành tri thức,
thành công nghệ, do đó Việt Nam cần xây
dựng đ−ợc các mô hình quỹ đầu t− cho hoạt
động sản sinh ra tri thức, đặc biệt là loại hình
quỹ đầu t− mạo hiểm.
- Các n−ớc đi sau đang trông chờ vào
mô hình khu công nghệ cao hay v−ờn −ơm
doanh nghiệp công nghệ nh− là cứu cánh
trong làn sóng cách mạng công nghệ hiện
nay. Việc xây dựng thành công một khu
công nghệ cao không chỉ là vấn đề hạ tầng
cơ sở hay một vài chính sách −u đãi ngành
manh mún. Trên thế giới có rất nhiều khu
công nghệ cao hay các v−ờn −ơm doanh
nghiệp song thành công không nhiều vì tính
đồng bộ của môi tr−ờng thể chế, chính sách
cũng nh− các điều kiện văn hoá - xã hội
ch−a cao. Yếu tố quyết định thành công của
một khu công nghệ cao là mối quan hệ hợp
tác giữa các trung tâm nghiên cứu triển khai
và doanh nghiệp, nguồn tài chính đầu t−,
môi tr−ờng văn hoá trong kinh doanh và tính
hiệu lực của quá trình chuyển giao công
nghệ, tri thức, chứ không phải là diện tích
đất rộng hay một vài −u đãi ban đầu.
- Trong thời đại kinh tế tri thức, lợi thế
cạnh tranh chuyển từ tài nguyên thiên nhiên,
đất đai, lao động nhiều sang tri thức, kỹ
năng và tính sáng tạo. Tất cả các yếu tố này
chỉ có thể tìm thấy trong con ng−ời, do đó
con ng−ời trở thành tài sản quý nhất của xã
hội, miễn là tạo ra của cải cho xã hội đó.
Công nhân tri thức, vì thế, trở thành yếu tố
sản xuất hàng đầu quyết định sức cạnh
tranh của mỗi quốc gia (The Economist
2001). Đất n−ớc nào thu hút đ−ợc nhiều
công nhân tri thức sẽ dẫn đầu trong quá
trình chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức. ở
đây, chính sách nhập c− đóng vai trò quyết
định. Đối với Việt Nam, giữ đ−ợc "chất xám"
đã khó, thu hút đ−ợc "chất xám" thế giới còn
khó gấp bội. Nếu làm đ−ợc điều này, Việt
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005 - Trang 15
Nam sẽ rút ngắn đáng kể quá trình Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá nền kinh tế, tiếp
cận nhanh hơn vào nền kinh tế tri thức.
- Tăng c−ờng công tác bảo hộ quyền
tác giả và phát triển nhanh các ngành kinh
tế dựa vào quyền tác giả. Việt Nam đã tham
gia Công −ớc Bern về quyền tác giả từ ngày
26-10-2004. Tuy nhiên, vấn đề là phải thực
thi có hiệu lực, hiệu quả làm cơ sở phát triển
các ngành dựa vào tri thức.
Chỉ riêng tại Mỹ, các ngành công
nghiệp dựa trên quyền tác giả đã tạo ra hơn
460 tỷ đô la vào GDP và xuất khẩu tới 80 tỷ
đô la mỗi năm. Trong nền kinh tế tri thức
toàn cầu các ngành công nghiệp dựa trên
quyền tác giả không những đóng góp phần
quan trọng vào tổng thu nhập quốc dân mà
còn cung cấp "nguyên liệu trí tuệ, đầu vào
cho khoa học, giáo dục, truyền bá kiến thức,
thúc đẩy tiến bộ xã hội. Thông qua hỗ trợ
sáng tạo, các ngành này thúc đẩy sản xuất
gia tăng mạnh mẽ và tạo ra nhiều việc làm.
Quyền tác giả đã nổi lên nh− một ph−ơng
tiện quan trọng nhất để điều chỉnh thị tr−ờng
các sản phẩm trí tuệ trên phạm vi quốc tế.
Quyền tác giả kích thích sự sáng tạo,
tạo ra khả năng thúc đẩy phát triển văn hoá
và kinh tế tri thức tại các n−ớc đang phát
triển. Quyền tác giả không chỉ mang lại sự
giàu có cho những cá nhân tài năng tại các
n−ớc đang phát triển, đóng góp nguồn thu
nhập nhiều hơn cho nền kinh tế đất n−ớc mà
trong một số tr−ờng hợp, nhờ tham gia các
công −ớc quốc tế về quyền tác giả, nhiều
n−ớc đang phát triển đã gặt hái đ−ợc những
thành công đáng kính nể, mà tiêu biểu là
ngành công nghiệp phần mềm của ấn Độ.
Từ năm 1995 đến 2002, thu nhập của ngành
này đã tăng từ 787 triệu đô la lên 10,2 tỷ đô
la, trong đó xuất khẩu phần mềm tăng từ
489 triệu đô la lên 7,8 tỷ đô la và mang lại
việc làm cho khoảng 520.000 ng−ời.
Quyền tác giả mang lại cơ hội phát triển
lành mạnh và nâng cao khả năng cạnh tranh
quốc tế của các ngành công nghiệp dựa trên
quyền tác giả. Tại các n−ớc đang phát triển,
việc bảo hộ quyền tác giả tại thị tr−ờng trong
n−ớc sẽ tạo ra cơ may để các nhà kinh
doanh phát huy tài năng nhằm phát triển
lành mạnh các ngành công nghiệp dựa trên
quyền tác giả, nh− các ngành xuất bản, điện
ảnh, âm nhạc và công nghiệp phần mềm có
địa vị quan trọng trong nền kinh tế tri thức.
Việc bảo hộ quyền tác giả có thể giúp kích
thích phát triển và nâng cao khả năng cạnh
tranh quốc tế của các ngành công nghiệp
dựa trên cơ sở quyền tác giả tại các n−ớc
đang phát triển.
Ngày nay, trong bối cảnh cạnh tranh
quyết liệt của nền kinh tế tri thức toàn cầu,
nắm giữ sở hữu quyền tác giả sẽ có đ−ợc −u
thế đáng kể để cạnh tranh và phát triển. Để
nhận đ−ợc các lợi ích tối đa từ quyền tác giả,
các n−ớc đang phát triển cần đáp ứng các
yêu cầu quan trọng sau:
Thứ nhất, phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền tác giả. Thứ hai, cần
nhanh chóng xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng của các ngành công nghiệp dựa trên cơ
sở quyền tác giả. Các tổ chức quốc tế nh−
Tổ chức Sở hữu tri tuệ thế giới (WIPO), Tổ
chức Văn hoá khoa học và giáo dục Liên
Hợp Quốc (UNESCO) cùng Ngân hàng thế
giới (WB) đều cho rằng, để nhận đ−ợc lợi ích
tối đa từ việc khai thác th−ơng mại các sản
phẩm trí tuệ, điều quan trọng là các n−ớc
đang phát triển cần xây dựng, hoàn thiện cơ
sở hạ tầng các ngành công nghiệp dựa trên
quyền tác giả. Nếu các điều kiện này đ−ợc
đáp ứng, các (tiếp theo trang 21)
Thông tin Khoa học Thống kê số 2/2005 - Trang 21
tiêu giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của các ngành
kinh tế từ năm 2005.
Tμi liệu tham khảo
1. Chế độ báo cáo thống kê định kỳ tài
khoản quốc gia áp dụng đối với Cục Thống kê
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung −ơng, ban hành
theo Pháp lệnh kế toán và Thống kê theo Quyết
định số 75/2003/QĐ-TCTK ngày 15 tháng 01
năm 2003 của Tổng cục tr−ởng Tổng cục Thống
kê, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội - 2003.
2. Ph−ơng pháp biên soạn Hệ thống tài
khoản quốc gia ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội - 2003
3. Chế độ báo cáo thống kê định kỳ Vốn đầu
t− và xây dựng áp dụng đối với Cục Thống kê tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung −ơng, ban hành theo
Pháp lệnh kế toán và Thống kê theo Quyết định
số 733/2002/QĐ-TCTK ngày 15 tháng 11 năm
2002 của Tổng cục tr−ởng Tổng cục Thống kê,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội - 2002
4. Chế độ báo cáo thống kê định kỳ Th−ơng
nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch lữ hành và
dịch vụ áp dụng đối với Cục Thống kê tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung −ơng, ban hành theo Pháp
lệnh kế toán và Thống kê theo Quyết định số 734
/2002/QĐ-TCTK ngày 15 tháng 11 năm 2002 của
Tổng cục tr−ởng Tổng cục Thống kê, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội - 2002.
5. Ph−ơng án điều tra và báo cáo thống kê
giá bán sản phẩm của ng−ời sản xuất hàng công
nghiệp (kèm theo Quyết định số 650 /2004/QĐ-
TCTK ngày 5 tháng 9 năm 2004 của Tổng cục
tr−ởng Tổng cục Thống kê, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội - 2004.
6. Ph−ơng án điều tra và báo cáo thống kê
giá bán sản phẩm của ng−ời sản xuất hàng
nông, lâm, thủy sản (kèm theo Quyết định số 650
/2004/QĐ-TCTK ngày 5 tháng 9 năm 2004 của
Tổng cục tr−ởng Tổng cục Thống kê, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội - 2004.
7. Vũ Văn Tuấn - Chuyên đề khoa học:
“Ph−ơng pháp tính giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm
theo giá cơ bản của các ngành sản xuất vật chất”.
Nền kinh tế tri thức Khái niệm, tiêu chí. (tiếp theo trang 15)
n−ớc đang phát triển sẽ nhận đ−ợc nhiều lợi
ích hơn từ quyền tác giả. Chẳng hạn nếu có
cơ sở vật chất hiện đại cho hoạt động xuất
bản và ghi băng đĩa thì các công ty tại các
n−ớc đang phát triển sẽ dễ dàng tham gia
cạnh tranh và v−ơn ra thị tr−ờng quốc tế
Tμi liệu tham khảo
- OECD (1996): "The Knowledge-based
Economy” , OECD, pari.
- OECD (1999): "Toward Knowledge-based
economy: Facts and Figures”, OECD, paris.
- OECD (2001): "The New Economy:
Beyond the Hype”, OECD, Paris.
- World Bank (1999): "Knowledge for
Development , World Development Report.
- APEC (2000): "Toward the Knowledge-
based Economy.
- APEC (2001): "The New Economy in APEC”
- Joseph E. Stiglitz (1998): "Towards a New
Paradigm for Development: Strategies, Pohcies,
and Processes, Raul Prebisch Lecture at
UNCTAD, Geneva.
- Joseph E. Stiglitz (1999): "Public Policy for
a Knowledge Economy”, Centerfor Econo-
micpolicy Research(cepr), DTI, london, UK.
- John Houston & Peter Sheehan (2000): "A
Pnmary on the Kowledge Economy , Center for
Strategic Economic Studies (CSES), Victoria
University, Australia.
- Lester Thurow (2000): "Creating Wealth”,
Nicholas Brealey Pubhshing, - Ngô Quang, Tùng
(2000): "Xu thế kinh tê tri thức”, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- Damel Cohen và Michèle Debonneuil
(2001): "Nền kinh tế mới, ch−ơng trình Diễn đàn
kinh tê” việt-pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nen_kinh_te_tri_thuc_khai_niem_tieu_chi_phan_anh_va_nhan_dan.pdf